Tài liệu Vi sinh vật học thực phẩm - Đề tài: Vi sinh vật trong sản xuất nước tương

BCÔNG THƯƠNG  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCM  
__o0o__  
KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM  
MÔN: VI SINH VẬT HỌC THỰC PHẨM  
   
ĐỀ TÀI: VI SINH VẬT TRONG SẢN XUẤT NƯỚC TƯƠNG  
-GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN  
-NHÓM  
: LIÊU MỸ ĐÔNG  
: 5.2  
: THỨ 3 (TIẾT 10-12)  
-BUỔI HỌC  
0
DANH SÁCH THÀNH VIÊN:  
HỌ VÀ TÊN  
SỐ SINH VIÊN  
Nguyễn Thị Tường Vi  
2005170919  
Đặng Thị Yên  
2005170219  
2005170411  
2005170212  
2005170636  
Nguyễn Thị Ngọc Lan  
Ngọc Tường Vi  
Đặng Võ Trúc Xuân  
Nguyễn Lê Ý Nhi  
2005170119  
Tài liệu tham khảo:  
[1] Lê Văn Nhương, Quảng Văn Thịnh: “Kỹ thuật sản xuất nước tương nước chấm”  
NXB Khoa Học Kỹ Thuật.  
[2] Phan Thị Hồng Liên: “Công nghệ sản xuất nước chấm-gia vị”, Công nghệ chế biến  
thực phẩm.  
[3] Lướng Đức Phẩm: “ Giáo Trình Công Nghệ Lên Men”. NXB Giáo Dục Việt Nam.  
1
MỤC LỤC  
IV) Những biến đổi hóa sinh trong quy trình sản xuất tương .............................................7  
2
3
I) Giới thiệu về tương  
-Tương sản phẩm lên men từ các nguồn nguyên liệu giàu glucid và giàu đạm. Tương  
nguồn gốc từ Trung Quốc và là một dạng nước chấm cổ truyền của Việt Nam. Những  
địa phương ngon nổi tiếng về tương phải kể đến tương Bần (Hưng Yên), tương Cự Đà  
(Hà Đông), tương Nam Đàn (Nghệ An).  
-Nước tương được sử dụng khá phổ biến trong ẩm thực Châu Á tại khu vực Đông Á và  
Đông Nam Á.  
II) Nguyên liệu và các phương pháp sản xuất tương  
2.1. Nguyên liệu  
- Đậu nành, đậu phộng, gạo nếp, muối, nước. Trong đó đậu nành được sử dụng chủ yếu  
vì protein trong đậu nành cao hơn đậu nành chứa đầy đủ các acid amin giống acid  
amin trong thịt, trứng.  
2.2. Các phương pháp sản xuất tương  
- Phương pháp lên men là quá trình nuôi cấy vi sinh vật để tạo ra sinh khối (tăng sinh)  
hoặc thúc đẩy vi sinh vật tạo ra sản phẩm trao đổi chất (các hợp chất sinh hóa), như  
chuyển đổi đường thành sản phẩm như: axit, khí hoặc rượu...của nấm men hoặc vi khuẩn,  
hoặc trong trường hợp lên men axit lactic trong tế bào cơ ở điều kiện thiếu khí oxy.  
- Phương pháp hoá giải: Trong thực tế phương pháp thuỷ phân bằng axit đã được ứng  
dụng trong kỹ nghệ sản xuất nước tương hóa giải còn gọi là xì dầu hay tàu vị yểu.  
Phương pháp thuỷ phân bằng axit có ưu điểm rẻ và nhanh, hiệu suất thuỷ phân cao từ  
85 đến 90%, thời gian và quy trình sản xuất được rút ngắn, sản phẩm giàu axit amin và dễ  
bảo quản. Mùi vị nước tương rất ngọt thơm.  
- Phương pháp enzyme: Giúp tính chất của sản phẩm thực phẩm tốt hơn vì mùi nhẹ và  
thuần khiết. Trong quá trình thủy phân cũng những phản ứng khác xảy ra như phản  
ứng Maillard và tạo ra những mùi hương đặc trưng, phù hợp với sản phẩm.  
Giảm bớt hàm lượng muối trong các sản phẩm thủy phân (hàm lượng muối thấp hơn 2%)  
Loại trừ những phản ứng không mong muốn tạo ra bởi sự thủy phân bằng acid (như acid  
chlohydrid) sẽ phát sinh ra những chất hại tiềm tàng như 3-MCPD (hợp chất gây ung  
thư với liều lượng thấp).  
4
   
- Phương pháp kết hợp có tác dụng: Mùi vị nước tương được người tiêu dùng ưa  
chuộng.Tận dụng các thiết bị dụng cụ sẵn của các cơ sở dùng phương pháp hóa giải,  
chỉ thêm một số dụng cụ đơn giản, giá thành ổn định.  
III) Vi sinh vật trong sản xuất tương  
3.1. Giống vi sinh vật trong phương pháp cổ truyền  
- Giống vi sinh vật trong phương pháp cổ truyền, nhân dân ta thường dùng vi sinh vật có  
sẵn trong tự nhiên. Thường là các loại nấm mốc: Mucor mucedo, M. rouxii, Rhizopus,  
Aspergillus oryzae, Aniger, Nonilia, Sitofila, Trichodema, lignorum... Chính vì thế trong  
nguyên liệu nấm mốc nhiều màu sắc khác nhau. Các giống nấm mốc này được nhân  
giống giữ trong ống nghiệm có thành phần như sau:  
Đường: 40g  
Nước chiết đậu: 1000ml  
Thạch: 25g  
pH: 5,5-6,0  
Hoặc thể dùng môi trường thạch malt thông thường:  
Nước malt 7° Balling: 1000ml  
Thạch: 25g  
-Từ ống nghiệm ta sẽ nhân giống trung gian các bình tam giác với môi trường gạo  
hoặc bắp mảnh đã được hấp chín. Nuôi 28-30°C trong 3-4 ngày.  
3.2. Giống vi sinh vật trong phương pháp sản xuất công nghiệp  
-Trong sản xuất công nghiệp, điều cần thiết phải tạo được giống vi sinh vật thuần chủng.  
Giống vi sinh vật đưa vào sản xuất phải đảm bảo các điều kiện sau:  
ảnh hưởng tốt đến sự tạo hương.  
hoạt lực Protease cao.  
Sức phát triển mạnh chống tạp khuẩn tốt.  
Không được chứa độc taflatoxin.  
5
     
-Nấm sợi Aspergillus oryzae có hình thái, màu sắc gần giống với nấm sợi Aspergillus  
flavus, nhưng A. oryzae không sản sinh độc tố gây ung thư như nấm sợi A. flavus.  
-Mốc Aspergilus flavus có bào tử lúc đầu màu vàng sáng, sau chuyển thành màu nâu oliu.  
Mốc này có hoạt tính enzyme proteaza khá cao, nhưng ở một số môi trường chất béo,  
với điều kiện nhất định, mốc sinh ra độc tố flatoaxi (độc tố từ A. flavus). Độc tố này có  
thể làm sưng gan, gan…và dẫn tới ung thư.  
-Các nghiên cứu về tương cho thấy nấm mốc có ý nghĩa quan trọng nhất trong sản xuất  
nước tương nấm mốc Aspergillus oryzae. Trong sản xuất công nghiệp ứng dụng chủ  
yếu nấm mốc A. oryzae thuần chủng, khi phát triển trong khối nuôi mốc thấy chỉ có  
màu vàng.  
3.3. Sau đây một số đặc điểm của nấm mốc Aspergillus oryzae:  
Aspergillus oryzae một loại nấm vi thể thuộc bộ Plectascals lớp Ascomycetes  
(nang khuẩn). Cơ thể sinh trưởng của nó là  
một hệ sợi bao gồm những sợi rất mảnh,  
chiều ngang 5-7 µm, phân nhánh rất nhiều  
và có vách ngang chia sợi thành nhiều tế bào  
(nấm đa bào).  
Từ những sợi nằm ngang hình thành những  
sợi đứng thẳng gọi cuống đính bào tử, ở  
đầu quan sinh sản vô tính. Cuống đính  
bào tử của A. oryzae thường dài 1,0 -2,0 mm  
nên có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Phía  
đầu cuống đính bào tử phồng lên gọi là  
bọng. Từ bọng này phân chia thành những tế bào nhỏ, thuôn, dài gọi những tế  
bào hình chai. Đầu các tế bào hình thành chai phân, từ những chai phân chia thành  
những bào tử dính vào nhau, nên gọi là dính bào tử. Đính bào tử của A. oryzae có  
màu vàng lục, chính là màu ta thường thấy ở mốc tương.  
Trong sản xuất tương ta cần nuôi cấy nấm mốc A. oryzae để thu được nhiều mốc  
giống hoặc thu được nhiều men thủy phân.  
Nấm mốc A. oryzae có các loại enzyme: Amylase, protease và các enzyme oxy  
hóa khử như glucooxydase, maltoz, cataz có khả năng phân giải tinh bột, protein  
thành đường, acid amin.  
6
 
3.4. Các điều kiện sinh trưởng, nuôi cấy A. oryzae  
Độ ẩm của môi trường  
Độ ẩm của môi trường tốt nhất cho sự hình thành enzyme của nấm mốc là 55-58%.  
Độ ẩm môi trường thích hợp sự hình thành bào tử khoảng 45%. Cần giữ cho độ ẩm  
môi trường không bị giảm trong quá trình phát triển.  
Độ ẩm tương đối của không khí  
Độ ẩm tương đối của không khí từ 85-95% tốt cho nấm mốc A. oryzae. Trong phòng  
nuôi cần giữ cho độ ẩm không khí bảo hòa để tránh cho môi trường khỏi khô.  
Ảnh hưởng của không khí  
A. oryzae là sinh vật hoàn toàn hiếu khí, chỉ phát triển bình thường khi đầy đủ oxy. Để  
đáp ứng điều kiện nuôi này môi trường nuôi phải xốp. Rải thành lớp không dày quá  
2,5-3 cm, phòng nuôi phải thoáng. Theo thực nghiệm, để thỏa mãn cho sự hấp của  
A. oryzae trong toàn bộ chu kì phát triển cứ một giờ môi trường cần khoảng 1,7m³  
không khí. A. oryzae phát triển bình thường khi nồng độ CO2 trong khí quyển lên tới  
8%.  
Ảnh hưởng của nhiệt độ  
Nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển và hình thành enzyme của A. oryzae khoảng 27-  
30°C. Nhiệt độ do nấm mốc tỏa ra môi trường thể bị nóng lên 40°C. Cần giữ cho  
nhiệt độ môi trường không dưới 27°C và không cao quá 36°.  
Thời gian nuôi nấm mốc  
Hầu hết các chủng A. oryzae hoạt động cực đại của amylase ở khoảng giờ thứ 30-  
36, rồi sau đó cực đại của protease ở giờ thứ 36-42. Mốt số chủng cho hai cực đại của  
enzyme, ví dụ cực đại amylase ở giờ thứ 36 và giờ 60. Thời gian nuôi mốc thường hết  
60-70 giờ.  
pH  
-Thích hợp cho A. oryzae là môi trường acid yếu 5,5-6,5. Các môi trường tự nhiên từ  
cám, đậu, ngô thường sẵn pH ở khoảng này nên không cần điều chỉnh. Đôi khi khả  
năng sinh bào tử của nấm mốc bị yếu hoặc mất hẳn. Để khôi phục khả năng này có  
thể nuôi nấm mốc trong ánh sáng khuếch tán trong một vài thế hệ.  
7
 
-Khác với mốc tương, trong quá trình ngâm nước đậu hoạt động của các nấm mốc  
không thể hiện. Vì vi khuẩn thường gặp trong nước đầu thuộc nhóm Bacillus  
subtilix- mensentericus khả năng phân giải protein. Nấm men thường gặp trên bề  
mặt của nước đậu thuộc các giống Oidium Geotrichum.  
IV) Những biến đổi hóa sinh trong sản xuất tương  
- Bản chất hóa sinh chủ yếu nhất trong quá trình sản xuất tương sự thủy phân tinh  
bột (chủ yếu của gạo) thủy phân protein (chủ yếu của đậu) bởi các enzyme  
amylase và protease do vi sinh vật tạo ra. Ngoài ra do hoạt động của một số vi sinh  
vật tạo hương những phản ứng hóa học thứ cấp, một số chất hương vị đặc biệt  
đã được hình thành là đã được tạo.  
- Mặt khác cũng cần nhận thấy rằng trong sản xuất đã sử dụng một hệ vi sinh vật tự  
nhiên có nhiều loài vi khuẩn, nấm mốc khác nhau mà quá trình trao đổi chất của  
chúng đã được hình thành những sản phẩn hương vị không tốt, hoặc một số chất  
kháng sinh, độc tố hại cho cơ thể. Điều này giải thích tại sao một số người không  
thích tương.  
-Việc nấu chín đậu giúp các chất đạm trong đậu đễ chịu tác động của các enzyme  
trong mốc hơn, đồng thời loại được các trypsin, một enzyme ức chế tăng trưởng có  
trong hạt đậu sống. Thời gian và nhiệt độ khi nấu đậu ảnh hưởng trên màu sắc và  
vị của tương thành phẩm, thời gian nấu càng dài tương có màu càng xậm.  
4.1. Biến đổi hoạt động emzyme amylase, protease và hàm lượng đường khử trong  
quá trình ủ mốc tương  
Trong quá trình ủ mốc tương thủ công hoạt động amylase của mốc tương  
thường đạt tới cực đại sau 5 ngày, tiếp đó giảm dần. Hoạt động protease của  
mốc đạt đến cực đại sau 6 ngày, rồi giảm tương đối nhanh. Hàm lượng đường  
khử cùng đạt đến cực đại ngày thứ 5 (26,2%). Như vậy, trong phương pháp ủ  
thủ công tự nhiên nấm mốc phát triển chậm mốc thích hợp để đem muối  
hoặc ngả tương chỉ vào khoảng 5-6 ngày sau khi ủ.  
8
 
Trong quá trình ủ mốc công nghiệp thì sử dụng vi sinh vật nuối cấy trong  
môi trường thích hợp làm quá trình biến đổi các chất trong quá trình ủ mốc  
tăng nhanh. Hoạt động của amylase và protease của mốc tương đạt cực đại sau  
sau 36 giờ. Lượng đường khử thể đạt cực đại 20 % sau 36 giờ tới 34%  
sau 65 giờ  
Các thí nghiệm ủ mốc sôi theo phương pháp gieo cấy mốc sống A. oryzae  
thuần khiết trong điều kiện thích hợp (nhiệt độ 30-32°C, độ ẩm xôi 48-  
55%, độ ẩm không khí 85-100%) cho thấy hoạt động của amylase đạt tới cực  
đại chỉ sau 30-36 giờ. Lượng đường khthể lên tới 36% sau 36 giờ nuôi cấy  
chúng và nuôi cấy thích hợp làm quá trình sản xuất mốc đều tăng nhiều. Đây  
chính là phương hướng  
4.2. Biến đổi hoạt động amylase, protease và hàm lượng các dạng đạm trong quá  
trình làm nước đậu  
Phần cái và phần lỏng của nước đậu tuy khác nhau, nhưng các biến đổi trong  
hai phần này có nhiều điểm tương tự nhau. Các nghiên cứu cho thấy hoạt động  
amylase của nước đậu đạt tới cực đại ở khoảng 9-10 ngày sau khi ngâm. Hoạt  
động protease đạt tới cực đại ở ngày thứ 9. Lúc này lượng protein được chuyển  
hóa là nhiều nhất. Phương trình chuyển hóa protein thành acid amin là:  
Protid  
pepton  
polypeptid  
acid amin  
Độ hoạt động protease của nước đậu thấp, còn độ hoạt động của amylase thì rất  
thấp gần như không đáng kể. Lượng đạm toàn phần của nước đậu chủ yếu nằm  
trong phần cái. Trong quá trình ngâm sự hòa tan các dạng đạm khác nhau vào  
phần lỏng tiến hành rất chậm. Do hoạt động của men protease thấp, nên mức  
độ thủy phân của protein của đậu không đáng kể. Lượng đạm amin đều nhỏ  
trong phần cái cũng như trong phần lỏng. Sau 9 ngày ngâm, tỉ lệ đạm amin đối  
với đạm toàn phần trong cái đậu chỉ có 4,2%. Hàm lượng đạm amin trong phần  
lỏng chỉ đạt tới 0,830g/l. Các trỉ số thấp của hoạt động amylase, protease và  
hàm lượng đạm amin cho phép ta kết luận rằng các quá trình sinh hóa có lợi  
xảy ra dưới tác dụng của vi sinh vật trong quá trình ngâm nước đậu rất yếu. Để  
cải biến khâu này ta nghĩ đến khả năng sử dụng mốc tương làm một chế phẩm  
chứa nhiều enzyme amylase và protease. Các thí nghiệm cho thấy nếu sau  
khi ngâm nước đậu 7 ngày, trước lúc ngả tương, ta sử dụng 15-20% mốc làm  
thủy phân phần cái ở nhiệt độ 50-55°C trong thời gian 14-20 giờ, thì lượng  
đạm amin trong nước đậu sẽ lên tới 1,80-2,00g/l, đạt mức như trong tương  
thành phẩm.  
9
 
Cách thủy phân đậu khi ngâm bằng mốc làm tăng các quá trình sinh hóa có ích.  
Nhưng trong khâu ngâm đậu vẫn còn xảy ra những quá trình sinh hóa và vi  
sinh vật hại. Đậu một sản phẩm giàu protein được ngâm lâu trong nước  
không có muối, nên trong quá trình ngâm đã xảy ra sự thối rữa protein. Quá  
trình này đã hình thành một số chức hại cho cơ thể cũng đưa lại cho nước  
đậu ngoài mùi vị tương những mùi vị khó chịu.  
Để làm cho tương có giá trị thực phẩm cao hơn (kể cả giá trị hương vị, hàm  
lượng đạm amin) và đảm bảo yêu cầu vệ sinh, ta có thể bỏ khâu ngâm đậu  
trong sản xuất tương tiến hành thủy phân đậu rang bằng mốc tương.  
4.3. Sự biến đổi chất sau khi ngả tương  
Sau khi pha trộn, các nguyên liệu được đổ vào các thùng chứa, thường là  
chum vại. Trộn thật kỹ để tránh tạo các “túi” không khí và đậy nắp kín. Trong  
vại các phân hóa tố trong meo nấm mốc bắt đầu tác động phân cắt các dưỡng  
chất có trong đậu nành và hạt ngũ cốc. Các protease tác động lên chất đạm,  
phân cắt thành các polypeptids rồi thành các axid amin. Chất đạm chính trong  
đậu nành là glycinin (80-90%) và amino acid sau cùng là glutamic acid tạo vị  
ngọt cho tương.  
Trong dân gian, quy trình ngả tương được tiến hành bằng cách phơi tương  
dưới ánh nắng, nhiệt độ tăng làm cho quá trình chuyển hóa các chất xảy ra  
thuận lợi hơn. Trong quá trình phơi có che đậy tránh ruồi nhặng bám vào đẻ  
trứng gây mất vệ sinh an toàn thực phẩm.  
Trong công nghiệp quá trình ngả tương được thực hiện bằng hệ thống điều  
hòa. Nâng nhiệt độ giữ nhiệt độ ổn định cho tương.  
Lượng đường khử có trong tương đã để chín chiếm đến 70-80%, tức tăng lên gấp đôi  
sau khi ủ. Tỷ lệ đạm amin khi tương chín chiếm 20-30%, tăng lên gần 6 lần so với quá  
trình làm nước đậu. Trong quá trình chín thì một lượng không nhiều các hợp chất  
metanoid cũng được hình thành do sự kết hợp của các aminoacid với các đường. Do đó  
tương có màu xẫm hơn lúc mới ngả, lúc đó tương có màu vàng xẫm hơn.  
4.4. Hoạt động của vi khuẩn nấm men  
Sau giai đoạn hoạt động của các phân hóa tố trong một môi trường thích  
hợp nhiều dưỡng chất, các vi khuẩn nấm men hiếm khí bội sinh từ 10  
triệu lên đến 930 triệu/ gram giá thể bứt đầu hoạt động các Lactobacillus biến  
10  
   
đổi các chất đường thành những acid khác nhau như acetic và lactic, các acid  
này tạo vị chua nhẹ cho tương đồng thời giúp cho sự bảo quản. các nấm men  
dùng đường để tạo ra các alcohol và các acid hữu cơ, nhất là succinic acid.  
Các alcohol giúp tạo mùi còn các acid giúp tạo vị cho tương. Đồng thời cũng  
xảy ra các phản ứng tương tác giữa các chất tạo ra do phân hóa tố và các chất  
tạo ra do lên men: acid hữu cơ phản ứng với alcohols, với acid acetic, với acid  
béo tự do để tạo ra các ester thơm, acid amin phản ứng với đường để tạo ra các  
sắc tố nâu hay đỏ (soyamelanine) các sắc tố này sau đó pha trộn với các sắc tố  
loại flavone có sẵn trong đậu nành và giúp tạo màu của tương.  
V. Kỹ thuật sản xuất tương  
-Quá trình sản xuất tương thcông:  
Quá trình sản xuất tương thể chia làm 3 giai đoạn: làm mốc tương, làm nước  
đậu, ngả tương để chín. Hai giai đoạn đầu có tính chất quan trọng. Quyết  
định chất lượng của tương, giai đoạn sau là trộn hai bán thành phẩm đã sản  
xuất ở trên và để chín.  
-Thời gian cần thiết để mốc tương trung bình khoảng 5-7 ngày, làm nước đậu 7-9  
ngày, sau khi ngả tương để chín khoảng 5-10 ngày là ăn được. Theo trình tự thì đầu  
tiên ta phải làm mốc tương trước 3-4 ngày (có thể lâu hơn) sau đó mới rang đậu và  
ngâm đậu trong nước, vì khi mốc đã được thì có thể muối để hãm lại, càng muối lâu  
tương càng ngon, trái lại nước đậu khi được rồi tức đã đến lúc cần ngả tương mà  
không làm kịp thời thì thối hỏng. Tổng cộng thời gian làm một mẻ tương thủ công  
mất khoảng 18-22 ngày.  
5.1. Làm mốc tương  
-Nguyên liệu: thể dùng gạo nếp ngô, khoai.  
Chuẩn bị gạo nếp:  
Nếp được chọn lựa kỹ càng bằng cách giần, sàng kỹ sao cho không  
hạt gãy ngâm kỹ. thể làm mốc tương từ nếp cái hoặc nếp con,  
30-33 kg nếp cho 100 lít tương.  
Nấu thành xôi  
Vo đãi sạch gạo nếp, ngâm nước xăm xắp một đêm (8-12h). Rồi  
đem nấu, hạt phải tơi không dính bết, để nguội.  
Ủ mốc:  
11  
   
- Kiểu thông thường :  
Xôi sau khi đồ trải ra nong hoặc thúng cho nguội, lớp xôi dày 2-2,5 cm. Vừa lắc  
vừa dấp nước cho xôi tơi đều, nước dấp 100ml/ 1kg xôi. Nên đậy bao tải tốt hơn  
lá, ủ nơi kín, tránh nắng, gió.  
Sau 4-5 ngày nếu ủ tốt thì hạt xôi nào cũng mọc mốc, nhiều bụi bào tử, mốc trở  
nên nhẹ hơn, vị ngọt, lúc đó ta có thể bóp cho tơi đều thêm một ngày nữa,  
như vậy tất cả khoảng 5 ngày.  
- Ủ kiểu Cự Đà (mốc mật) :  
+ Xôi đồ xong ủ như trên, nhưng sau khi ủ được khoảng 3 ngày thì lấy ra bóp cho  
mốc rời thành hạt. Đổ ra rá to cho nhanh 3-4 phút hết bụi bào tử, đừng làm cho  
mốc bị nát, để vài giờ cho mốc ráo nước rồi ủ vào thúng hoặc nong thành đống cao  
0,3- 0,5 m, nên vùa phải. Dưới thúng hoặc nong lót rơm, trên đậy bao tải. thường  
ta ủ như vậy hai ngày thì đảo trong ra ngoài và để thêm hai ngày nữa được. lúc  
đó mốc đã thành một khối khá nhuyễn nát, mềm, vị ngọt, cần đưa đi ngả tương  
hoặc muối để bảo quản . Vì khối mốc đã ủ có màu mật (nâu đậm) và dính nên ta  
còn gọi phương pháp ủ mốc Cự Đà ủ mốc mật.  
Muối mốc  
-Mốc sau khi xong nếu nước đậu vừa kịp thì có ngả tương ngay, nếu nước đậu  
chưa kịp thì cần đem muối mốc để lúc nào thích hợp sẽ ngả tương mốc theo kiểu  
thông thường đem bóp cho tơi để loại bớt bào tử. Cho vào vại sành với tỉ lệ mốc ,  
muối là 1:1. Lượng muối dùng ¾ toàn bộ lượng muối của cả mẻ tương. Đổ nước  
vào xăm xắp mặt, trộn đều cho tan muối. Mốc muối hàng ngày nên trộn đều,  
phơi nắng. mốc đã muối thể dùng ngả tương luôn hoặc để sau ít lâu trường hợp  
chưa cần thể để qua năm sau mới ngả tương cũng được.  
5.2. Làm nước đậu  
- Rang đậu: thời gian rang đậu từ 30-40 phút, khi thấy đậu đã tróc vỏ, nhân vàng nâu,  
giòn, thơm được. Đậu rang xong để nguội, xát và sàng sẩy cho hết vỏ, thể xay nhỏ  
hoặc chà cho đậu tách đôi.  
- Ngâm đậu:  
Ngâm với nước trong chum, vại, cứ một đậu cho 5-6 lít nước, chum ngâm đậu  
thường để ngoài sân, hằng ngày mở ra phơi nắng. Khoảng 2-5 ngày sau khi bắt  
đầu ngâm, một một số quá trình lên men xảy ra, làm đậu tương nổi lên mặt nước  
ta có thể lấy que khuấy cho đậu chìm xuống. Sau 7-9 ngày nước đậu sẽ được, có  
12  
 
mùi vị tương rệt. Khi nước đậu được, cần đem ngả tương ngay nếu để lâu hơn  
nước đậu sẽ bị thối hỏng.  
5.3. Ngả tương bảo quản  
-Ngả tương để chín là giai đoạn cuối cùng trong quá trình làm tương. Ngả tương là  
đem các bán chế phẩm được sản xuất từ nguyên liệu nhiều bột đường (gạo,nếp, ngô)  
từ nguyên liệu nhiều protid (đậu nành) đã được chế biến ở trên trộn với nhau, cho  
thêm nước muối đúng theo phối liệu rồi nghiền nhỏ. Ngả tương xong để một thời gian  
cho tương chín, rồi đưa vào bảo quản hoặc xuất xưởng.  
-Tùy theo kiểu chế biến bán thành phẩm đậu có ngâm nước đậu hay không và mốc đưa  
ngả tương mốc đã muối hoặc mốc đã ra khỏi phòng nuôi, và lượng nước muối cần  
trộn khi ngả tương có khác nhau. Người ta tính được dễ dàng lượng nước muối cần  
thiết này trong các trường hợp để trộn vào cho đúng phối liệu làm tương.  
VI) Sản xuất tương  
6.1. Sản xuất tương công nghiệp:  
-Phương pháp sản xuất tương công nghiệp cũng nội dung, các giai đoạn sản xuất  
tương tự như phương pháp sản xuất tương thủ công. Tuy nhiên, phương pháp này cũng  
một số đặc điểm đặc trưng sau:  
Sử dụng loài nấm mốc thuần chủng, chủ yếu là các chủng thuộc Aspergillus  
oryzae.  
Đảm bảo được các điều kiện nuôi nấm hoàn toàn ổn định, do đó chất lượng  
tương sẽ hoàn toàn ổn định.  
thể điều chỉnh được các điều kiện lên men, thủy phân trong quá trình sản xuất  
nên chất lượng tương càng cao và ổn định hơn.  
13  
     
QUY TRÌNH SẢN XUẤT TƯƠNG CÔNG NGHIỆP  
Gạo nếp  
Ống giống gốc, A. oryzae  
thạch nghiêng  
Đậu nành  
Ngâm nước 8-12 giờ  
Hấp chín  
Qua sàng loại tạp chất, phân  
Cấy truyền giống trên thạch  
loại hạng  
nghiêng  
Nhân giống nhỏ(bình tam  
giác,5-6 ngày,30-32°C)  
Máy rửa(10 phút)  
Để nguội 40°C  
Để ráo nước( 1 giờ)  
Nhân giống lớn( trên  
mảnh,khay 60-72 giờ, 30-  
Trộn giống  
Sấy chín 180-200°C. 45-60  
Mốc giống sản xuất  
phút  
Nuôi mốc(30-32°C)  
Nghiền bột  
Nuôi 60-70 giờ  
Nuôi 36-48 giờ  
Thủy phân hoặc ngâm nước  
Ngả tương ngay hoặc muối  
đậu  
Thủy phân(lên men ướt  
mốc  
hoặc ẩm)  
Nước( tỉ lệ  
khoảng)  
Ngâm nước đậu.  
1 kg bột/5 lít  
nước, 7-9 ngày  
Muối mốc  
Ngả tương  
Muối (3/4 cả  
mẻ)  
Nước, muối đủ  
phối liêu  
Xay nhỏ  
Để chín 5-10 ngày  
Tương thành phần  
14  
6.2. Sản xuất mốc giống  
6.2.1. Sản xuất mốc giống  
-Sản xuất nước tương công nghiệp sử dụng các loại nấm mốc thuần chủng. Các  
nghiên cứu về tương cho thấy nấm mốc có ý nghĩa quan trọng nhất trong sản xuất nước  
tương nấm mốc A. oryzae. Chính vì thế trong công nghiệp đã ứng dụng chủ yếu nấm  
mốc A. oryzae thuần chủng, khi phát triển trong khối mốc có màu vàng. Nấm mốc  
A.oryzae có các loại enzyme: amylase, protease và các enzyme oxy hóa khử như  
glucooxydase. Điều kiện sinh trưởng của loài nấm mốc này như sau:  
- Độ ẩm  
- pH môi trường  
- Độ ẩm không khí  
45-55%  
5,5-6,5  
85-95%  
- Nhiệt độ nuôi  
- Thời gian  
27-30ºC  
30-36 giờ  
Giai đoạn sản xuất nấm mốc giống:  
-Mục đích của giai đoạn này là tạo được lượng giống đủ cho sản xuất với lượng bào tử  
cao nhất. Đồng thời giống nấm mốc phải thuần khiết về chủng loại.  
-Giai đoạn này tiến hành làm 3 bước:  
Nuôi cấy giống trong ống thạch nghiêng hay giữ giống trong ống nghiệm.  
Nuôi cấy trong bình tam giác (nhân giống nhỏ).  
Nuôi cấy trong sàng, nia.  
6.2.1.1.Nuôi cấy trong môi trường thạch nghiêng  
- Nuôi giống nấm A. oryzae lấy từ cơ quan nghiên cứu hay quản sản xuất mang về  
không được dùng trực tiếp phải cấy truyền các ống thạch nghiêng khác. Lấy ống  
thạch nghiêng có giống tiếp tục cấy truyền sang ống thạch nghiêng khác. Các ống này  
vừa được dùng để bảo quản giống vừa được dùng vào trong sản xuất, ống giống phải  
tuyệt đối đảm bảo thuần khiết không được lẫn một con vi sinh vật nào khác.  
- Môi trường thạch nghiêng để nuôi cấy nấm mốc cần phải đầy đủ các chất dinh  
dưỡng. Môi trường gồm thạch ( làm môi trường trở nên rắn) và các chất dinh dưỡng  
(nước dinh dưỡng). Cách làm môi trường thạch nghiêng:  
Nước nấm vàng: gạo tẻ hay gạo nếp vo sạch, ngâm nước 8-12 giờ, vớt ra đem  
hấp như đồ xôi. Gạo nếp hấp 1-1,5 giờ, gạo tẻ nấu cơm không được nhão hay  
15  
     
khô. Nấu xong cơm hay xôi có độ ẩm: 48-55%. Bóp tơi, để nguội 40ºC, cấy  
mốc giống A.oryzae vào, tỷ lệ 1-2%. Trộn đều rải ra thành lớp 2-2,5cm; phủ  
trên lớp vải ướt, nuôi 30-32ºC, độ ẩm 85-100%, 36-42 giờ; sau đó lấy mốc ra  
làm nát, cho nước đun sôi để nguội 65-70ºC. Cứ 1 kg nguyên liệu cho vào  
2,5-3 lít nước, khuấy đều, giữ 55-60ºC trong 3,5-5 giờ để đường hóa, thử iod  
không còn xanh nữa thì đem lọc. Lấy nước trong gọi nước nấm vàng, điều  
chỉnh nồng độ đường 8-10% (5-6º Bé).  
Nước malt: cân khoảng 250g malt hoặc thóc mầm đã nghiền nhỏ, trộn vào 1  
lít nước đun sôi để nguội 65ºC, khuấy đều giữa 55-58ºC, 4-5 giờ để đường  
hóa, thử iod. Lọc điều chỉnh nồng độ đường 7% (7º Balling).  
Lấy nước nấm vàng, hoặc nước malt hoặc ½ mỗi loại, thêm 2-3% thạch, đun  
các thủy, lọc, đổ vào ống nghiệm, hấp thanh trùng 120ºC trong vòng 30 phút.  
Dùng que lấy cấy bào tử A. oryzae từ ống giống gốc sang các mặt thạch  
nghiêng khác, nuôi 30-32ºC trong 5-6 ngày; ống giống giữ 4-5ºC trong vòng  
2-3 tháng, nếu bảo quản ở nhiệt độ phòng thì dùng khoảng 20-30 ngày sau đó  
cấy lại.  
6.2.1.2. Nuôi cấy nấm mốc trong bình tam giác (nhân giống nhỏ)  
-Nuôi cấy nấm mốc trong bình tam giác là phương pháp nhân giống trong khâu sản  
xuất, từ đây sẽ nhân giống trong khay, mành hoặc các dụng cụ cần thiết khác.  
-Thường sử dụng bình tam giác có dung tích 0.3-0.5 lít hoặc 1.0 lít có cổ rộng ở giai  
đoạn này. Có thể dùng loại gạo tẻ loại tốt không mốc, không mọt. Tiến hành nấu cơm  
như bình thường (hạt cơm phải được chín đều, không bị nhão, không quá khô). Độ ẩm  
khoảng 45-48%. Lấy ra, để nguội rồi bóp rời từng hạt, cho vào bình tam giác thành một  
lớp dày 1cm trước khi đem khử trùng 1at trong 45-60 phút.  
-Sau khi chuẩn bị được môi trường trong bình thủy tinh, tiền hành gieo cây vi sinh  
vật. Trước tiên phải chuẩn bị 5ml nước vô trùng vào các ống nghiệm. Sau đó đổ nước vô  
trùng cho bào tử hòa vào nước, đồng thời cấy truyền chúng sang bình tam giác, có dung  
tích khoảng 1 lít.  
-Lắc đều cho ống phân bố đều trong môi trường tiến hành nuôi chúng ở nhiệt độ  
thích ứng 30-32ºC, trong khoảng 5-6 ngày. Mốc giống phải nhiều bào tử vàng lục  
hoặc vàng nâu.  
16  
 
- Yêu cầu: đảm bảo nhiều bào tử và bào tử phát triển mạnh khỏe.Trường hợp thấy  
bình bị nhiễm phải loại bỏ ngay.  
6.2.1.3. Nhân giống mốc trên sàng, mành (nhân giống lớn)  
- Đây là giai đoạn cuối cùng trong quá trình nhân giống mốc. Môi trường dùng để  
nhân giống trong giai đoạn này là ngô mảnh. thể dùng một số dạng môi trường khác  
để thay thế.  
- Ngô mảnh trộn nước để yên cho ngấm nước khoảng 3-4 giờ. Nếu dùng gạo thì  
thời gian hấp nhanh hơn. Nguyên liệu sau khi hấp xong phải chín đều không được bết  
hoặc quá khô. Độ ẩm còn lại thích hợp là 45-50%.  
- Sau khi hấp nguyên liệu xong, tiến hành làm nguội nhanh đến 36-38ºC thì tiến  
hành trộn mốc giống với tỷ lệ 0,5-1% (hoặc cao hơn). Để trộn đều, người ta tiến hành  
với môi trường đã đem thanh trùng trước với mốc giống, sau đó từ lượng này đem trộn  
đều vào khối môi trường. Ngoài ra, có thể dùng nước vô trung cho vào bình tam giác  
đánh cho thật đều rồi đem trộn với môi trường đa thanh trùng.  
-Sau khi trộn đem rải ra mành, khay thành khối chiều dày 0,3m. Để môi trường  
đỡ bị khô thì khay, mành được đặt vào phòng điều hòa ở nhiệt độ 30-32ºC, độ ẩm 85-  
100%, thời gian ủ từ 6-8 giờ tiến hành rải mỏng ra với lớp dày 1,5-2 cm. Sau khi nuôi 34-  
36h nhiệt độ trong khối bắt đầu giảm cần phải điều chỉnh nhiệt độ lên khoảng 34-35ºC để  
duy trì sự hình thành bào tử của nấm mốc.  
-Thời gian, nuôi trên khay, mành kéo dài 60 giờ, nếu thấy mốc hình thành bào tử  
chậm thể kéo dài thời gian 70-72 giờ. Sau khi nuôi giống xong có thể sử dụng mốc  
này để sản xuất hoặc sấy khô tới độ ẩm 8% đem bảo quản để dùng dần hoặc cung cấp cho  
nơi sản xuất. Chú ý quá trình sấy không được nâng nhiệt độ lên quá 40º. Sau khi sấy  
xong cho mốc giống vào các bọc nylon để chống ẩm. Chú ý tránh nhiễm bào tử các loài  
khác.  
- Bảo quản giống mốc nơi khô ráo, tránh ánh nắng, cũng thẻ bảo quản lạnh ở  
4-5ºC. Thời gian bảo quản giống mốc trong khoảng từ 1-2 tháng.  
6.3. Xử mốc sản xuất  
-Trong công đoạn này người ta sản xuất ra một bán thành phẩm của tương vẫn  
thường gọi mốc tương đề đưa vào chế biến thành tương. Yêu cầu của mốc sản xuất  
17  
   
khác cơ bản về mốc giống. Ở đây, người ta không làm ra nhiều sản phẩm có bào tử để  
làm giống, phải làm ra sản phẩm trong đó tinh bột được chuyển hóa nhiều thành  
đường và có nhiều enzyme amylase, protease hoạt động. Cũng cần chú ý để giảm sự tổn  
thất chất khô của nguyên liệu trong quá trình làm mốc sản xuất. Vì yêu cầu như vậy nên  
một số điều kiện muối mốc sản xuất khác mốc giống, chủ yếu như độ ẩm môi trường phải  
cao hơn (55-58%), thời gian nuôi ngắn hơn.  
- Để làm mốc sản xuất cần mốc giống.  
- Công đoạn làm mốc sản xuất bao gồm hai bốn giai đoạn: chuẩn bị nguyên  
liệu,hấp chín, trộn giống và nuôi mốc.  
6.3.1. Chuẩn bị nguyên liệu để làm mốc sản xuất  
Nguyên liệu để làm mốc sản xuất gạo nếp. thể dùng ngô để thay thế một phần  
hoặc hoàn toàn. Chuẩn bị gạo nếp làm mốc tương công nghiệp cũng gần giống gạo nếp  
làm mốc tương thủ công: có thể dùng nếp cái hoặc nếp con, không giã kỹ quá hoặc dối  
quá. Cần loại sạch các tạp chất, sạn, cát.  
- Ngô cần nghiền thành mảnh nhỏ 0,3-0,5mm trên máy nghiền, sau đó sàng loại bỏ  
mày. Trung bình sản xuất 100 lít cần 30-33kg gạo nếp hoặc ngô mảnh.  
6.3.2. Hấp chín  
Hấp chín: gạo nếp đem vo sạch, ngâm nước xăm xắp mặt 8-12 giờ. Ngâm xong vớt ra để  
cho hơi ráo rồi cho vào hấp. Hàm lượng nước của gạo đã ngâm thường là 34-36%.  
- Ngô mành trộn nước với lượng 90-100% trọng lượng ngô nếu hấp, dưới áp lực  
cao theo tỉ lệ 80-90% nếu đồ (hấp áp lực thường). Trộn xong để 3-4 giờ cho ngô ngấm  
nước đều, rồi đưa hấp; ngâm hoặc trộn nước trước có tác dụng làm nước ngấm đều vào  
trong các hạt tinh bột trương lên hấp thụ một lượng nước cần thiết để hồ hóa khi nhiệt độ  
cao. Nếu không ngâm nước, khi hấp tinh bột phía ngoài bị hồ hóa trước, cản trở sự ngấm  
nước vào trong, làm giữa hạt gạo, ngô thường không chín.  
- Hấp là cách làm chín nguyên liệu bằng nước từ 100ºC hoặc cao hơn. Ngoài  
việc làm chín, hấp còn có tác dụng thanh trùng nguyên liệu, tiêu diệt tất cả loài vi sinh vật  
làm cho khi gieo cấy mốc sẽ chỉ A. oryzae mọc.  
-Hấp nhiều kiểu khác nhau đo cách cung cấp hơi: dùng hơi nước trực tiếp  
hay hơi nước gián tiếp; khác nhau về áp suất: áp suất thường hay áp suất cao.  
18  
   
6.3.3. Trộn giống  
Xôi hoặc ngô đã hấp chín dùng xẻng đánh tơi và làm nguội. Khi nhiệt độ hạ thấp xuống  
30-40ºC thì trộn mốc giống vào. Tỉ lệ mốc giống là 0,5-1%, thường trộn mốc giống trên  
bàn xi măng, gỗ hoặc nong nia.  
-Mốc giống cần được trộn thật đều vào nguyên liệu đã hấp. Muốn trộn đều và xôi rất  
khó, vì vậy ta thường lấy mốc giống trộn vào nước đun sôi để nguội (1kg mốc giống 4-5  
lít nước) rồi trộn trước vào một ít xôi, sau đó mới trộn đều vào toàn bộ. Lượng nước cho  
thêm còn có tác dụng nâng cao độ ẩm của xôi đến mức cần thiết.  
-Sau khi trộn mốc giống ta rải mỏng nguyên liệu lên mành tre, nong hoặc khay thành  
lớp dày 2-2,5cm rồi đưa vào buồng nuôi mốc.  
6.3.4. Nuôi mốc  
- Nuôi mốc hay còn gọi là lên mốc tạo điều kiện thích hợp để cho mốc phát  
triển trên nguyên liệu. Nấm mốc tạo thành nhiều enzyme amylase, protease và một số  
enzyme khác làm thủy phân mộ lượng đáng kể tinh bột, các polysaccharide và protid  
ngay trong quá trình phát triển. Các enzyme sẽ còn tiếp tục hoạt động thủy phân của  
chúng trong việc chế biến tiếp sau.  
-Nhiệt độ phòng nuôi trung bình 30-32ºC, giai đoạn đoạn nấm mốc phát triển  
mạnh (16-24 giờ sau khi cấy) thể hạ nhiệt độ xuống 27-28ºC, giai đoạn cuối khoảng  
sau 32 giờ thể nâng lên 34-35ºC. Nhiệt độ khối mốc tốt nhất ở 30-32ºC, không được  
quá 38ºC. Độ ẩm môi trường là 55-58%, càng tránh cho môi trường khỏi bị giảm độ ẩm  
càng tốt. Độ ẩm không khí phòng nuôi 85-100%. Trung bình cứ 1m³ thể tích phòng mốc  
thể cho lên mốc được 3-4kg nguyên liệu.  
-Thời gian nuôi mốc:sản xuất tương công nghiệp khác nhau tùy theo cách xử lí  
mốc tiếp theo. Nếu mốc sau khi nuôi còn tiến hành thủy phân (lên men ướt hoặc ủ mốc  
mật) thì thời gian nuôi mốc khoảng 36-48 giờ sau khi trộn giống. Lúc đó hoạt động  
amylase, protease của mốc đều nằm khoảng cực đại, còn hàm lượng đường khử thì vào  
khoảng 20-25%. Nếu mốc sau khi nuôi không thủy phân mà tiến hành ngả tương hoặc  
muối mốc ngay thì thời gian ra mốc cần kéo dài đến khoảng 60-70 giờ, lúc đó hàm lượng  
đường khử trong mốc đạt tới mức cao 34-36%, như vậy mốc sẽ ngọt hơn khi 36-48 giờ.  
19  
   
Tải về để xem bản đầy đủ
docx 25 trang yennguyen 31/03/2022 10140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Vi sinh vật học thực phẩm - Đề tài: Vi sinh vật trong sản xuất nước tương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxtai_lieu_vi_sinh_vat_hoc_thuc_pham_de_tai_vi_sinh_vat_trong.docx