Nghiên cứu tính chất lưu biến của nhũ tương dầu - Nước ở mỏ cá tầm

THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 3 - 2019, trang 26 - 31  
ISSN-0866-854X  
NGHIÊN CỨU TÍNH CHẤT LƯU BIẾN  
CỦA NHŨ TƯƠNG DẦU - NƯỚC Ở MỎ CÁ TẦM  
Nguyễn Thúc Kháng1, Trần Đình Kiên2, Nguyễn Ngọc Anh Tuấn3, Phan Đức Tuấn3  
1Hội Dầu khí Việt Nam  
2Đại học Mỏ - Địa chất Hà Nội  
3Liên doanh Việt - Nga “Vietsovpetro”  
Email: tuanpd.hq@vietsov.com.vn  
Tóm tắt  
Việc nghiên cứu tính chất lưu biến của sản phẩm từ các giếng đang khai thác là cơ sở quan trọng để tìm ra các giải pháp kỹ thuật tối  
ưu, nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu gom, xử lý và vận chuyển sản phẩm.  
Ở Việt Nam, tính chất lưu biến của dầu thô đã được nghiên cứu, đặc biệt là dầu thô của mỏ Bạch Hổ và Rồng. Tuy nhiên, các nghiên  
cứu về tính chất lưu biến của các loại hỗn hợp dầu - nước, dầu - nước - khí còn rất hạn chế. Hiện nay, độ ngập nước tại các giếng khai thác  
xuất hiện sớm và tăng nhanh, do vậy việc nghiên cứu tính chất lưu biến của hỗn hợp dầu nước để có cơ sở triển khai các giải pháp công  
nghệ là yêu cầu cấp thiết.  
Bài báo giới thiệu nghiên cứu tính chất lưu biến của chất lưu 2 pha dầu - nước và đưa ra các kết quả nghiên cứu tính chất lưu biến của  
nhũ tương dầu - nước của mỏ Cá Tầm, Lô 09-3/12, bể Cửu Long, thềm lục địa Việt Nam.  
Từ khóa: Liên doanh Việt - Nga "Vietsovpetro", vận chuyển dầu, nhũ tương dầu - nước, tính lưu biến.  
1. Giới thiệu  
Mỏ Cá Tầm thuộc Lô 09-3/12 với diện tích là 5.559km2,  
nằm ở rìa phía Đông Nam bể Cửu Long, cách Tp. Vũng Tàu  
160km về phía Đông Nam, tiếp giáp với Lô 09-1 ở phía Tây  
Bắc; Lô 09-2/09 ở phía Bắc; Lô 03 và Lô 04-2 ở phía Đông;  
Lô 10 ở phía Nam và Lô 17 ở phía Tây.  
phía Bắc - Đông Bắc và khoan vào năm 2015 với đối tượng  
thăm dò chính là các vỉa cát kết trong trầm tích Oligocene  
D và Miocene dưới. Kết quả thử vỉa đã nhận được dòng  
dầu thương mại trong Oligocene D với lưu lượng trên  
1.300m3/ngày và trong Miocene dưới với lưu lượng tổng  
cộng trên 1.000m3/ngày. Giếng khoan tiếp theo CT-4X  
được đặt ở vị trí cận biên của cấu tạo (trên quan điểm hiệu  
quả kinh tế của dự án), cách giếng CT-3X gần 1km về phía  
Đông Bắc. Giếng khoan kết thúc thử vỉa vào tháng 9/2016  
cho kết quả thành công ở cả 4 đối tượng với dòng dầu  
công nghiệp có lưu lượng từ 200 đến trên 600m3/ngày.  
Khu vực Cá Tầm trước đây thuộc Lô 09 cùng với các  
mỏ Bạch Hổ, Rồng do Liên doanh Việt - Nga“Vietsovpetro”  
tiến hành công tác tìm kiếm, thăm dò từ năm 1981. Tại  
đây, Vietsovpetro đã thu nổ trên 1.500km tuyến địa chấn  
2D, thực hiện các công tác nghiên cứu địa chất và khoan  
giếng khoan tìm kiếm SOI-1X vào năm 1989 trên cấu tạo  
Sói với kết quả nhận được dòng dầu có lưu lượng thấp  
(8m3/ngày) từ trầm tích Miocene dưới. Đến năm 1994,  
Vietsovpetro đã hoàn trả phần lớn diện tích Lô 09, chỉ  
giữ lại khu vực mỏ Rồng - Bạch Hổ và được đặt tên mới là  
Lô 09-1. Phần diện tích hoàn trả của Lô 09 (cũ) được chia  
thành Lô 09-2 (ở phía Bắc) và Lô 09-3 (ở phía Nam).  
Trong quá trình khai thác hỗn hợp dầu khí khi được  
hòa trộn ở một điều kiện nhất định tạo thành nhũ tương  
dầu nước. Thành phần của chất lưu này được hòa vào  
môi trường của chất khác. Chất được hòa trộn này được  
gọi là "pha tán xạ", chất khác được gọi là "môi trường tán  
xạ". Nghiên cứu này chỉ tập trung vào hệ nhũ tương nước  
trong dầu khi nước là pha tán xạ và dầu thô là môi trường  
tán xạ.  
Ở mỏ Cá Tầm, giếng khoan thăm dò tiếp theo - giếng  
CT-3X được đặt ở vị trí cách giếng CT-2X gần 1,5km về  
Ở Việt Nam, tính chất lưu biến của dầu thô đã được  
nghiên cứu, đặc biệt là dầu thô của mỏ Bạch Hổ và Rồng.  
Tuy nhiên, các nghiên cứu về tính chất lưu biến của các  
loại hỗn hợp dầu - nước, dầu - nước - khí còn rất hạn chế.  
Ngày nhận bài: 7/1/2019. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 7 - 11/1/2019.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 6/3/2019.  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
26  
PETROVIETNAM  
Hiện nay, độ ngập nước tại các giếng khai thác xuất hiện  
sớm và tăng nhanh, do vậy việc nghiên cứu tính chất lưu  
biến của hỗn hợp dầu - nước nói chung và tại mỏ Cá Tầm  
nói riêng để có cơ sở triển khai các giải pháp công nghệ là  
yêu cầu cấp thiết.  
3]. Đối với các loại nhũ tương với tỷ lệ pha tán xạ W < 0,05  
thì độ nhớt của nhũ tương µnt có thể xác định với độ chính  
xác cho phép bằng công thức của Einstein:  
µnt = µd (1 + 2,5W)  
(1)  
Trong đó:  
µd: Độ nhớt động học của môi trường tán xạ (dầu thô),  
mPa.s  
2. Tính chất lưu biến của nhũ tương dầu - nước  
Trong khai thác dầu khí, việc nghiên cứu tính lưu biến  
của chất lỏng từ các giếng đang khai thác là một yêu cầu  
tất yếu nhằm tìm ra các giải pháp kỹ thuật hữu hiệu và  
kinh tế để có thể thu gom, xử lý và vận chuyển đến khu  
vực tàng trữ - xuất bán.  
W: Tỷ lệ tính theo thể tích của pha tán xạ (nước), %.  
Ngoài ra, Vand đã đưa ra công thức lý thuyết xác định  
độ nhớt của nhũ tương và sau đó được chính xác hóa  
bằng thực nghiệm:  
Thành phần của chất lỏng được khai thác từ các mỏ  
dầu thô thường bao gồm: dầu thô, khí và nước. Do vậy  
dòng chảy trong hệ thống khai thác có thể là dòng chảy  
1, 2 hoặc 3 pha tùy theo từng điều kiện và công đoạn cụ  
thể trong quá trình khai thác. Cũng vì vậy tính lưu biến  
của các sản phẩm khai thác cũng được nghiên cứu. Các  
nghiên cứu lưu biến chất lưu nhiều pha (2 hoặc 3 pha)  
phức tạp hơn nhiều so với nghiên cứu chất lưu 1 pha.  
µnt = µd (1 + 2,5W + 7,17W2 + 16,2W3)  
(2)  
V.I.Kotanov đã tiến hành nghiên cứu đối với dòng  
chảy rối trong ống của hệ nhũ "nước - dầu diesel", "nước  
- dầu hỏa", "nước - xăng", "nước - dầu cách điện" và khẳng  
định trong các tính toán kỹ thuật (với độ sai số cho phép  
10%) bằng công thức (2) có thể xác định độ nhớt của  
nhũ tương với tỷ lệ của pha tán xạ W < 0,4.  
Ở Việt Nam việc nghiên cứu tính chất lưu biến của dầu  
thô đã được nghiên cứu, đặc biệt là cho dầu thô của mỏ  
Bạch Hổ và Rồng. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu được  
công bố thường chỉ cho dầu thô. Các kết quả nghiên cứu  
về lưu biến cho hỗn hợp dầu - nước, hỗn hợp dầu - nước  
- khí còn rất hạn chế.  
Phương trình V.G.Benskovski đối với nhũ tương của  
dầu chứa paraffin với tỷ lệ nước (pha tán xạ) W < 0,35 có  
dạng sau:  
(3)  
µnt = µd (1 + 7,1W)  
Để xác định độ nhớt của nhũ tương dầu có thể sử  
dụng một trong số các công thức sau:  
Ở giai đoạn hiện nay, khi các mỏ Bạch Hổ và Rồng bước  
sang giai đoạn khai thác cuối, các mỏ phát hiện mới phần  
lớn là mỏ nhỏ như Gấu Trắng, Thỏ Trắng, Cá Tầm… hàm  
lượng nước xuất hiện trong chất lưu sớm và tăng nhanh,  
do vậy việc nghiên cứu tính lưu biến cho hỗn hợp dầu nước  
để có cơ sở cho các giải pháp công nghệ đối với các mỏ sẽ  
và đang được đưa vào khai thác, cũng như việc khai thác  
các mỏ lớn ở giai đoạn cuối là yêu cầu cấp thiết hiện nay.  
Công thức E.G.Richardson:  
µnt = µd ekw, trong đó k = 2,5  
Công thức Brinsman:  
µnt = µd (1 - W)-k, trong đó k = 2,5  
Công thức Teilor:  
µnt = µd (1+ 25W µ  
(4)  
(5)  
(6)  
+ 0,4µ  
+ µ  
)
µ
Trong quá trình khai thác hỗn hợp dầu khí khi được  
hòa trộn ở một điều kiện nhất định tạo thành nhũ tương  
dầu nước. Thành phần của chất lưu này được hòa vào môi  
trường của chất khác. Chất được hòa trộn này được gọi  
là "pha tán xạ", chất khác được gọi là "môi trường tán xạ".  
Nghiên cứu này chỉ tập trung vào hệ nhũ tương nước trong  
dầu khi nước là pha tán xạ và dầu thô là môi trường tán xạ.  
Trong đó µw là độ nhớt của pha tán xạ.  
Công thức V.F.Medvedev:  
µnt = µd (1 + 0,25W + 4W2)  
Công thức E.Hatschek:  
(7)  
(8)  
(9)  
3
-1  
µ = µ (1 +  
)
nt  
d
Tính chất lưu biến của nhũ tương dầu nước phụ thuộc  
vào nhiều yếu tố, trong đó tỷ lệ nước trong dầu thô và  
nhiệt độ là các yếu tố quan trọng.  
Công thức Sibri:  
µ = µ (1 + 1,3  
3
-1  
)
nt  
d
Phân tích quá trình xác định độ nhớt nhũ tương cho  
thấy, không có một công thức nào dùng để xác định giá trị  
Các nghiên cứu trên thế giới đã công bố về ảnh hưởng  
của tỷ lệ nước - dầu lên tính chất lưu biến của dầu thô [1 -  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
27  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
này một cách tổng quát. Trong thực tế đối với từng trường  
hợp cụ thể cần phải tìm một công thức tương thích nhất.  
Các công thức trên chưa tính tới sự thay đổi tính lưu biến  
của nhũ tương so với nhiệt độ. Điều này đặc biệt quan  
trọng đối với loại dầu phi Newton khi nhiệt độ ảnh hưởng  
rất lớn lên tính lưu biến của dầu thô cũng như của nhũ  
tương khi dầu thô là môi trường tán xạ.  
- Điều chỉnh nhiệt độ dung dịch khoảng 60oC hay  
nhiệt độ tương thích với thực tế;  
- Rót dầu và nước vào bình chứa 1 và 5 theo tỷ lệ  
tính toan;  
- Ổn định dầu và nước trong bình chứa 1 và 5 khoảng  
10 - 15 phút;  
- Mở van 2 và điều chỉnh tốc độ nước khoảng 2ml/  
phút;  
Ở Việt Nam, trên cơ sở tính chất dầu thô của Bạch Hổ  
một số kết quả nghiên cứu đã được đưa ra trong tài liệu  
[4].  
- Điều chỉnh tốc độ khuấy trộn hỗn hợp dầu nước  
đến 2.000 vòng/phút;  
a. Trong trường hợp nhiệt độ dao động từ 26 - 34oC và độ  
ngập nước dao động từ 0 - 68%:  
- Quá trình tạo nhũ tương kết thúc khi lượng nước  
trong bình 1 kết thúc;  
µnt = Кµµo26[1 + 1,2 × 10-2Кµ-0,5W - 2,5 × 10-4Кµ-0,8W2  
(10)  
- Đo kích thước hạt nhũ bằng kính hiển vi điện tử.  
Trong trường hợp kích thước hạt nhũ lớn hơn 100µm, lặp  
lại các bước trên với vận tốc nước nhỏ hơn 2ml/phút.  
+ 6,67 × 10-6 Кµ-0,85W3]  
Trong đó:  
µ
Кµ =  
: Hệ số độ nhớt;  
4. Phương pháp xác định độ nhớt động học  
µ
026  
µt: Độ nhớt của dầu ở nhiệt độ dao động từ 26 - 34oC;  
µo26: Độ nhớt của dầu ở nhiệt độ 26oC.  
Rót mẫu nhũ tương dầu nước từ bình thủy tinh sang  
cốc thí nghiệm. Trong cốc thí nghiệm được thiết lập đầu  
b. Trong trường hợp nhiệt độ dao động từ 37 - 55oC và độ  
ngập nước dao động từ 0 - 68%  
1: Bình chứa nước  
2: Van tiết lưu để điều chỉnh vận tốc nước  
3: Bộ điều chỉnh nhiệt độ  
4: Máy khuấy trộn  
5: Thiết bị chứa dầu thô  
6: Bể ổn định nhiệt  
µe = Кµµo37[1 + 1,3 × 10-2Кµ-0,7W - 9,0 × 10-4Кµ0,2W2  
(11)  
+ 6,67 × 10-6 Кµ1,5W3]  
Trong đó:  
µ
Кµ =  
: Hệ số độ nhớt;  
µ
o37  
µt: Độ nhớt của dầu ở nhiệt độ từ 37 - 55oC;  
µo37: Độ nhớt của dầu ở nhiệt độ to = 37oC.  
Đối với trường hợp nhiệt độ dao động từ 34 - 37oC khi  
nhũ tương thay đổi từ chất lỏng Newton sang chất lỏng  
phi Newton, độ nhớt hiệu dụng có thể xác định dựa trên  
phương pháp ngoại suy công thức (11).  
3. Phương pháp tạo nhũ tương trong phòng thí nghiệm  
Hình 1. Sơ đồ chuẩn bị mẫu nhũ tương dầu - nước trong phòng thí nghiệm  
Để tạo nhũ tương dầu nước trong điều kiện phòng thí  
nghiệm tương đương với nhũ tương dầu nước ngoài thực  
tế, áp dụng sơ đồ như Hình 1.  
Quy trình chuẩn bị mẫu nhũ tương dầu - nước để  
nghiên cứu ảnh hưởng và mô phỏng quá trình vận chuyển  
dầu bằng đường ống được mô tả như sau:  
- Xác định tỷ lệ nước và dầu cần pha trộn dựa trên  
hàm lượng nhũ để chuẩn bị mẫu nhũ tương có thể tích  
200ml;  
Hình 2. Hệ thống MV viscometer Rotovisco VT-550  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
28  
PETROVIETNAM  
Bảng 1. Các thông số mô tả tính chất lưu biến nhũ tương của dầu thô mỏ Cá Tầm  
W(%)  
µ độ nhớt (mPa.s)  
31oC  
78,5  
35oC  
71,2  
40oC  
62,3  
45oC  
25,8  
50oC  
23,8  
55oC  
20,1  
60oC  
17,9  
0
5
80,1  
72,5  
65,1  
28,5  
25,1  
23,1  
19,5  
10  
20  
30  
40  
50  
60  
65  
82,3  
90,4  
75,6  
85,4  
68,5  
80,2  
35,2  
56,2  
85,2  
155,3  
273,2  
480,6  
652,1  
32,1  
49,9  
67,5  
136,8  
256,5  
456,9  
613,1  
26,5  
45,9  
54,2  
115,6  
231,6  
398,5  
560,2  
21,9  
41,5  
49,6  
95,2  
204,1  
370,1  
496,5  
126,5  
220,6  
420,1  
678,2  
870,3  
115,6  
215,3  
398,5  
636,9  
824,3  
102,5  
182,6  
393  
598,2  
785,1  
dò của hệ thống MV viscometer Rotovisco VT-550 tại  
nhiệt độ ban đầu. Mẫu nhũ tương cần đo độ nhớt động  
học được giữ ổn định trong thời gian 10 phút, sau đó mẫu  
nhũ tương được hạ nhiệt độ bằng thiết bị làm lạnh với tốc  
độ 0,15oC/phút với vận tốc biến dạng 20s-1. Quy trình xác  
định độ nhớt động học được tiếp tục đến khi đạt được  
nhiệt độ 21oC tương đương với nhiệt độ thấp nhất của  
nước biển.  
T trong khoảng 31- 40oC  
100  
90  
80  
70  
60  
50  
40  
y = 0,0206x2 + 0,1788x + 78,552  
R² = 0,9996  
y = 0,0278x2 + 0,1569x + 71,151  
R² = 0,999  
y = 0,0261x2 + 0,3675x + 62,385  
R² = 0,999  
31QC  
35QC  
40QC  
5. Mô hình toán học xác định tính chất lưu biến của  
dầu thô ở mỏ Cá Tầm  
30  
0
5
10  
15  
20  
25  
W(%)  
Phương trình xác định tính chất lưu biến của dầu thô  
ở mỏ Cá Tầm được diễn tả dưới dạng phương trình toán  
học, phương trình phụ thuộc các biến số độ ngập nước  
(W%) và nhiệt độ lưu chất (ToC):  
Hình 3. Sự phụ thuộc của độ nhớt hỗn hợp dầu thô vào độ ngập nước  
khi nhiệt độ dao động từ 31 - 40oC  
dầu thô vào độ nhớt có dạng tổng quát phương trình bậc  
2 - đường cong phụ thuộc (có sai số nhỏ nhất), từ các kết  
quả thực tế thu được trong phòng thí nghiệm có thể xác  
định các hệ số (ai):  
(12)  
µ = µo × f(W, Т)  
µo: Độ nhớt của môi trường tán xạ ở nhiệt độ To, mPa.s  
W: Độ ngập nước, %  
µ = a0 × W2 + a1 × W + a2  
(14)  
T: Nhiệt độ nhũ tương dầu nước, oC.  
Các hệ số của phương trình (14) có thể được xác  
định bằng phương pháp xây dựng ma trận các điểm thực  
nghiệm gần với đường cong mô phỏng nhất. Bước tiếp  
theo lập Bảng 1 thể hiện ma trận các điểm để xây dựng  
đường cong phụ thuộc của phương trình (12) tại các nhiệt  
độ khảo sát 31oC, 35oC, 40oC, 45oC, 50oC, 55oC, 60oC.  
Phương pháp xây dựng mô hình toán học [5] dựa  
trên cơ sở tổ hợp các phương trình thực nghiệm, từ đó  
lựa chọn các kết quả chính xác, gần đúng nhất với các kết  
quả thu được trong phòng thí nghiệm. Các phương trình  
chọn lọc được sử dụng để mô phỏng quá trình chuyển  
động hỗn hợp dầu khí với điều kiện tác động bên ngoài  
cho trước (độ ngập nước, nhiệt độ).  
Trên cơ sở số liệu của Bảng 1, phương trình µ = µo ×  
f(W, Т) được xem xét cho các khoảng nhiệt độ và độ ngập  
nước khác nhau:  
Về cơ bản phương trình phụ thuộc các biến số được  
thể hiện như phương trình (12), việc đầu tiên để xác lập  
phương trình (12) cần xác định phương trình phụ thuộc  
bên dưới khi nhiệt độ không đổi:  
Trường hợp 1: Khi nhiệt độ dầu thô dao động từ 31 -  
40oC và độ ngập nước thấp hơn 20%  
Dựa trên các kết quả thực nghiệm, khảo sát các  
phương trình bằng excel để lựa chọn phương trình phù  
hợp với sai số nhỏ nhất cho phép nhỏ nhất (phương trình  
bậc hai).  
(13)  
µ = f(W)  
Các dữ liệu để xây dựng phương trình (13) được lấy  
từ thực nghiệm, các số liệu trong phòng thí nghiệm.  
Phương trình phụ thuộc biến số hàm lượng nước trong  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
29  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
γ = 134,893 - 1,8807 × Т + 134,893 × Т2  
(20)  
Bảng 2. Các hệ số của hệ phương trình (I)  
Hệ số  
a1  
0,1788  
0,1569  
0,3675  
Dạng phương  
trình  
ToC  
Để chính xác hóa kết quả thực nghiệm ta có hệ số  
Ω = 1/µo = 1/78,5 = 0,0127.  
а0  
a2  
31  
35  
40  
0,0206  
0,0278  
0,0261  
78,552  
71,151  
62,385  
µ = f(W)  
Kết hợp các phương trình (18 - 20) được phương trình  
tổng quát mô tả tính chất lưu biến của dầu thô ở mỏ Cá  
Tầm với nhiệt độ dầu thô dao động từ 31 - 40oC và độ  
ngập nước thấp hơn 20% như sau:  
Hệ phương trình mô tả tính chất lưu biến như sau:  
µ31 C = 0,0206 × W2 + 0,1788 × W + 78,552; R2 = 0,999  
o
µ = µo × f(W, Т) = 0,0127 × µo × ((-0,2931 + 0,0175 × Т -  
0,00024 × Т2) × W2 + (6,0863 - 0,3545 × Т + 0,0052 × Т2)  
× W + (134,893 - 1,8807 × Т + 134,893 × Т2))  
2
2
(I)  
µ35 C = 0,0278 × W + 0,1569 × W + 71,151; R = 0,999  
o
µ40 C = 0,0261 × W2 + 0,3675 × W + 62,385; R2 = 0,999  
o
Sai số tối đa cho phép của phương trình trên so với  
đo thực tế là 5,4%.  
với R2: Hệ số chính xác.  
Sai số phép đo các lần thí nghiệm khi thực hiện trong  
phòng thí nghiệm được xác định bằng giá trị trung bình  
tiêu chuẩn εtb, εtb không được vượt quá 5% để đảm bảo độ  
chính xác và tin cậy của kết quả nhận được.  
Trường hợp 2: Khi nhiệt độ dầu thô dao động từ 31 -  
40oC và độ ngập nước dao động từ 20 - 65%  
Phương trình tổng quát mô tả tính chất lưu biến của  
dầu thô ở mỏ Cá Tầm với nhiệt độ dầu thô dao động từ  
31 - 40oC và độ ngập nước dao động từ 20 - 65% như sau:  
Bước tiếp theo của mô phỏng là tính toán các hệ số  
của phương trình sử dụng dữ liệu từ hệ phương trình (I)  
theo trình tự nhiệt độ tăng dần (Bảng 2).  
µ = µo × f(W, Т) = 0,011 × µo × ((1,3479 - 0,050 × Т  
+ 0,00065 × Т2) × W2 + (-78,760 – 3,313 × Т - 0,044 × Т2)  
× W + (1182,666 – 47,956 × Т + 0,629 × Т2))  
Tính toán các hệ số nhận được phương trình bậc 4 phụ  
thuộc 3 biến số: độ nhớt, độ ngập nước, nhiệt độ.  
Sai số tối đa cho phép của phương trình trên so với  
đo thực tế là 6,8%.  
µ = µo × f(W, Т) = µo × ((α0 + α1 × Т + α2 × Т2) × W2  
+ (β0 + β1 × Т + β2 × Т2) × W + (γ0 + γ1 × Т + γ2 × Т2))  
Trường hợp 3: Khi nhiệt độ dầu thô dao động từ 45 -  
60oC và độ ngập nước thấp hơn 20%  
với αi, βi và γi (i = 0, 1, 2) - các hệ số được xác định theo  
Bảng 2, µo - độ nhớt của môi trường tán xạ tại nhiệt độ  
Phương trình tổng quát mô tả tính chất lưu biến dầu  
thô mỏ Cá Tầm với nhiệt độ dầu thô dao động từ 45 - 60oC  
và độ ngập nước thấp hơn 20% như sau:  
To (31 C) (mPa.s), µ - độ nhớt nhũ tương tại nhiệt độ T(mPa.s),  
W - độ ngập nước của mẫu phân tích (%), T - nhiệt độ khảo  
sát (oC).  
o
µ = µo × f(W, Т) = 0,038 × µo × ((0,4800 - 0,01695 × Т  
+ 0,00017 × Т2) × W2 + (-6,284 + 0,288 × T - 0,00314 ×  
Т2) × W + (64,674 - 1,1443 × Т + 0,0061 × Т2))  
Sự phụ thuộc của độ nhớt vào độ ngập nước và nhiệt  
độ  
0,0206 = α0 + α131 + α2312  
0,0278 = α0 + α135 + α2352  
0,0261 = α0 + α140 + α2402  
(15)  
Sai số tối đa cho phép của phương trình trên so với  
đo thực tế là 4,8%.  
0,1788 = β0 + β131 + β2312  
0,1569 = β0 + β135 + β2352  
0,3675 = β0 + β140 + β2402  
Trường hợp 4: Khi nhiệt độ dầu thô dao động từ 45 -  
60oC và độ ngập nước dao động từ 20 - 65%  
(16)  
(17)  
Phương trình tổng quát mô tả tính chất lưu biến của  
dầu thô ở mỏ Cá Tầm với nhiệt độ dầu thô dao động từ 45  
- 60oC và hàm lượng nước dao động từ 20 - 65% như sau:  
78,552 = γ0 + γ131 + γ2312  
71,151 = γ0 + γ135 + γ2352  
62,385 = γ0 + γ140 + γ2402  
µ = µo × f(W, Т) = 0,0177 × µo × ((0,4800 - 0,01695 × Т  
+ 0,00017 × Т2) × W2 + (-6,284 + 0,288 × T - 0,00314  
× Т2) × W + (64,674 - 1,1443 × Т + 0,0061 × Т2))  
Giải các hệ phương trình (15 - 17) nhận được các  
phương trình sau:  
α = -0,2931 + 0,0175 × Т - 0,00024 × Т2  
β = 6,0863 - 0,3545 × Т + 0,0052 × Т2  
(18)  
(19)  
Sai số tối đa cho phép của phương trình trên so với  
đo thực tế là 8%.  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
30  
PETROVIETNAM  
6. Kết luận  
Phương trình lưu biến của nhũ tương của mỏ Cá Tầm  
phụ thuộc không chỉ ở hàm lượng nước mà cả nhiệt độ  
của hỗn hợp. Khi hàm lượng trong hỗn hợp nhỏ hơn 15%  
ảnh hưởng của pha tán xạ lên tính chất lưu biến của nhũ  
tương dầu - nước không lớn. Ảnh hưởng này tăng dần  
khi hàm lượng nước vượt quá 20% và tăng dần tới điểm  
chuyển pha.  
2. L.Lan, S.Jayanti, G.F.Hewitt. Flow pattern, phrase  
inversion and pressure gradient in air-oil-water flow in a  
horizontal pipe. Multiphrase Flow 95 - Kyoto International  
Conference, Japan. 3 - 7 April, 1995.  
3. В.Ф.Медведев, А.И.Гужов, В.И.Бойко. Условие  
польного эмульгтрования пластого воды и нефти в  
трубопроводе. Нефтепромысловое дело. 1984; 2.  
4. Nguyễn Thúc Kháng. Những kết quả nghiên cứu  
tính chất lưu biến của chất lỏng hai pha ở mỏ Bạch Hổ, XNLD  
Vietsovpetro. Tạp chí Dầu khí. 1999; 2: trang 30 - 37.  
Kết quả thí nghiệm và phương trình xác định tính chất  
lưu biến của dầu thô mỏ Cá Tầm ở các hàm lượng nước và  
nhiệt độ khác nhau, cho phép dự báo và là cơ sở để thiết  
kế các giải pháp kỹ thuật công nghệ khi đưa dầu thô của  
mỏ Cá Tầm vào hệ thống khai thác toàn mỏ.  
5. Н.Д.Вертинская.  
моделирование многофакторных  
параметрических процессов. ИрГТУ: Иркутск. 2003.  
Математическое  
и
много  
Tài liệu tham khảo  
1. В.Ф.Медведев.  
Сбор  
и
подготовка  
неустойчивых эмульсий на промыслах. Недра. 1987.  
STUDYING RHEOLOGICAL PROPERTIES OF OIL-WATER EMULSION  
IN CA TAM FIELD  
Nguyen Thuc Khang1, Tran Dinh Kien2, Nguyen Ngoc Anh Tuan3, Phan Duc Tuan3  
1Vietnam Petroleum Association  
2Hanoi University of Mining and Geology  
3Vietsovpetro  
Email: tuanpd.hq@vietsov.com.vn  
Summary  
The study of the rheological properties of products from production wells is an important basis to find optimal technical solutions to  
enhance the efficiency of collection, treatment and transportation of products.  
In Vietnam, the rheological properties of crude oil have been studied, especially crude oil from Bach Ho and Rong fields. However,  
studies of the rheological properties of oil-water, oil-water-gas mixture are still limited. Nowadays, water-cut appears early and increases  
rapidly at the production wells, that is why there is an urgent need to study the rheological properties of oil-water mixture to have the  
basis for deployment of technical solutions.  
The article introduces the study of the rheological properties of oil-water 2 phase fluid and presents the results of studying oil-water  
emulsion rheological properties of Ca Tam field (block 09-3/12, Cuu Long basin, continental shelf of Vietnam).  
Key words: Vietsovpetro, oil transportation, oil-water emulsion, rheological properties.  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
31  
pdf 6 trang yennguyen 16/04/2022 2680
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tính chất lưu biến của nhũ tương dầu - Nước ở mỏ cá tầm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_tinh_chat_luu_bien_cua_nhu_tuong_dau_nuoc_o_mo_ca.pdf