Tài liệu Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những thách thức và cơ hội

©2017 Ngân hàng Thế giới và ILRI, FAO, Canada, ADB, CIRAD, Australia (Các Đối tác Phát triển)  
1818 H Street NW  
Washington DC 20433  
Telephone: 202-473-1000  
Báo cáo này là sản phẩm của các cán bộ thuộc Ngân hàng Quốc tế về Tái thiết và Phát triển/Ngân hàng Thế giới và các  
đối tác phát triển có tên nêu trên. Các kết quả tìm hiểu, các giải thích và kết luận đưa ra trong báo cáo này không phản  
ánh quan điểm chính thức của Ban Giám đốc điều hành Ngân hàng Thế giới hoặc các chính phủ mà họ đại diện hoặc của  
các đối tác phát triển nói trên.  
Ngân hàng Thế giới và các đối tác phát triển không đảm bảo tính chính xác của các dữ liệu trong báo cáo này. Đường biên  
giới, màu sắc, tên gọi và các thông tin khác biểu hiện trên các bản đồ trong báo cáo này không hàm ý bất kỳ đánh giá nào  
của Ngân hàng Thế giới hoặc của các đối tác phát triển về vị thế pháp lý của bất kỳ vùng lãnh thổ nào và cũng không thể  
hiện bất kỳ sự ủng hộ hay chấp nhận nào của Ngân hàng Thế giới hay của các đối tác phát triển về các đường biên giới đó.  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam  
Không gì có thể hoặc được coi là có thể giới hạn hoặc xóa bỏ quyền ưu tiên và miễn trừ của Ngân hàng Thế giới, tất cả  
các quyền này đều được đặc biệt duy trì.  
Những Thách Thức và Cơ Hội  
Tất cả các câu hỏi liên quan đến bản quyền và giấy phép phải được gửi về:  
Văn phòng Vụ xuất bản, Ngân hàng Thế giới  
1818 H Street NW, Washington  
DC 20433, USA  
Fax: 202-522-2652  
Thiết kế bìa: Công ty 5S Consulting and Media  
Giới thiệu  
Nhóm chuyên gia của Ngân hàng Thế giới, các nhà tài trợ  
và các đối tác phát triển ở Việt Nam nhận được yêu cầu từ  
Chính phủ Việt Nam trong việc đưa ra khuyến nghị xây  
dựng năng lực an toàn thực phẩm (ATTP). Bản tóm tắt  
chính sách này là kết quả của một chuỗi các nỗ lực hợp tác  
giữa các bên, bao gồm thảo luận với các tổ chức chính phủ  
ở cấp trung ương và địa phương, khảo sát thực địa tại các  
trang trại, các doanh nghiệp thực phẩm nông sản, các chợ  
thực phẩm và một hội nghị bàn tròn tổ chức vào ngày 7-8  
tháng 1 năm 2016. Báo cáo tóm tắt chính sách này dựa vào  
các tài liệu sẵn có cũng như các tài liệu và báo cáo tổng  
quan được các đối tác xây dựng1.  
nghiệp và chuyên gia xem xét, góp ý, bản báo cáo tóm tắt  
chính sách này sẽ được nhóm chuyên gia của Ngân hàng  
Thế giới thông qua và làm cơ sở để gửi tới Chính phủ Việt  
Nam. Phân tích này được thực hiện theo khung công cụ do  
Ban Thương mại và Cạnh tranh của Ngân hàng Thế giới  
công bố trong Cải cách An toàn Thực phẩm năm 20142.  
Với 8 cấu phần chính, bộ công cụ được sử dụng như là  
một bảng kiểm toàn diện giúp định hướng bước khởi đầu  
và cách thức để xác định ưu tiên trong quá trình cải cách  
ATTP.  
Báo cáo tóm tắt chính sách này đi kèm và được bổ trợ từ  
một báo cáo kỹ thuật phân tích sâu hơn, trình bày các bằng  
chứng và khung phân tích cho các khuyến nghị đưa ra. Do  
đó, báo cáo tóm tắt chính sách này tập trung vào một số  
lĩnh vực về xây dựng năng lực ATTP mà theo các chuyên  
gia, các thành viên của nhóm nghiên cứu và các đại biểu  
tham dự hội nghị cho là vấn đề cần ưu tiên và cần có các  
hành động chính sách trọng yếu.  
Mục tiêu của bản tóm tắt chính sách nhằm đưa ra các lựa  
chọn và khuyến nghị dành cho Chính phủ Việt Nam nhằm  
tăng cường năng lực quản lý ATTP. Bản tóm tắt chính sách  
trình bày các thông tin hiện có, phân tích khung chính sách  
và thể chế về ATTP, thảo luận các khuyến nghị và gợi ý  
về các hoạt động cho các bước tiếp theo. Chúng tôi kỳ  
vọng rằng sau khi được các đối tác phát triển, các bạn đồng  
1
2
Có tài liệu dẫn chiếu  
IC/Business_Environment/Food%20Safety%20Toolkit-%20Guid-  
ing%20Principles%20of%20Food%20Safety%20Reform.pdf  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Trang  
5
tất cả các nhóm thu nhập trong cộng đồng. Gia tăng mức  
tiêu thụ thịt (đặc biệt là thịt lợn), sữa, trứng xảy ra với tốc  
độ nhanh nhất so với các nước trong khu vực. Theo Báo  
cáo Phát triển Việt Nam3, mức tiêu thụ cá và một số thực  
phẩm chế biến sẵn cũng gia tăng đáng kể. Trong khi đó,  
thói quen mua thực phẩm nhìn chung vẫn giữ theo truyền  
thống. Người tiêu dùng thường thích mua thịt mới giết mổ,  
các thực phẩm tươi sống bán ở chợ hơn ở siêu thị (mặc dù  
một vài nghiên cứu gần đây cho thấy người tiêu dùng cũng  
ngày càng tin tưởng vào các thực phẩm bán ở siêu thị). Tốc  
độ thâm nhập của các siêu thị vào thị trường ở Việt Nam là  
thấp nhất so với các nước khác trong khu vực4. Năng lực  
của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm nông nghiệp  
cũng thấp hơn so với một số đối thủ cạnh tranh trong khu  
vực. Xu hướng “siêu thị hoá” ở nhiều quốc gia đã dần loại  
bỏ hình thức kinh doanh truyền thống và quy mô nhỏ và  
tạo điều kiện áp dụng các thực hành và tiêu chuẩn ATTP  
hiện đại hơn. Đặc biệt là một số công ty thực phẩm quốc  
tế với các nhãn hàng dẫn đầu về tên tuổi ở các siêu thị đã  
áp dụng các thực hành ATTP và tác động tới ngành kinh  
doanh các sản phẩm nông nghiệp thông qua các thực hành  
cải thiện ATTP và thậm chí gia tăng lợi nhuận, cũng như  
giúp củng cố ngành công nghiệp chế biến nông sản.  
Những ảnh hưởng này chưa xảy ra ở Việt Nam, hay đúng  
hơn là đang diễn ra nhưng với tốc độ rất chậm. Báo cáo  
này không khuyến khích xu thế “siêu thị hoá” nhưng ghi  
nhận quá trình phát triển ở Việt Nam là khác với các nước  
khác, do đó các chính sách về ATTP có thể không theo  
cách tiếp cận như ở các nước khác, nơi đã hình thành hệ  
thống bán lẻ chính thống và ngành công nghiệp chế biến  
sản phẩm nông sản cũng phát triển mạnh hơn.  
Giới thiệu chung và bối cảnh  
Báo cáo Phát triển Việt Nam của Ngân hàng Thế giới  
gần đây dự báo rằng trong 2 thập kỷ tới, ngành nông  
nghiệp-thực phẩm sẽ tiếp tục đóng vai trò chính trong nền  
kinh tế của quốc gia và đời sống người dân. Sự phát triển  
của ngành này phần lớn sẽ bị chi phối bởi đô thị hoá và  
sự gia tăng của tầng lớp trung lưu, với sự phân hoá trong  
giới người tiêu dùng và những thay đổi về xu hướng dinh  
dưỡng và khẩu phần ăn. Điều này sẽ thay đổi ngành nông  
nghiệp-thực phẩm từ chỗ chú trọng vào các sản phẩm xuất  
khẩu sang ngành công nghiệp thực phẩm tập trung vào  
giá trị gia tăng. Trong bối cảnh đó, cải thiện an toàn trong  
chuỗi cung cấp thực phẩm sẽ không chỉ mở ra thị trường  
mới và gia tăng tính cạnh tranh của các sản phẩm thực  
phẩm của Việt Nam, mà còn bảo vệ người tiêu dùng trong  
nước và đem lại các lợi ích to lớn đối với sức khoẻ cộng  
đồng.  
tiện truyền thông đại chúng đưa dồn dập các tin bài, báo  
cáo về các vấn đề ATTP làm cộng đồng hết sức hoang  
mang và đặt ra áp lực cho Chính phủ cần có hành động  
cải thiện vấn đề ATTP. Để đáp ứng với những mối quan  
tâm này, Chính phủ đã xem xét và cải thiện hệ thống kiểm  
soát ATTP. Chính phủ giảm số bộ chịu trách nhiệm quản  
ATTP từ 6 bộ liên quan xuống còn 3 bộ và định hướng  
lại năng lực kiểm soát ATTP đối với thực phẩm xuất khẩu  
sang phát triển hệ thống quản lý bao gồm cả chuỗi cung  
cấp thực phẩm trong nước. Tuy nhiên, những thay đổi gần  
đây đem lại cải thiện không đáng kể về ATTP và chưa  
đảm bảo toàn diện để giải quyết vấn đề. Để tiếp nối những  
thành quả đạt được, có một số lĩnh vực mà Việt Nam có  
thể học hỏi từ các thực hành và kinh nghiệm quốc tế và cần  
điều chỉnh cho phù hợp thực tế vì một số yếu tố tác động  
và điều kiện ở Việt Nam khác với ở các nước khác.  
Như đã đề cập ở trên, người tiêu dùng Việt Nam nhìn  
chung ưa thích thực phẩm tươi sống, chưa qua chế biến  
và có một chế độ dinh dưỡng tốt cho sức khoẻ. Tuy nhiên,  
tầng lớp trung lưu (đặc biệt ở các thành phố) đang gia tăng  
nhu cầu về các thực phẩm chế biến sẵn, có thể ăn ngay  
mà không qua nấu nướng. Điểm thú vị là sự đóng góp của  
ngành nông nghiệp cho nền kinh tế của Việt Nam gia tăng  
cùng với sự gia tăng của nền kinh tế. Xu hướng này trái  
với các nước khác khi trở thành nước thu nhập trung bình  
thì đóng góp của ngành nông nghiệp cho nền kinh tế quốc  
dân lại giảm xuống. Công nghiệp chế biến thực phẩm tại  
Việt Nam hiện chưa chưa phát triển nhanh như các nước  
khác. Phần lớn hoạt động chế biến thực phẩm dựa vào các  
doanh nghiệp và cơ sở sản xuất quy mô vừa và nhỏ ở các  
địa phương. Điều này có nghĩa là hoạt động chế biến thực  
ATTP là mối quan tâm lớn trong những năm gần đây. Cả  
cộng đồng và chính phủ Việt Nam đều quan tâm tới tính  
toàn vẹn của chuỗi cung cấp thực phẩm và khả năng cung  
cấp thực phẩm an toàn tới người tiêu dùng. Các phương  
Những xu hướng tiêu dùng thực phẩm ở Việt Nam đã có  
thay đổi lớn trong thập kỷ gần đây và những thay đổi này  
vẫn sẽ tiếp tục xảy ra trong thời gian tới. Thay đổi lớn nhất  
là sự gia tăng về mức độ đa dạng hoá thực phẩm tiêu thụ ở  
3
Ibid.  
Ibid.  
4
6
Trang  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Trang  
7
phẩm được thực hiện tại hàng trăm ngàn doanh nghiệp,  
cơ sở sản xuất khác nhau và do đó rất khó, hoặc thậm  
chí không thể giám sát, quản lý ATTP sử dụng bằng các  
phương pháp truyền thống. Thực tế này cũng gây khó khăn  
cho việc phát triển các chương trình cấp giấy chứng nhận  
hay các tiêu chuẩn do khối tư nhân xây dựng, như cách  
tiếp cận đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia trên  
thế giới và đã thành công trong việc đảm bảo ngành công  
nghiệp thực phẩm tuân theo các quy định về ATTP ở một  
số nước khác với mức quản trị nhà nước ở cấp cao. Cấp  
chứng nhận và áp dụng các tiêu chuẩn theo truyền thống  
là quá tốn kém đối với những người sản xuất quy mô nhỏ  
và mặc dù có một số cách tiếp cận khác (ví dụ chứng nhận  
nhóm) nhưng những giải pháp này hiện cũng chưa được  
sử dụng rộng rãi.  
chính sách có thể áp dụng để đảm bảo an toàn cho chuỗi  
suản xuất thực phẩm trong quá trình diễn ra những thay  
đổi lớn trong vài thập kỷ tới. Nhiều lựa chọn chính sách  
liên quan và các khuyến nghị đưa ra dưới đây là dựa vào  
kinh nghiệm thành công từ các quốc gia khác trong đối  
phó với các vấn đề ATTP tương tự và quan trọng nhất là từ  
một số kinh nghiệm của Việt Nam.  
Tóm tắt bằng chứng về các mối nguy  
và nguy cơ an toàn thực phẩm  
Có bằng chứng khoa học cho thấy nhiễm bẩn thực  
Các thông điệp chính cho chính sách công  
phẩm ở Việt Nam có thể đang xảy ra trên diện rộng  
như đã được chứng minh bằng các nghiên cứu khoa  
học. Nhiễm bẩn thực phẩm xảy ra ở tất cả các giai đoạn  
trong chuỗi giá trị. Đặc biệt các nghiên cứu của Viện  
nghiên cứu chăn nuôi quốc tế (ILRI) đã chỉ ra sự nhiễm  
bẩn Salmonella, Escherichia coli và các tác nhân sinh học  
và hóa học khác trong thực phẩm. Các kết quả ở Việt Nam  
cũng tương đồng với các điều tra về ATTP ở Châu Á, Châu  
Phi và theo các điều tra và nghiên cứu đó thì có một tỉ lệ  
lớn thực phẩm sản xuất trong nước không đạt tiêu chuẩn  
cơ bản về ATTP.  
Nguy cơ về bệnh do thực phẩm không an toàn là  
một thực tế, mặc dù chưa ở mức nghiêm trọng.  
Nguy cơ đối với sức khỏe cấp tính lớn nhất là do  
nhiễm bẩn vi sinh vật, tiếp theo đó là các nguy cơ do  
sử dụng quá mức chất hóa học và nhiễm bẩn độc tố.  
Việt Nam chưa rơi vào tình huống khủng hoảng về  
ATTP theo nghĩa y tế công cộng, mặc dù nhận thức  
của cộng đồng thì rất lo lắng về thực phẩm không  
an toàn và các phương tiện truyền thông đại chúng  
thì nói rất nhiều về những lo lắng đó.  
Bên cạnh một số điểm đặc thù riêng thì hệ thống thực  
phẩm ở Việt Nam cũng có chung những điểm tương đồng  
với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Đó là hoạt động  
sản xuất dựa vào hàng triệu nông dân nuôi trồng ở quy mô  
nhỏ, thường lạm dụng hoá chất, các loại kháng sinh và  
chất kích thích tăng trưởng để đạt năng suất cao hơn và để  
nông sản có các đặc điểm được người tiêu dùng ưa chuộng  
hơn vì phần lớn nông dân dựa vào nguồn thu từ nông  
nghiệp như là nguồn thu nhập chính đảm bảo cuộc sống.  
Trong những năm vừa qua, có nhiều sáng kiến nghiên cứu  
ở Việt Nam đã được thực hiện, như đánh giá nguy cơ và  
các mối nguy ATTP. Các sáng kiến này được hỗ trợ bởi các  
chương trình tài trợ trong nước và quốc tế; đã xây dựng  
một cộng đồng nghiên cứu có thể xác định và dự báo một  
cách khoa học một số mối nguy ATTP và tác động của  
chúng tới y tế công cộng. Phần lớn các sáng kiến này được  
hỗ trợ bởi các chương trình, dự án khác nhau và cung cấp  
thông tin khoa học độc lập về sự tồn tại và tác động của  
Cộng đồng lo lắng rằng việc các biện pháp kiểm  
soát dọc theo chuỗi thực phẩm chưa đạt được kết  
quả như mong đợi. Chính sách công cần chủ động  
đáp ứng các mối quan tâm của cộng đồng.  
Trong khi còn thiếu các dữ liệu tổng thể, các kết  
quả nghiên cứu và kinh nghiệm quốc tế sẽ giúp định  
hướng chính sách công; tuy nhiên việc thu thập các  
thông tin, dữ liệu đầy đủ vẫn cần được thực hiện.  
Báo cáo này đề xuất cách Việt Nam có thể chuẩn bị đối  
phó với các thách thức mới về ATTP và các giải pháp  
8
Trang  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Trang  
9
các mối nguy an toàn thực phẩm. Ví dụ dự án nghiên cứu  
PigRisk của ILRI và các nghiên cứu gần đây của FAO và  
MARD đã đưa ra bằng chứng rõ ràng và đưa ra kết luận  
cần thiết về kiểm soát các mối nguy ATTP. Các thông tin  
cụ thể về các nghiên cứu này được trình bày trong Phần 4  
của bản báo cáo kỹ thuật Quản lý nguy cơ ATTP tại Việt  
Nam: Những thách thức và cơ hội.  
hành sản xuất tốt, bảo quản và xử lý chế biến tốt cũng có  
thể làm giảm các nguy cơ tới sức khỏe con người.  
nhận các vụ dịch hay các vụ ngộ độc thực phẩm với nhiều  
người mắc.  
và hiệu quả, có thể dẫn tới hệ quả suy giảm niềm tin của  
người tiêu dùng vào hành động của Chính phủ và chính  
sách công. Tuy nhiên, các chính sách công phải phân biệt  
giữa cuộc khủng hoảng ATTP và cuộc khủng hoảng truyền  
thông. Xét về khía cạnh Y tế công cộng thì hiện chưa xảy  
ra khủng hoảng ATTP tại Việt Nam, nhưng chính sách  
công phải chủ động trong việc khôi phục niềm tin của công  
chúng về ATTP và Chính phủ đang làm tất cả để có thể  
đảm bảo ATTP.  
Lòng tin của người tiêu dùng bị ảnh hưởng nghiêm  
trọng bởi các báo cáo từ phương tiện truyền thông đại  
chúng về thực phẩm bị nhiễm bẩn. Năm 2015, một cuộc  
điều tra do USAID2 hỗ trợ, đã chỉ ra rằng an toàn thực  
phẩm là một trong hai vấn đề được người dân ưu tiên nhất,  
được quan tâm hơn cả vấn đề giáo dục, chăm sóc y tế hay  
quản trị nhà nước. Một điều tra quy mô lớn khác được thực  
hiện năm 2010 cũng đã chỉ ra rằng người dân bi quan về  
tình hình ATTP ở Việt Nam: với 43% người được hỏi cảm  
thấy vấn đề ATTP ngày càng nghiêm trọng hơn trong 10  
năm qua, trong khi đó chỉ 22% không cảm thấy như vậy.  
Người dân thành phố, người có thu nhập cao và giới trẻ lo  
ngại vấn đề ATTP nhiều hơn so với người dân ở nông thôn  
và người có thu nhập thấp.  
Theo số liệu báo cáo của Cục An toàn Thực phẩm, trong 4  
năm (2012-2015) tỉ lệ nguyên nhân gây ra các vụ ngộ độc  
thực phẩm cao nhất là do vi sinh vật (với 42%), tiếp theo  
là độc tố tự nhiên (28%) và hóa học (4%), trong khi đó các  
vụ không rõ nguyên nhân chiếm 26%. Nếu tính riêng loại  
thực phẩm là nguyên nhân của các vụ ngộ độc này thì phổ  
biến nhất là thủy sản, sau đó là nấm độc. Các nghiên cứu  
từ các nước (trong đó có Mỹ và Châu Âu) với hệ thống báo  
cáo y tế công cộng đầy đủ hơn nhiều gợi ý rằng chỉ một  
tỉ lệ thấp bệnh do thực phẩm từng được ghi nhận như các  
vụ ngộ độc thực phẩm. Do đó, rất khó để ngoại suy từ các  
dữ liệu sẵn có hạn chế ở Việt Nam, nhưng có thể nói rằng  
số liệu thống kê theo báo cáo là thấp hơn nhiều so với tỷ  
lệ mắc bệnh ngộ độc thực phẩm xảy ra trong thực tế. Tuy  
nhiên, đó cũng là những thông tin hữu ích trong việc tìm  
hiểu một số yếu tố nguy cơ của các vụ ngộ độc liên quan  
tới ATTP.  
Các nghiên cứu độc lập, như là nghiên cứu của ILRI1, dựa  
trên việc tổng quan tài liệu, cũng như thu thập và phân  
tích hàng chục nghìn mẫu, đã chỉ ra khoảng 10-40% thực  
phẩm bị nhiễm bẩn với các tác nhân vi sinh vật và ký sinh  
trùng khác nhau, mà các tác nhân này là nguyên nhân tiềm  
ẩn gây bệnh do thực phẩm. Kim loại nặng, hóa chất và dư  
lượng kháng sinh cũng đã được xác định là vượt ngưỡng  
cho phép. Ví dụ: 30% thực phẩm nhiễm bẩn Salmonella  
(67 nghiên cứu); 7% thịt lợn nhiễm sán (9 nghiên cứu);  
30% mẫu thịt lợn có dư lượng kháng sinh (3 nghiên cứu).  
Trong khi còn thiếu các kết quả kiểm soát tính tuẩn thủ  
toàn diện từ nguồn của các cơ quan quản lý nhà nước, các  
báo cáo nghiên cứu khoa học có lẽ là nguồn thông tin đáng  
tin cậy nhất để đánh giá thực trạng ATTP của các sản phẩm  
tiêu thụ ở thị trường trong nước.  
Các quan sát thấy rằng người tiêu dùng có xu hướng  
quan tâm lo lắng nhiều hơn đối với thực phẩm nhiễm  
bẩn hóa chất và độc tố hơn là nhiễm bẩn với các mối  
nguy vi sinh vật. Ngoài ra, các vụ ngộ độc với nhiều người  
mắc thường được quan tâm nhiều hơn so với các vụ nhỏ lẻ,  
mặc dù hầu hết gánh nặng là do các ca ngộ độc thực phẩm  
xảy ra rải rác trong cộng đồng. Nhiều người cho rằng thói  
quen chế biến trong gia đình và các phương pháp chế biến  
thực phẩm có thể làm giảm tác động của nhiễm bẩn vi  
sinh vật trong thực phẩm. Ở Việt Nam, các hộ gia đình  
thường rửa rau, quả và thịt rất cẩn thận trước khi chế biến  
và tiêu thụ. Tuy nhiên, các dữ liệu nghiên cứu gần đây và  
các thông tin có sẵn chỉ ra rằng mối nguy sinh học (thông  
qua vệ sinh kém, nhiễm bẩn, ô nhiễm chéo, thói quen xấu)  
có khả năng gây tác động tới sức khỏe nhiều nhất và có thể  
xảy ra trong tiêu thụ thực phẩm tại các hộ gia đình. Việc  
công khai thông tin về các vụ dịch gần đây theo báo cáo  
Mặc dù kết quả từ các kết quả nghiên cứu có vẻ như  
đáng báo động, nhưng có rất ít hoặc không có bằng  
chứng khoa học để đánh giá đúng những gánh nặng  
của bệnh do thực phẩm. Dữ liệu công khai của các bệnh  
gây ra do thực phẩm không an toàn là rất hạn chế. Các  
vụ ngộ độc thực phẩm mà có nhiều người bị ảnh hưởng  
thì được truyền thông chú ý nhiều, ngay sau đó thì các cơ  
quan quản lý nhà nước quan tâm và vào cuộc. Tuy nhiên,  
trong thực tế, các sự kiện như vậy chỉ là phần nổi của tảng  
băng chìm. Các phương tiện truyền thông thường chỉ ghi  
Chính sách công phải phân biệt giữa an toàn thực  
phẩm và các cuộc khủng hoảng niềm tin của người tiêu  
dùng. Tình hình hiện nay ở Việt Nam - ATTP nhận được  
sự quan tâm đáng kể của truyền thông và cũng là mối quan  
tâm lớn của Chính phủ - chứng tỏ rằng công chúng đang  
nghiêm túc quan tâm đến vấn đề ATTP. Các mối quan tâm  
của công chúng, nếu không giải quyết đầy đủ, kịp thời  
Tuy nhiên, những kết quả này không có nghĩa là thực phẩm  
có chứa mối nguy sinh học và hóa học là có thể gây bệnh.  
Rửa và chế biến thức ăn đúng cách có thể giảm thiểu nguy  
cơ liên quan đến các mối nguy đã trình bày ở trên. Thực  
10 Trang  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Trang 11  
Bảng 1. Các lý do bị từ chối các sản phẩm nông nghiệp thực phẩm nhập khẩu từ Việt Nam vào Liên minh Châu  
Âu, Mỹ và Nhật Bản, 2002-2010  
của các nguồn thông tin chính thức và các cuộc thảo luận  
với các chuyên gia cho thấy nhận thức là phần lớn các vụ  
dịch xảy ra trong các bếp ăn tập thể ở nhà máy hoặc căng  
tin cho sinh viên. Kết quả nghiên cứu trên thế giới chỉ ra  
rằng, nhìn chung nguy cơ nhiễm bẩn vi sinh vật ghi nhận  
ở các nước đang phát triển là bị đánh giá thấp hơn nhiều  
so với thực tế; các ước tính khác nhau cho thấy mối nguy  
vi sinh vật trong thực phẩm có thể gây ra 20-40% các ca  
bệnh đường ruột ở các nước đang phát triển hay các quốc  
gia có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, người dân ở Việt  
Nam (cũng như ở các nước Đông Á khác) thường chỉ quan  
tâm chủ yếu tới nhiễm bẩn thực phẩm do các mối nguy  
hóa học.  
khẩu lớn khác. Trong khi những dữ liệu này chỉ dành cho  
xuất khẩu, chúng cho thấy các vấn đề ô nhiễm vi sinh vật  
dọc theo chuỗi thực phẩm là phổ biến.  
Như vậy, trong ngắn hạn gánh nặng của các bệnh do thực  
phẩm lớn nhất cho cả sức khỏe cộng đồng và cho nền kinh  
tế có thể gây ra bởi tác nhân gây bệnh tiêu chảy, đặc biệt  
là vi khuẩn, mà cũng chịu trách nhiệm cho phần lớn các  
trường hợp tử vong do các bệnh từ thực phẩm. Điều này  
phù hợp với những phát hiện ở các nước khác trên thế giới,  
như đã được công bố trong các nghiên cứu gần đây của Tổ  
chức Y tế Thế giới.  
Nguyên nhân  
EU  
US  
Nhật  
Thực phẩm bị pha trộn/thiếu hồ sơ  
Nhiễm khuẩn  
18  
170  
78  
61  
28  
2
490  
1088  
402  
0
0
145  
14  
0
Phụ gia thực phẩm và/hoặc phụ gia thức ăn  
Kim loại nặng  
Điều kiện vệ sinh/kiểm soát  
Dán nhãn  
1174  
997  
32  
23  
0
Một cách để củng cố thực tế rằng các tác nhân sinh học là  
một trong những mối nguy quan trọng nhất chúng ta có thể  
xem xét những phát hiện của các cơ quan thực thi khác,  
những người kiểm tra thực phẩm xuất khẩu từ Việt Nam,  
lưu ý rằng hàng xuất khẩu có xu hướng đại diện cho sản  
xuất nông nghiệp thực phẩm và công nghiệp chế biến chất  
lượng cao hơn. Một phân tích gần đây về lý do bị từ chối  
nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp thực phẩm từ Việt Nam  
vào Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản trong giai  
đoạn 2002-2010 cho thấy nhiễm khuẩn là nguyên nhân nổi  
bật bị từ chối. Điều này cho thấy sự yếu kém trong kiểm  
soát vệ sinh xảy ra trên diện rộng, đặc biệt là cho cá và sản  
phẩm thủy sản và đối với cả các nông sản thực phẩm xuất  
Mycotoxins  
23  
101  
27  
4
7
Các chất/yếu tố nhiễm bẩn khác  
Khác  
214  
25  
16  
6
Đóng gói  
0
2
Tồn dư thuốc bảo vệ thực vật  
Tồn dư thuốc thú y  
15  
198  
19  
50  
300  
174  
Nguồn: STDF và MARD. (2013). Sử dụng phân tích quyết định đa tiêu chí để xác định và ưu tiên xuất khẩu liên quan đến  
tùy chọn xây dựng năng lực vệ sinh ở Việt Nam. Trần Việt Cường và cs. trang 7.  
12 Trang  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Trang 13  
Các chuỗi giá trị cho sản xuất thực phẩm ở Việt Nam  
thường ngắn, là đặc điểm quan trọng giúp giảm thiểu  
nguy cơ. Hầu hết các thực phẩm tươi sống được bán ở  
các chợ, thường chỉ qua sơ chế. Các siêu thị, cửa hàng và  
các cửa hàng nhỏ đã bắt đầu gia tăng thị phần trong ngành  
bán lẻ thực phẩm, đặc biệt là tại các đô thị như Hà Nội và  
Thành phố Hồ Chí Minh. Hầu hết thịt được giết mổ tại các  
cơ sở giết mổ nhỏ, lẻ. Các hoạt động chế biến thực phẩm  
cơ bản được thực hiện tại các doanh nghiệp gia đình quy  
mô nhỏ. Cũng có một văn hóa ẩm thực đường phố độc đáo  
và được đánh giá cao. Thông thường thì rất khó áp dụng  
các thực hành tốt trong sản xuất và chế biến thực phẩm cho  
các cơ sở kinh doanh nhỏ hoặc chợ có điều kiện vệ sinh và  
vệ sinh môi trường không đạt yêu cầu.  
yếu đạt được không hẳn là nhờ có thiết bị và tiện nghi tốt  
hơn - mặc dù chúng cũng rất cần thiết - mà thông qua sản  
xuất và thực hành sản xuất tốt, môi trường sản xuất thực  
phẩm sạch và hợp vệ sinh và nhân viên được đào tạo.  
Đặc tính của kiểm soát an toàn thực phẩm  
trong chuỗi giá trị  
Một khía cạnh quan trọng để cải thiện thực hành sản  
xuất thực phẩm là quản lý sản phẩm - thông qua xét  
nghiệm đầu cuối là không đủ để có thực phẩm an toàn.  
Các đề xuất như cung cấp bộ dụng cụ xét nghiệm nhanh  
để áp dụng trên thị trường là khó mang lại nhiều lợi ích  
và có thể đưa ra một cảm quan sai về tính an toàn. Kiểm  
tra thực phẩm không làm cho thực phẩm an toàn và có rất  
nhiều thông số để kiểm tra nên không có phương pháp xét  
nghiệm nhanh nào có thể làm được tất cả. Trong một hệ  
thống quản lý hoạt động tốt, có thể có phạm vi để làm xét  
nghiệm sản phẩm thường xuyên để đảm bảo rằng công tác  
quản lý giám sát có hiệu quả và hoạt động được. Chỉ dựa  
vào kiểm tra sản phẩm đầu cuối thì không thể đảm bảo  
rằng các sản phẩm không đạt tiêu chuẩn sẽ không xâm  
nhập vào thị trường thông qua các kênh khác. Tuy nhiên,  
xét nghiệm các sản phẩm thực phẩm có thể làm an lòng  
người tiêu dùng và nếu kết quả được công bố có thể là một  
động lực cho các doanh nghiệp thực phẩm thay đổi thực  
hành của họ hướng tới tăng cường ATTP.  
Sản xuất nông nghiệp và thực phẩm của Việt Nam có  
Các thông điệp chính cho chính sách  
công là gì?  
đặc điểm manh mún với rất nhiều nông hộ và các nhà  
sản xuất quy mô nhỏ tham gia vào quá trình sản xuất.  
Quy mô trang trại trung bình là rất nhỏ. Quy mô sản xuất  
nhỏ thì thu nhập thấp, trừ khi người sản xuất áp dụng các  
thực hành thâm canh. Kết quả là sản xuất nông nghiệp tại  
Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào lạm dụng hóa chất, chẳng  
hạn như phân bón, thuốc trừ sâu và thuốc thú y. Các kiểm  
soát chính thức về hoá chất đầu vào không được thực thi  
đầy đủ, kết quả là trên thị trường vẫn có các loại hóa chất  
bị cấm và hoặc ít hiệu quả. Ngoài ra, một hệ quả của phát  
triển công nghiệp là nhiều cụm công nghiệp (các nhà máy  
gây ô nhiễm) đang tập trung gần các vùng đất nông ng-  
hiệp. Tình hình đó khiến cho mối lo lắng của người dân và  
các nhà hoạch định chính sách về sự an toàn của các nguồn  
cung cấp thực phẩm là có cơ sở. Có bằng chứng chỉ ra mức  
dư lượng kim loại nặng, thuốc trừ sâu và thuốc kháng sinh  
cao trong một vài nông sản được xét nghiệm qua các dự  
án nghiên cứu và các chương trình của Chính phủ. Người  
tiêu dùng cũng không phải là hoàn toàn tin tưởng về sự an  
toàn của sản phẩm ngay cả với nhãn chứng nhận an toàn.  
Cải tiến kỹ thuật sản xuất thực phẩm và ap dụng  
thực hành an toàn trong chế biến thực phẩm là  
quan trọng hơn so với thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ  
tầng lớn, chẳng hạn như nâng cấp các cơ sở giết  
mổ hoặc chợ.  
Kiểm tra, đặc biệt là kiểm tra sản phẩm đầu  
cuối đơn lẻ không giúp có được thực phẩm an  
toàn và cần nỗ lực hướng tập trung vào các thực  
hành tốt.  
Vẫn có nhu cầu nâng cấp một số cơ sở hạ tầng nhưng  
cái chính là cần thay đổi trong thực hành. Đây không  
phải là lựa chọn làm cái này thì thôi cái kia mà hai việc cần  
làm kết hợp với nhau. Ví dụ, các chợ sau nâng cấp được  
tiếp cận nguồn cấp nước đảm bảo chất lượng, hệ thống  
thoát nước thải và quản lý chất thải tốt. Cũng cần đầu tư để  
nâng cấp quầy hàng thức ăn đường phố để giúp cải thiện  
vệ sinh và vệ sinh môi trường xung quanh ẩm thực đường  
phố. Sản xuất thực phẩm sẽ được hưởng lợi từ các thiết bị  
chế biến tiên tiến và tiện nghi. Nhưng việc thực hiện các  
thực hành tốt hơn được cho là cần thiết hơn nhằm thúc đẩy  
sản xuất thực phẩm an toàn hơn. Trên thế giới, ATTP chủ  
Áp dụng các biện pháp can thiệp cải thiện an  
toàn thực phẩm của các nhà sản xuất, chế biến  
và bán lẻ có thể có tác động rất ít hoặc không  
có tác động vào văn hóa ẩm thực truyền thống  
của Việt Nam.  
14 Trang  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Trang 15  
Khung pháp lí ở Việt Nam đã được cải thiện nhưng  
khía cạnh thực thi vẫn còn một số vấn đề dẫn tới chưa  
đạt được các tác động mong đợi. Từ năm 2010, Việt Nam  
đã hiện đại hoá khung pháp lí và cấu trúc hệ thống quản  
lý liên quan tới ATTP, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần cải  
thiện, đặc biệt liên quan tới thực thi Luật ATTP. Chính phủ  
cũng nhận ra những vấn đề cần cải thiện. Uỷ ban nhân dân  
Thành phố Hồ Chí Minh đang có kế hoạch thử nghiệm mô  
hình chỉ có duy nhất một đơn vị quản lý ATTP. Ngoài các  
cải cách về luật pháp và thể chế thì đối với những nhà sản  
xuất thực phẩm, họ cần áp dụng các thực hành tốt để cải  
thiện vấn đề ATTP hiện nay.  
nhằm cải thiện các kết quả và tác động đề ra bởi các bộ.  
Quá trình này cần thời gian để áp dụng và đạt hiệu quả  
nhưng có thể khởi đầu ngay để khuyến khích các bộ phối  
hợp với nhau tốt hơn để đem đến các kết quả chung về  
ATTP tại Việt Nam. Chuyển từ quản lý đầu ra sang quản lý  
hiệu quả/tác động không dễ làm nhưng là cần thiết để đảm  
bảo can thiệp của Chính phủ đạt hiệu quả.  
Một số thách thức về kiểm soát  
và quản lý nhà nước  
Mối quan tâm lo lắng của cộng đồng đối với các vấn  
Thông điệp chính đối với chính sách  
công là gì?  
đề ATTP là một vấn đề quan trọng. Vấn đề không phải  
là liệu cộng đồng có hiểu sai hay đúng mà cách hiểu của  
họ sẽ tác động tới quyết định và hành vi mua sắm của họ.  
Người tiêu dùng quay lưng lại với một sản phẩm hay một  
ngành thực phẩm nào đó thì hậu quả là rất lớn về kinh tế  
và tác động này có thể xảy ra ngay lập tức và không thể  
dự báo trước. Các đối thủ cạnh tranh ở các quốc gia khác  
có thể sử dụng các mối lo sợ về thực phẩm không an toàn  
trong nước để áp dụng các rào cản thương mại lên các  
sản phẩm xuất khẩu và các rào cản này có thể rất lâu sau  
mới dỡ bỏ được. Một số nghiên cứu nhận định rằng các  
tác động tiêu cực của các mối lo sợ về thực phẩm không  
an toàn đối với nền kinh tế có thể lớn hơn tác động liên  
quan tới số ngày phải nghỉ làm do bị bệnh truyền qua thực  
phẩm. Để quản lý và giải quyết tốt những lo lắng liên quan  
tới thực phẩm không an toàn cần xây dựng mối quan hệ  
minh bạch với người tiêu dùng. Điều này không chỉ là cơ  
hội để giảm thiểu các mối lo về thực phẩm không an toàn  
mà còn tăng cường vai trò của người tiêu dùng như là nhân  
tố định hướng cho việc đảm bảo ATTP, đòi hỏi áp dụng các  
tiêu chuẩn và thực hành ATTP tốt hơn.  
Việt Nam cũng nên cố gắng thực hiện các thực hành quốc  
tế tốt nhất khi có thể và lồng ghép, đưa các tiêu chuẩn quốc  
tế vào hệ thống luật pháp về ATTP ở Việt Nam. Việt Nam  
cũng nên hợp tác với các quốc gia khác để học hỏi các hệ  
thống ATTP khác, bao gồm đưa vào áp dụng khái niệm  
công nhận tương đương các hệ thống kiểm soát ATTP khác  
hơn là lãng phí tập trung và nguồn lực vào áp dụng các  
quá trình “kiểm soát lặp lại” đối với các sản phẩm đã được  
kiểm soát chặt chẽ và đầy đủ từ các nước có hệ thống kiểm  
soát tiên tiến.  
Những mối quan tâm lo lắng của cộng đồng  
đối với một số vụ ngộ độc thực phẩm đã làm  
xao nhãng sự chú ý vào nhu cầu giải quyết các  
vấn đề ATTP rộng hơn liên quan tới sản xuất,  
sơ chế và chế biến thực phẩm và các vấn đề này  
thường có tác động lớn hơn tới kinh tế cũng  
như sức khoẻ cộng đồng.  
Các mô hình hoạt động của các bộ và tổ chức liên quan  
chưa được gắn kết tốt để đem đến các kết quả mong đợi.  
Quản lý hiệu năng được áp dụng ở các quốc gia khác như  
là cách để cải tiến các kết quả hoạt động của các cơ quan  
quản lý nhà nước. Hình thức này có thể giúp cải thiện  
trách nhiệm giải trình đối với cá nhân và đối với đơn vị  
được cấp ngân sách, và điểm này có thể là cách mạnh hơn  
để đảm bảo toàn bộ tổ chức vận hành và đem đến kết quả  
tốt hơn. Đi kèm với quản lý dựa trên hiệu quả công việc là  
sử dụng hệ thống đánh giá độc lập để đánh giá hiệu năng  
theo các đầu ra và kết quả đã thống nhất.  
Khung thế chế ở Việt Nam cần tập trung hơn  
vào thực hiện các kiểm soát và thực hành dự  
phòng nội địa để đảm bảo tốt hơn trong công  
tác quản lý ATTP và đáp ứng kỳ vọng của  
người tiêu dùng.  
Bảng sau trình bày một số kinh nghiệm từ các hệ thống  
luật pháp khác trong giải quyết các thách thức tương tự  
những gì mà Việt Nam đang đối mặt.  
Để đẩy mạnh và tăng cường hơn cấu trúc thể chế có thể  
nên tập trung vào phát triển và áp dụng hình thức quản lý  
dựa vào hiệu năng tại 3 bộ chịu trách nhiệm quản lý ATTP  
16 Trang  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Trang 17  
Bảng 2. Xu hướng quốc tế trong cải tổ về quản lý ATTP  
Hình thức cải tổ  
Ví dụ  
Hình thức cải tổ  
Ví dụ  
Tập trung quản lý dựa vào nguy cơ giúp giảm thiểu nguồn lực vì chỉ một lượng nhỏ  
doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh cần phải thanh kiểm tra. Mặc dù áp lực chính trị ở nhiều  
Giảm thiểu nguồn lực quốc gia để giảm gánh nặng lên doanh nghiệm dẫn tới giảm tải về thanh kiểm tra. Kinh  
nghiệm từ Ba Lan cho thấy thực tế giảm tải rất lớn về thanh kiểm tra mà không làm giảm  
hiệu quả.  
Thành lập một tổ chức đứng đầu về ATTP là mô hình phổ biến nhất và có nhiều hình  
thức khác nhau. Tuy nhiên, nhiều quốc gia thất bại trong việc kết nối, lồng ghép ở các  
cấp dưới cấp trung ương, ví dụ ở Anh.  
Phân luồng cấu trúc  
hệ thống quản lý  
1
2
5
6
Phối hợp giữa các tổ chức có thể là một lựa chọn khác thay vì thành lập một tổ chức đứng  
đầu, ví dụ ở Đức. Hình thức này cũng có thể được áp dụng để chỉ đạo phối hợp giữa các  
tổ chức thanh tra chính, ví dụ Hội đồng Thanh tra Hà Lan và hệ thống chính (“Domain”  
system). Còn tại Anh thì áp dụng hệ thống lỏng lẻo hơn, thuộc một Ban riêng của Chính  
phủ (the Regulatory Delivery Directorate).  
Tổ chức quản lý có chiến lược rõ ràng và các mục tiêu hàng năm, với các chỉ số thực  
hiện công việc kết nối với các tiêu chí về nguy cơ. Những nội dung này thể hiện ở trong  
các chỉ số thực hiện công việc đối với nhân viên và tác động tới hành vi của nhân viên  
Phối hợp giữa các tổ  
chức thanh tra  
Quản lý thực hiện  
theo các mục tiêu của tổ chức, có nghĩa là tăng mức tuân thủ theo quy định thay vì áp  
công việc  
dụng các hình phạt. Cách tiếp cận này được áp dụng rất tốt ở Anh nhưng kinh nghiệm  
Các chỉ tiêu nguy cơ chi tiết được xây dựng cho cả các sản phẩm thực phẩm và các loại  
hình doanh nghiệp, sau đó kết hợp với hồ sơ tuân thủ luật pháp để tạo thành ma trận đánh  
giá nguy cơ để hiệu chỉnh tương đối chính xác về mức độ nguy cơ của mỗi công ty. Kinh  
nghiệm từ Hà Lan và Anh cung cấp các ví dụ tốt nhất về hình thức này.  
áp dụng ở Estonia cho thấy cách tiếp cận này nên được sử dụng như thế nào ở các nền  
kinh tế mới nổi.  
Lập hồ sơ phân loại  
doanh nghiệp theo  
nguy cơ  
3
4
Các cơ quan kiểm soát đưa ra các lời khuyên cho doanh nghiệp để doanh nghiệp dựa vào  
Cung cấp lời khuyên nhằm đảm bảo tuân thủ các quy định được hiệu quả hơn. Có thể thực hiện ở cấp thanh  
7
theo yêu cầu  
kiểm tra hay ở cấp công ty hay đường dây hỗ trợ qua điện thoại. Ví dụ tốt nhất về hình  
thức này có thể kể đến kinh nghiệm từ Anh và Lithuania.  
Thanh kiểm tra tập trung vào các ngành kinh doanh nguy cơ cao và từng sản phẩm,  
ngành nguy cơ cao sẽ được ưu tiên. Các doanh nghiệp xếp vào nhóm nguy cơ thấp  
thường không được chú ý. Kiểm tra đột xuất được giảm xuống khi áp dụng cùng tiêu chí  
nguy cơ với việc giải quyết các khiếu nại. Một trong các nghiên cứu tốt nhất về vấn đề  
thanh kiểm tra đột xuất được thực hiện ở Mông Cổ.  
Lập kế hoạch thanh  
kiểm tra dựa trên  
nguy cơ  
Lĩnh vực xuất khẩu  
giúp tăng cường và  
Các lợi ích của việc tuân thủ theo các tiêu chuẩn bao gồm tiếp cận các thị trường mới,  
đặc biệt là các thị trường quốc tế. Thanh kiểm tra ở thị trường nội địa giúp hỗ trợ đáp  
thúc đẩy tuân thủ theo ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Ví dụ tốt nhất cho cách tiếp cận này làAQSIQ ở Trung Quốc.  
các tiêu chuẩn.  
8
Nguồn: Nhóm tác giả  
Nguồn: Nhóm tác giả  
18 Trang  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Trang 19  
Hệ thống quản lý vận hành không hoàn toàn dựa vào  
nguy cơ. Điều này có thể nhận thấy ở khâu lập kế hoạch  
lấy mẫu, với các kết quả phân tích rất khó để sử dụng làm  
cơ sở cho quyết sách. Chúng ta cũng có thể thấy điều này  
ở cách tiếp cận phân loại các doanh nghiệp theo nguy cơ  
dựa vào báo cáo tuân thủ các quy định hiện hành thay vì  
tổng hợp các báo cáo tuân thủ bao gồm cả các yếu tố chính  
khác như đặc điểm của doanh nghiệp, đặc điểm của các  
sản phẩm và quy trình sử dụng cũng như khả năng phạm  
vi của các tác hại có thể xảy ra. Trong một số trường hợp  
nhất định, việc lấy mẫu được thực hiện ở các lĩnh vực đã  
biết trước là không tuân thủ, hơn là được sử dụng để khẳng  
định tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát ATTP có được  
cải thiện hay không. Ngoài ra, các phương pháp và cách  
tiếp cận của mỗi tổ chức cũng khác nhau và không đồng  
bộ.  
Khái niệm áp dụng các biện pháp kiểm soát thực phẩm  
dựa vào nguy cơ và khả năng đảm bảo cung cấp thực  
phẩm an toàn phụ thuộc lớn vào các bằng chứng khoa  
học đáng tin cậy. Điều này đòi hỏi việc thu thập số liệu  
phải đảm bảo thông qua hệ thống quan trắc các chất nhiễm  
bẩn và tồn dư cũng như các chương trình giám sát ở quy  
mô toàn quốc. Các chương trình này hiện đang được triển  
khai cho lĩnh vực xuất khẩu, do yêu cầu của các quốc gia  
nhập khẩu sản phẩm thực phẩm từ Việt Nam. Nhiều quốc  
gia, đặc biệt là các nền kinh tế phát triển, có các chương  
trình như vậy không chỉ dành cho các sản phẩm xuất khẩu  
mà còn áp dụng cho các mặt hàng tiêu thụ ở thị trường  
trong nước. Điều này cũng đòi hỏi một mạng lưới các  
phòng xét nghiệm được chứng nhận liên kết chặt chẽ với  
nhau trong nước. Ngoài ra, điều quan trọng nhất là các số  
liệu thu thập được cần phải được phân tích trên quan điểm  
hệ thống kiểm soát ATTP quốc gia.  
Một số khuyến nghị dựa vào  
kinh nghiệm quốc tế  
Trong 5 năm qua, Chính phủ Việt Nam đã có những  
bước tiến đáng kể trong việc ban hành các chính sách  
kiểm soát ATTP. Luật lệ và thể chế về ATTP đã được  
phân cấp cho các bộ liên quan, phần nào giúp triển khai hệ  
thống kiểm soát ATTP dựa vào nguy cơ. Tuy nhiên, năng  
lực triển khai hiệu quả công tác kiểm soát ATTP hiện vẫn  
chưa đạt mức như phân cấp. Chính phủ Việt Nam đang  
xem xét việc xem lại các chính sách và luật lệ về ATTP và  
có thể điều chỉnh Luật ATTP và các văn bản luật để hỗ trợ  
thêm công tác phân cấp hệ thống kiểm soát ATTP cho các  
bộ liên quan.  
Các đề xuất cũng được đưa ra với hai điểm lưu ý quan  
trọng sau:  
Cung cấp thực phẩm an toàn phải là nhiệm vụ của  
khu vực kinh tế tư nhân, dù là doanh nghiệp nhỏ hay  
quy mô lớn, cũng như tất cả mọi thành phần tham  
gia vào chuỗi giá trị, từ những nhà cung cấp đầu vào  
và nhà sản xuất chính tới các đơn vị chế biến và phân  
phối thực phẩm, thông qua việc sử dụng những giải  
pháp hợp lý và những công nghệ phù hợp. Vai trò của  
cơ quan nhà nước là (i) tạo ra một môi trường thuận lợi  
để thực phẩm an toàn có thể lưu thông, xây dựng khung  
chính sách và pháp lý phù hợp, cơ chế/ sự khuyến khích  
cho phép khu vực tư nhân tham gia cung cấp thực phẩm  
an toàn, thúc đẩy những giải pháp phù hợp và đưa ra sự  
hỗ trợ hợp lý và (ii) thiết lập và triển khai một hệ thống  
kiểm soát bắt buộc cân bằng, được thiết kế hợp lý nhằm  
đảm bảo thực phẩm an toàn và tạo dựng sự tin tưởng của  
người tiêu dùng đồng thời giảm thiểu sự can thiệp quá  
mức vào chức năng thị trường; việc này bao gồm mạng  
lưới những cán bộ thanh tra ATTP được đào tạo bài bản;  
các kế hoạch giám sát ATTP dựa trên nguy cơ, có tính  
Đảm bảo rằng các yêu cầu được nêu rõ ràng, thực tế,  
không mơ hồ và quan trọng là các ngành (sản xuất, chế  
biến, xuất khẩu, nhập khẩu và bán lẻ) tuân theo và áp  
dụng hiệu quả. Mỗi bộ có hệ thống báo cáo và Đơn vị  
nhận yêu cầu về An toàn Vệ sinh Thực phẩm và Kiểm dịch  
Động vật duy trì hệ thống hợp nhất về các yêu cầu của các  
bộ khác nhau – tuy nhiên hệ thống này cần được cập nhật.  
Nhiều quốc gia trong khu vực đang gặp nhiều khó khăn  
với khía cạnh minh bạch này và truyền thông nguy cơ, là  
khía cạnh có thể giúp cải thiện truyền thông ở các cấp khác  
nhau về ATTP.  
Rút kinh nghiệm qua những thất bại trong xây dựng các  
mô hình nâng cao chất lượng ATTP hiệu quả, bền vững và  
có khả năng nhân rộng tại thị trường trong nước, những nội  
dung đưa ra ở đây là những định hướng mang tính chiến  
lược hơn là những đề xuất hành động mang tính giải pháp  
đơn lẻ. Điều quan trọng là phải xây dựng một phương án  
tiếp cận thử nghiệm và mang tính học hỏi cho những thay  
đổi trong hệ thống cung cấp thực phẩm, cùng với việc đánh  
giá thường xuyên tiến độ triển khai và điều chỉnh các đề  
xuất sau đó.  
20 Trang  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Trang 21  
khoa học và phối hợp tốt; các mạng lưới phòng xét ng-  
hiệm được chứng nhận (của nhà nước và tư nhân) cung  
cấp các xét nghiệm cho kết quả chính xác và kịp thời;  
năng lực và kế hoạch truyền thông nguy cơ.  
động và chi phí của bệnh lây qua đường thực phẩm,  
hiệu quả và phân tích lợi ích chi phí của các hành vi  
can thiệp. Số liệu từ các bộ ngành vẫn còn hạn chế và  
do vậy khuyến khích sử dụng nguồn số liệu độc lập  
sẵn có, nhất là từ các tổ chức nghiên cứu, đào tạo cũng  
như khu vực tư nhân, nhằm giúp hiểu rõ và quản lý  
nguy cơ.  
5. Đề xuất phương án tiếp cận theo mô hình ‘từ trang  
trại tới bàn ăn’ đối với công tác ATTP trong đó bao  
gồm kiểm soát từ nguyên liệu đầu vào, hoạt động nuôi  
trồng, xử lý chế biến và bán lẻ. Điều này có thể bắt đầu  
với việc xây dựng các sản phẩm ‘an toàn và tin cậy’  
có giá trị cao trên cơ sở các sáng kiến hiện nay (ví dụ  
LIFSAP, VietGAP, PGS và Fresh Studio ‘TracePigs’),  
với sự nhấn mạnh vào việc khuyến khích áp dụng các  
giải pháp thực hành tốt hơn.  
Sau đây là các khuyến nghị  
Khuyến nghị chung là xây dựng một hệ thống kiểm  
soát dựa trên nguy cơ áp dụng các nguyên tắc đánh giá  
nguy cơ, quản lý nguy cơ và truyền thông nguy cơ đã  
được WHO/ FAO xây dựng.  
Hệ thống cung cấp thực phẩm hiện nay tại Việt Nam,  
phần lớn phụ thuộc vào vô số các cơ sở sản xuất hoặc  
kinh doanh có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, gây khó khăn  
trong việc đảm bảo nguồn cung thực phẩm an toàn  
trong ngắn hạn. Củng cố hệ thống sản xuất nhằm giảm  
sự phụ thuộc của chuỗi cung cấp vào các cơ sở sản xuất  
siêu nhỏ sẽ thúc đẩy quá trình thay đổi tuy nhiên sẽ mất  
thời gian. Tuy nhiên, điều đó không nên là sự cản trở  
việc chính phủ và khu vực tư nhân đưa ra các giải pháp  
tức thời. Vì vậy, những đề xuất dưới đây tập trung vào  
những giải pháp can thiệp có thể bắt đầu ngay lập tức  
cũng như các giải pháp được dự tính trong trung và dài  
hạn.  
3. Xây dựng văn hóa ra quyết định dựa trên bằng chứng  
trong đó người ra quyết định phải thu thập và sử dụng  
dữ liệu. Việc này sẽ đòi hỏi phải phát triển năng lực  
và khả năng lãnh đạo tốt. Cũng cần xây dựng một hệ  
thống cơ sở dữ liệu nhằm thu thập số liệu từ các tỉnh  
thành và quận huyện để phục vụ công tác lên kế hoạch  
giám sát có mục tiêu và hiệu quả hơn, bao gồm đầu tư  
vào công nghệ thông tin và thiết bị.  
Đánh giá nguy cơ là một quy trình đánh giá khoa học  
những tác động có hại đã nhận biết hoặc tiềm ẩn đối  
với sức khỏe do sự phơi nhiễm của con người đối với  
các mối nguy qua đường thực phẩm. Hiện tại, những  
thông tin đáng tin cậy về ATTP là yếu tố tiên quyết đối với  
công tác quản lý và truyền thông nguy cơ. Các hành động  
nhằm nâng cao công tác đánh giá nguy cơ có thể bao gồm:  
6. Bắt đầu với chất lượng đầu vào tại các nông trại: Tình  
trạng lạm dụng thuốc trừ sâu và thuốc kháng sinh là  
một mối quan tâm chính tại Việt Nam và khung luật  
pháp về vấn đề này vẫn còn rất lỏng lẻo. Cần ngay  
lập tức bắt đầu xây dựng một kế hoạch thúc đẩy sự  
thay đổi, có sự tham gia của các bên và hướng tới kết  
quả đạt được nhằm (i) cắt giảm sử dụng các hóa chất  
trong hoạt động nuôi trồng (nhất là sử dụng kháng sinh  
trong chăn nuôi gia súc) và (ii) ngừng sử dụng thuốc  
kháng sinh làm chất thúc đẩy tăng trưởng trong thức  
ăn chăn nuôi. Những sáng tạo như giải pháp thay thế  
thuốc kháng sinh mới được giới thiệu gần đây (ví dụ  
bằng chế phẩm sinh học) có thể là một hướng tiếp cận  
đầy hứa hẹn đang được các doanh nghiệp tư nhân thúc  
đẩy đưa vào áp dụng nếu có cơ sở khoa học và được  
ghi chép theo dõi đầy đủ.  
1. Tăng cường hệ thống theo dõi và giám sát ATTP quốc  
gia nói chung và tập trung giải quyết những khác biệt  
giữa hoạt động theo dõi và kiểm soát đối với thị trường  
xuất khẩu và nhập khẩu. Khi những nỗ lực trong hoạt  
động theo dõi giữa các tổ chức khác nhau bị phân tán  
và không được phối hợp và gắn kết hiệu quả, cần xây  
dựng một Kế hoạch Giám sát Quốc gia chung và toàn  
diện.  
Quản lý nguy cơ là quy trình lựa chọn những phương  
án kiểm soát và ngăn ngừa phù hợp nhằm nâng cao  
ATTP. Hoạt động này phụ thuộc vào công tác đánh giá  
nguy cơ.  
4. Xây dựng một hệ thống quản lý thực thi nhằm thiết lập,  
triển khai và giám sát kết quả triển khai công tác ATTP  
của 03 bộ. Điều này sẽ đòi hỏi sự thống nhất chung về  
kết quả, kế hoạch, mục tiêu và thường xuyên báo cáo  
về tiến độ thực hiện.  
2. Nâng cao công tác quản lý số liệu nhằm đáp ứng yêu  
cầu cung cấp bằng chứng tốt hơn về các nguy cơ, tác  
22 Trang  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Trang 23  
7. Nâng cao khả năng truy xuất nguồn gốc trong toàn  
bộ chuỗi giá trị: Khả năng truy xuất nguồn gốc là một  
phần quan trọng của giải pháp tiếp cận theo mô hình  
‘từ trang trại tới bàn ăn’. Một lần nữa, khả năng này có  
thể bắt đầu từ các sản phẩm có giá trị và nguy cơ cao,  
ví dụ rau và sản phẩm thịt lợn có xuất xứ địa phương.  
Phương pháp, việc vận dụng khả năng truy xuất nguồn  
gốc và nhận thức của mọi thành phần trong chuỗi giá  
trị đều cần được điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh  
địa phương và nhân rộng từ từ. Những nỗ lực đầu tiên  
đã được các doanh nghiệp có quy mô trung bình và lớn  
tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội cần theo dõi để  
rút kinh nghiệm về những thách thức và bài học thu  
được. Thêm vào đó, khả năng truy xuất nguồn gốc là  
một công cụ hiệu quả để giải quyết vấn đề trong trường  
hợp xảy ra các sự cố về ATTP.  
khích thay vì chỉ tập trung vào cơ sở hạ tầng. Bên cạnh  
đó, cần xem xét các giải pháp công nghệ ‘phù hợp’ (ví  
dụ tại các lò giết mổ) do những giải pháp tốt nhất và  
đắt đỏ sẽ khó duy trì hơn.  
thực hiện tất cả những đề xuất ở trên. Đi kèm việc tập  
trung và tăng quy mô sản xuất thì cũng nảy sinh rủi ro  
làm tăng các nguy cơ và phát tán bệnh tật dễ dàng hơn  
và do vậy đòi hỏi hoạt động giám sát phải chặt chẽ và  
hiệu quả hơn so với các cơ sở chăn nuôi truyền thống.  
Những nỗ lực hiện nay của Chính phủ Việt Nam nhằm  
thúc đẩy hình thành các hợp tác xã và xây dựng năng  
lực các cơ sở này là bước đi đúng hướng. Tuy nhiên, có  
nhiều con đường để hướng tới mục tiêu ATTP và cần  
xem xét những giải pháp sáng tạo trên cơ sở nâng cao  
chất lượng chuỗi giá trị và giao quyền cho chủ sở hữu  
nông trại nhỏ, những người bán lẻ quy mô nhỏ và các  
chợ truyền thống.  
cần được kết hợp vào Kế hoạch Giám sát Quốc Gia về  
ATTP. Đồng thời, kiểm tra để phát hiện nguy cơ ATTP  
là một phần quan trọng trong việc xây dựng và duy trì  
lòng tin của người tiêu dùng và tạo động lực cho khu  
vực kính tế tư nhân.  
9. Nhìn nhận thói quen của người tiêu dùng trong tiêu thụ  
thực phẩm có nguồn gốc động vật còn tươi sống: Một  
thực tế là hầu hết người tiêu dùng ưa thích mua thịt lợn  
tươi không qua đông lạnh và không có thói quen tích  
trữ thực phẩm trong thời gian dài, do vậy cần tập trung  
tìm kiếm những giải pháp công nghệ và quy trình quản  
lý cho phép xét nghiệm nhanh và hiệu quả các sản  
phẩm tươi sống, khuyến khích mô hình kinh doanh với  
chuỗi giá trị thịt lợn sạch nhằm cung cấp các sản phẩm  
tươi sống trong thời gian ngắn và nâng cao nhận thức  
trong nhóm người tiêu dùng và các cơ sở chăn nuôi.  
13. Đưa ra các khuyến nghị cho các nguy cơ được chú  
trọng: Các kế hoạch nâng cao hiệu quả cần được xây  
dựng cho các lĩnh vực thực phẩm và nông nghiệp  
chính, có tính đến đặc tính và nguy cơ của từng lĩnh  
vực.  
Khu vực doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn có  
nhiều kinh nghiệm trong việc đáp ứng các tiêu  
chuẩn về ATTP thông qua giải pháp tiếp cận ‘từ  
trang trại tới bàn ăn’. Cần nỗ lực thúc đẩy, khai thác  
tiềm năng của các công ty nước ngoài và trong nước  
có quy mô lớn trong việc đóng góp nhằm đạt được  
mục tiêu về ATTP. Điều này đòi hỏi xem xét lại  
(thông qua các thông tư) khung pháp lý hiện hành  
đang hạn chế các công ty nước ngoài kết nối trực  
tiếp với các nhà sản xuất. Tuy nhiên, cần giám sát  
chặt chẽ nhằm đảm bảo lợi ích của việc trên không  
tác đọng tiêu cực đến khả năng tạo việc làm và và  
quyền lợi của các doanh nghiệp tư nhân có quy mô  
sản xuất nhỏ.  
12. Bổ sung hoạt động kiểm tra sản phẩm đầu cuối trong  
đó tập trung vào quy trình và chất lượng chế biến:  
Kiểm tra sản phẩm đầu cuối là hoạt động quan trọng  
nhằm đảm bảo sự tin tưởng của người tiêu dùng tuy  
nhiên chỉ mình công đoạn này sẽ không thể đảm bảo  
cung cấp thực phẩm sạch. Nỗ lực cần hướng sự tập  
trung vào (i) các giải pháp phòng ngừa, tức là, thúc đẩy  
các giải pháp thực hành tốt và tạo động lực để duy trì  
các giải pháp này, (ii) hoạt động kiểm tra tại các công  
đoạn khác nhau của chuỗi sản phẩm trên cơ sở tiếp  
cận yếu tố nguy cơ và (iii) công tác kiểm tra sản phẩm  
cuối cùng cần tiến hành một cách thận trọng và sau  
cùng nhằm đảm bảo hệ thống ATTP là đáng tin cậy và  
8. Đồng bộ việc nâng cao cơ sở hạ tầng với thay đổi hành  
vi: Nghiên cứu và các bài học thu được dẫn đến sự thận  
trọng hơn với quan điểm cho rằng cơ sở hạ tầng được  
nâng cấp và hiện đại chắc chắn sẽ giảm được bệnh  
lây qua đường thực phẩm và đưa đến thực phẩm an  
toàn. Chính sách quốc gia hiện nay về quy hoạch lại hệ  
thống cơ sở giết mổ và sử dụng các chợ đầu mối phải  
đặt ưu tiên cho những giải pháp thực hành phù hợp  
và thay đổi hành vi của các thành phần tham gia theo  
hướng thực hành vệ sinh bao gồm sự khích lệ, khuyến  
10. Công tác đào tạo các thành phần tham gia vào chuỗi  
giá trị (ví dụ người sản xuất) về các giải pháp thực  
hành tốt và vấn đề ATTP là cần thiết, tuy nhiên cần lưu  
ý là có bằng chứng cho thấy công tác này đạt hiệu quả  
cao nhất khi người sản xuất thấy có động lực từ việc  
thay đổi hành vi.  
11. Trong dài hạn, không ngừng củng cố hệ thống chăn  
nuôi trồng trọt nhằm giảm sự phụ thuộc của chuỗi  
cung cấp vào những cơ sở chăn nuôi siêu nhỏ sẽ giúp  
24 Trang  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Trang 25  
bước cải thiện đã cho thấy kết quả. Tiếp tục đưa ra  
các giải pháp can thiệp tuy nhiên nhấn mạnh nhiều  
hơn vào việc nắm bắt giải pháp nào có hiệu quả và  
giải pháp nào không, ví dụ phương án áp dụng GAP  
được đơn giản hóa có thể có thể được đón nhận  
hơn.  
truyền thông nhằm tạo dựng lòng tin của người tiêu  
dùng vào những khuyến nghị của cơ quan nhà nước  
về vấn đề ATTP. Trong khi điều này đòi hỏi sự thay  
đổi trong một thời gian dài, trước mắt, công tác truyền  
thông của cơ quan nhà nước trong một sự cố ATTP cần  
tránh làm trầm trọng hóa thêm những nhận thức tiêu  
cực. Như đã đề cập, cần có bằng chứng rõ ràng làm  
cơ sở cho công tác truyền thông nguy cơ trong tương  
lai để đảm bảo có được niềm tin của người tiêu dùng.  
Chiến lược truyền thông cần kết nối với một chiến lược  
về kinh tế nhằm nâng cao vai trò của người tiêu dùng  
trong việc xây dựng và phát triển thị trường (thay vì  
làm suy yếu). Giáo dục và nhận thức của người tiêu  
dùng sẽ đảm bảo người tiêu dùng có ý thức về thực  
hành ATTP và hiểu rõ hơn về các nguy cơ thường gặp.  
phần các câu hỏi thường gặp và sử dụng Facebook  
cũng như các kênh truyền thông khác trên mạng xã  
hội).  
Hoạt động thương mại và xuất khẩu: Việt Nam  
đã rất thành công trong xuất khẩu thực phẩm. Mở  
rộng danh mục sản phẩm xuất khẩu bao gồm các  
sản phẩm có thương hiệu, chất lượng cao hơn bên  
cạnh những sản phẩm không có nhãn hiệu, chủ yếu  
là giá trị thấp hiện đang chiếm ưu thế có thể gia  
tăng nguồn thu ngoại tệ và giảm bớt nguy cơ gắn  
với một danh mục hẹp sản phẩm xuất khẩu. Điều  
này cần được thực hiện đồng bộ với hệ thống ATTP  
hiệu quả, rõ ràng và bắt đầu tạo được thêm lòng tin  
của người tiêu dùng trong nước và quốc tế về các  
sản phẩm thực phẩm của Việt Nam.  
b. Cần bao gồm và đặt ra khung cho 3 khía cạnh sau:  
(i) truyền thông hàng ngày nhằm lấy lại niềm tin từ  
người tiêu dùng để có thể hướng dẫn họ đưa ra các  
quyết định mua thực phẩm theo cách tích cực (xem  
Mục 5.6 để có thêm thông tin và ví dụ); (ii) hướng  
dẫn và giải đáp các phản ứng đối với các vấn đề  
ATTP mà đôi khi bị hiểu sai và có thể không dựa  
vào bằng chứng khoa học để lấy lại niềm tin của  
người tiêu dùng; và (iii) truyền thông nguy cơ trong  
tình huống khẩn cấp khi xảy ra các vấn đề về ATTP,  
với tiêu chí không giấu giếm sự thật và cũng không  
bảo vệ những bên chịu trách nhiệm cho sự cố về  
ATTP – nhưng cũng cần nhấn mạnh các hoạt động  
của Chính phủ và các bên liên quan để cộng đồng  
và người tiêu dùng nhìn thấy những nỗ lực đang  
được thực hiện để giảm thiểu tác động của sự cố  
(bao gồm cả làm giảm bớt những lo lắng quá mức  
trong cộng đồng).  
Truyền thông nguy cơ là sự tương tác trao đổi thông  
tin và ý kiến giữa người đánh giá nguy cơ, người quản  
lý nguy cơ, người tiêu dùng, cơ sở sản xuất kinh do-  
anh, cộng đồng nghiên cứu đào tạo và các bên liên quan  
khác, bao gồm giải thích các kết quả tìm được qua đánh  
giá nguy cơ và là cơ sở cho các quyết định trong công  
tác quản lý nguy cơ. Những hoạt động nhằm cải thiện  
công tác truyền thông nguy cơ bao gồm:  
Giải quyết thực trạng của thành phần kinh tế phi  
chính thức: Tìm cách cải thiện hơn là thay thế thành  
phần kinh tế phi chính thức. Xem xét các mô hình  
khác, ví dụ phương án tiếp cận các chợ truyền thống  
thay vì chỉ tiếp cận các siêu thị và triển khai thí  
điểm các mô hình này. Một số giải pháp có thể phù  
hợp hơn với các nông trại quy mô lớn, tuy nhiên với  
việc các hộ gia đình chăn nuôi trồng trọt quy mô  
nhỏ hiện chiếm ưu thế và có vai trò quan trọng đối  
với sinh kế và chất lượng dinh dưỡng ở Việt Nam,  
việc đưa ra các giải pháp hoặc phương án được đơn  
giản hóa (GAP và GMP) cho phù hợp với nông trại  
và cơ sở chế biến có quy mô nhỏ. Cụ thể, phương  
án triển khai trên cơ sở hiện trạng và sau đó từng  
14. Nâng cao ý thức về nhận thức nguy cơ: Để giải quyết  
sự quan tâm của công chúng đối với vấn đề ATTP và  
vấn đề nhận thức nguy cơ thường không thực sự đúng  
với thực tế, yêu cầu cấp bách là phải làm cho công  
chúng và những người ra quyết định hiểu rõ không chỉ  
về các nguy cơ mà cả về tâm lý học nhận thức nguy  
cơ, tức là mọi người thường có xu hướng lo lắng quá  
mức về vấn đề nào đó. Các thông điệp từ cơ quan chính  
quyền liên quan đến các nguy cơ ATTP cần nhất quán  
và dựa trên sự phối hợp và hợp tác thực sự. Để hỗ  
trợ điều này, chính phủ cần xây dựng một chiến lược  
15. Việc xây dựng chiến lược truyền thông nguy cơ đòi hỏi  
kinh nghiệm quốc tế và kiến thức thực tế ở Việt Nam.  
Chiến lược truyền thông nguy cơ nên có các đặc điểm  
sau:  
a. Cần áp dụng các cách thức, công cụ và các kênh  
truyền thông phù hợp với các nhóm đối tượng đích  
và đặc thù cho mỗi quốc gia. Ví dụ, ở Việt Nam, vai  
trò của mạng xã hội và truyền thông trên internet  
đang phát triển rất nhanh nên cần tận dụng kênh  
truyền thông này (Bộ Y tế có trang web về ATTP,  
c. Cần tăng cường sự chuẩn bị sẵn sàng của Chính phủ  
và các bên liên quan trong việc thiết kế sẵn sàng  
các quy trình và hướng dẫn truyền thông nguy cơ  
để tăng cường khả năng đáp ứng nhanh với các giải  
26 Trang  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Trang 27  
pháp đặc thù cho mỗi quốc gia và cần điều chỉnh  
cho phù hợp với thực tế của Việt Nam.  
chế được sử dụng hiệu quả nhất cho hoạt động giám  
sát và kiểm soát bệnh truyền qua thực phẩm. Năng lực  
đánh giá nguy cơ đang được nhân rộng ra các trường  
đại học, tổ chức nghiên cứu, các bộ ngành (Bộ Y tế,  
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Bộ Tài  
Nguyên và Môi trường) và Ủy ban Tiêu chuẩn Thực  
phẩm Việt Nam. Công tác đào tạo đã được tiến hành  
với sự hỗ trợ quốc tế. Tuy nhiên, cần phải tập trung  
nhiều hơn vào việc áp dụng một cách có hệ thống mô  
hình tiếp cận vấn đề ATTP dựa trên nguy cơ trong đó  
khối tư nhân cần đóng vai trò dẫn dắt trong khi Chính  
phủ đảm nhiệm chức năng chính trong tạo ra và thực  
thi hành lang pháp lý do việc thiếu năng lực, nguồn  
lực và môi trường thuận lợi hiện vẫn đang là rào cản  
trong việc áp dụng mô hình này. Cũng có thể sử dụng  
kinh nghiệm thành công trong khu vực (ví dụ như kinh  
nghiệm từ Thái Lan) để hỗ trợ cho việc triển khai mô  
hình.  
NNPTNT, Sở Công thương v.v. vào một tổ chức duy  
nhất trực thuộc Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí  
Minh và đóng vai trò điều phối vấn đề ATTP của thành  
phố, thì cần được theo dõi và giám sát chặt chẽ trong  
giai đoạn thí điểm. Đây sẽ là bài học kinh nghiệm quan  
trọng, đánh giá những thuận lợi, khó khăn và những  
bế tắc có thể gặp phải cũng như phân tích tính bền  
vững và khả năng nhân rộng trong điều kiện thực tế  
của Việt Nam. Thực tế như đã chỉ ra ở Module 4 của  
Bộ Công cụ ATTP của WBG (the WBG Food Safety  
Toolkit5), không có một cấu trúc thể chế nào là “hoàn  
hảo” và quyết định để theo mô hình 1 tổ chức duy nhất  
hay nhiều tổ chức (và mỗi hình thức lại có vài tiểu mô  
hình) sẽ chủ yếu phụ thuộc vào: (i) năng lực của các  
tổ chức (năng lực chuyên môn, số lượng cán bộ, trang  
thiết bị), (ii) tổ chức thể chế của quốc gia, (iii) mức độ  
phân quyền, (iv) số cơ sở cần kiểm giám sát và (v) mức  
độ phát triển của hệ thống ATTP tại quốc gia đó.  
năng lực lấy mẫu của các cán bộ giám sát ATTP bao  
gồm chuyên viên tại các phòng xét nghiệm. Phát triển  
năng lực chẩn đoán, đảm bảo chất lượng phòng xét  
nghiệm và dung hòa tiêu chuẩn và mô hình tiếp cận  
giữa các phòng xét nghiệm ATTP và các hệ thống giám  
sát, cả ở cấp vùng và cấp quốc gia.  
16. Sử dụng những ví dụ thành công để thúc đẩy thay đổi:  
Các nhà xuất khẩu thực phẩm của Việt Nam đang lớn  
mạnh nhanh chóng do áp dụng quy trình sản xuất hiện  
đại. Những quy trình này phù hợp với GMP, HACCP,  
ISO và các tiêu chuẩn khác. Mặc dù gặp phải một số  
thách thức ở một số sản phẩm trong việc đáp ứng các  
tiêu chuẩn quốc tế, đã có những ví dụ thành công (ví  
dụ, 95% sản phẩm tôm Việt Nam xuất khẩu sang Úc  
đáp ứng tiêu chuẩn). Theo thời gian, sự tuân thủ ngày  
càng cải thiện. Cũng cần nỗ lực để áp dụng những mô  
hình này vào thị trường trong nước. Quyết định gần  
đây cho phép NAFIQAD áp dụng mô hình giám sát  
chất tồn dư vào các chuỗi giá trị thịt lợn và thịt gia cầm  
là một bước đi đầu tiên đáng khích lệ.  
20. Xây dựng Chiến lược ATTP và Kế hoạch hành động  
SPS có tính liên kết: bắt đầu bằng quá trình theo giai  
đoạn để hỗ trợ và đảm bảo rằng Chiến lược ATTP và  
Kế hoạch Hành động SPS Quốc gia được điều phối  
và liên kết với nhau. Được điều phối bởi các bộ khác  
nhau, hai chiến lược này cần được soạn thảo và cập  
nhật một cách đồng bộ nhằm đảm bảo các mục tiêu  
đưa ra, các kết quả và giải pháp can thiệp có tính thống  
nhất cao, bổ sung lẫn nhau và không mâu thuẫn.  
21. Tăng cường triển khai các quy định pháp luật về ATTP  
và tăng tính chịu trách nhiệm của các cơ sở sản xuất và  
bán lẻ thực phẩm. Điều quan trọng là cần chuyển đổi  
từ một mô hình trong đó Chính phủ chịu trách nhiệm  
chính đối với vấn đề ATTP sang mô hình ở đó thành  
phần tư nhân được giao quyền và trách nhiệm lớn hơn.  
Có thể hỗ trợ tối ưu hóa công tác đánh giá nguy cơ,  
quản lý nguy cơ và truyền thông nguy cơ bằng cách  
xây dựng năng lực và cải thiện sự phối hợp giữa các  
ban ngành và các bên liên quan, thông qua các hoạt  
động sau:  
19. Nâng cao mạng lưới kết nối, xây dựng sự đồng thuận  
và nhất quán giữa các tổ chức, các cơ quan quản lý  
có liên quan và các phòng xét nghiệm, đặc biệt nếu  
trực thuộc các bộ ngành khác nhau, cũng như nâng cao  
18. Cơ cấu lại tổ chức: Mặc dù một đợt cải cách lớn về  
pháp lý và cơ cấu tổ chức không được xem là ưu tiên  
cấp bách, cần xem xét tiếp tục xác định các khung  
pháp lý phù hợp để tăng cường thực thi và sự điều phối  
tổng thể để đảm bảo tốt hơn về vấn đề ATTP. Đối với  
mô hình quản lý ATTP hiện nay đang được thí điểm  
tại Thành phố Hồ Chí Minh nhằm thống nhất tất cả  
các tổ chức vATTP trong thành phố như Sở Y tế, Sở  
17. Xây dựng năng lực theo mô hình tiếp cận dựa trên  
nguy cơ bao gồm đánh giá nguy cơ, mô tả nguy cơ và  
phân loại nguy cơ nhằm đảm bảo các nguồn lực hạn  
5
handle/10986/25204/911840WP0Box380od0Safety0Toolkit0IC.  
pdf?sequence=1&isAllowed=y  
28 Trang  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những Thách Thức và Cơ Hội  
Trang 29  
pdf 17 trang yennguyen 16/04/2022 2540
Bạn đang xem tài liệu "Tài liệu Quản lý nguy cơ an toàn thực phẩm ở Việt Nam - Những thách thức và cơ hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_quan_ly_nguy_co_an_toan_thuc_pham_o_viet_nam_nhung.pdf