Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu kiểm soát tài chính, tài sản công của Đảng và nhà nước

NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI  
NAÂNG CAO CHAÁT LÖÔÏNG NGUOÀN NHAÂN LÖÏC  
KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC ÑAÙP ÖÙNG YEÂU CAÀU  
KIEÅM SOAÙT TAØI CHÍNH, TAØI SAÛN COÂNG  
CUÛA ÑAÛNG VAØ NHAØ NÖÔÙC  
S. HOÀNG BỔNG*  
âng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần nâng cao hiệu lực hoạt động của Kiểm toán  
nhà nước (KTNN) đáp ứng yêu cầu kiểm soát tài chính, tài sản công của Đảng và Nhà  
nước nhằm khẳng định sự cần thiết, tính chính đáng để tồn tại một cơ quan có chức năng  
N
kiểm tra, kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công của một quốc gia như  
KTNN. Trong những năm qua, cùng với việc nâng cao năng lực, hiệu quả và chất lượng kiểm toán, KTNN  
có các giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để có cơ sở cho việc hoạch định  
đúng đắn các chính sách phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Các kết quả phân tích này  
nhằm đưa ra một số gợi ý hữu ích nhằm góp phần nâng cao hiệu lực hoạt động trong chiến phát triển của  
Kiểm toán nhà nước đến năm 2020.  
Từ khóa: Chất lượng nguồn nhân lực của kiểm toán nhà nước.  
Improving the quality of human resources of SAV to meet the requirements of public finance, assets  
controls by our party and state  
Improving the quality of human resources is to contribute to improving the effectiveness of SAV to meet  
the requirements of financial control and public assets of the Party and the State in order to confirm the  
necessity and legitimacy for the existence of an agency which has the function of inspecting and controlling  
the management and use of finance and public assets of a country as SAV. In the past years, together with  
improving the capacity, efficiency and quality of auditing, SAV has had important solutions to improve the  
quality of human resources to serve as a basis for proper planning and developing policies and effective  
use of human resources. e results of this analysis are intended to provide some useful suggestions to  
contribute to improving operational effectiveness in the development of SAV up to 2020.  
key words: e quality of human resources of SAV.  
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ  
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển  
năm 2011) đã khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà  
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,  
do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà  
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh  
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và  
đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh  
đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân  
công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong  
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư  
pháp. Điều đó, đã thể hiện yêu cầu của Đảng phải  
tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước, nhằm  
nâng cao hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền lực  
nhà nước. Để tăng cường kiểm soát quyền lực nhà  
nước theo yêu cầu của Đảng, cần phải có các công  
*Kiểm toán nhà nước khu vực XIII  
6
Số 128 - tháng 6/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
cụ kiểm soát có hiệu lực và hiệu quả, trong đó có  
cơ quan KTNN. Vi vị thế là cơ quan kiểm tra tài  
chính công do Quốc hội thành lập, hoạt động độc  
lập và chỉ tuân theo pháp luật, KTNN sẽ là công cụ  
kiểm tra tài chính có hiệu lực nhất của Nhà nước  
đối với mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị có quản lý, sử  
dụng tài chính, tài sản công, đặc biệt là trong điều  
kiện Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh cuộc  
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở  
nước ta hiện nay.  
bao gồm: Sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức  
được vận dụng vào quá trình lao động của mỗi cá  
nhân (trí lực), những ham muốn, hoài bão của bản  
thân người lao động hướng tới một mục đích xác  
định (tâm lực). Nhân lực với ý nghĩa đầy đủ của  
nó bao gồm ba yếu tố có sự liên hệ biện chứng với  
nhau, đó là thể lực, trí lực, tâm lực. Nguồn nhân  
lực được hiểu là nơi phát sinh, nơi cung cấp sức lực  
của con người đầy đủ trên các phương diện cho lao  
động sản xuất.  
Hiện nay, trên thế giới và trong nước có nhiều  
khái niệm về nguồn nhân lực với các góc độ tiếp  
cận khác nhau.  
Để nâng cao hiệu lực hoạt động của KTNN,  
đáp ứng yêu cầu kiểm soát tài chính, tài sản công  
của Đảng và Nhà nước cần phải thực hiện đồng bộ  
nhiều giải pháp; trong đó có giải pháp quan trọng  
hàng đầu là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực  
kiểm toán nhà nước. Trong phạm vi bài viết này,  
chúng tôi chỉ xin đề cập đến hai khía cạnh cơ bản  
có ý nghĩa về mặt phương pháp luận để nâng cao  
chất lượng nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước là  
khái niệm và đặc điểm của nguồn nhân lực kiểm  
toán nhà nước.  
eo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: Nguồn  
nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng  
lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực  
tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội trong  
một cộng đồng.  
eo Tchức Lao động Quốc tế (ILO) thì:  
Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những  
người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động.  
khái niệm nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước  
Ngân hàng ế giới cho rằng: Nguồn nhân lực  
là toàn bộ “vốn người” (thể lực, trí lực, kỹ năng  
nghề nghiệp...) mà mỗi cá nhân sở hữu. Nguồn  
eo Từ điển Tiếng Việt: Nguồn là nơi phát  
sinh, nơi cung cấp. Nhân lực là sức của con người  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 128 - tháng 6/2018  
7
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI  
lực con người được coi như là một nguồn vốn bên  
cạnh các nguồn vốn khác như tài chính, công nghệ,  
tài nguyên thiên nhiên...  
người đang chờ đợi để có thể vào làm việc cho tổ  
chức đó.  
Sự phát triển của nguồn nhân lực có thể đánh  
giá theo hai phương diện: Vsố lượng, cơ cấu và  
chất lượng.  
Giáo trình Quản lý nguồn nhân lực xã hội, Học  
viện Hành chính Quốc gia, Nhà xuất bản Khoa  
học và Kỹ thuật Hà Nội, năm 2008 đưa ra khái  
niệm nguồn nhân lực xã hội và nguồn nhân lực  
của tổ chức; trong đó: (1) Nguồn nhân lực xã hội  
là dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao  
động. (2) Nguồn nhân của một tổ chức là một bộ  
phận cấu thành nguồn nhân lực của xã hội. Hay  
nói khác đi, nguồn nhân lực của tổ chức là hệ con  
của hệ thống nguồn nhân lực xã hội. Đó là tất cả  
những người làm việc trong tổ chức, từ thủ trưởng  
đến nhân viên. Đó cũng là người đang chờ đợi để  
có thể vào làm việc cho tổ chức, tức là nguồn dự  
trữ của tổ chức. Nguồn nhân lực của một tổ chức  
là một thuật ngữ được sử dụng để phân biệt với  
nhiều loại nguồn lực khác của tổ chức như quyền  
lực, tài lực (tài chính), vật lực (trang thiết bị, máy  
móc nhà xưởng).  
Số lượng nhân lực: Nói đến nguồn lực của bất  
kỳ một tổ chức, một địa phương hay một quốc gia  
nào câu hỏi đầu tiên đặt ra là có bao nhiêu người  
và sẽ có thêm bao nhiêu nữa trong tương lai.  
Đấy là những câu hỏi cho việc xác định số lượng  
nguồn nhân lực. Sự phát triển về số lượng nguồn  
nhân lực dựa trên hai nhóm yếu tố bên trong (nhu  
cầu thực tế công việc đòi hỏi phải tăng số lượng  
lao động) và những yếu tố bên ngoài của tổ chức  
như sự gia tăng về dân số hay lực lượng lao động  
do di dân; số lượng nguồn nhân lực còn phải xem  
xét cả về mặt cơ cấu có phù hợp với nhu cầu của  
lao động hay không.  
Chất lượng nguồn nhân lực: Chất lượng nhân  
lực là yếu tố tổng hợp của nhiều yếu tố bộ phận  
như trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng,  
sức khỏe, thẩm mỹ... của người lao động. Trong  
các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố  
quan trọng trong việc xem xét, đánh giá chất lượng  
nguồn nhân lực.  
Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau có  
thể có những khái niệm khác nhau về nguồn nhân  
lực nhưng những khái niệm trên đây đều thống  
nhất ở nội dung cơ bản sau đây:  
- Nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là lực  
lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm  
sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh thần của các  
cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được  
đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá  
trình phát triển xã hội.  
KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính công cao  
nhất của quốc gia thực hiện kiểm toán nhằm bảo  
đảm việc quản lý, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các  
nguồn lực tài chính, tài sản công phục vụ cho sự  
phát triển của đất nước. Là một cơ quan công quyền,  
nhân lực KTNN bao gồm: Cán bộ, công chức, viên  
chức và kiểm toán viên nhà nước; trong đó:  
- Nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động  
cho xã hội. Con người với tư cách là yếu tố cấu thành  
lực lượng sản xuất, giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực  
cơ bản và nguồn lực của sự phát triển thì không thể  
chỉ được xem xét đơn thuần ở góc độ số lượng hay  
chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất  
lượng; không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi  
lao động mà là các thế hệ con người với những tiềm  
năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, xã hội.  
- Cán bộ: Cán bộ là công dân Việt Nam, được  
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức  
danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng  
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội  
ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung  
ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận,  
thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là  
cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân  
sách nhà nước. Đây là bộ phận giữ vị trí lãnh đạo  
cơ quan KTNN. Hiện nay, ở KTNN chỉ có duy nhất  
- Nguồn nhân lực của một tổ chức là tất cả  
những người làm việc trong tổ chức đó và những  
8
Số 128 - tháng 6/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
Tổng KTNN là cán bộ.  
Ở KTNN, bộ phận này làm việc ở các đơn vị sự  
nghiệp công lập của KTNN.  
- Công chức: Công chức là công dân Việt Nam,  
được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,  
chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt  
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung  
ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị  
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan,  
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng.  
Căn cứ vào ngạch được bổ nhiệm, công chức được  
phân loại như sau: Loại A gồm những người được  
bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên cao cấp hoặc  
tương đương; Loại B gồm những người được bổ  
nhiệm vào ngạch chuyên viên chính hoặc tương  
đương; Loại C gồm những người được bổ nhiệm  
vào ngạch chuyên viên hoặc tương đương; Loại D  
gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch cán sự  
hoặc tương đương và ngạch nhân viên. Ở KTNN,  
bộ phận này chủ yếu làm việc ở các đơn vị thuộc bộ  
máy điều hành của KTNN.  
- KTV nhà nước: KTV nhà nước là công chức  
Nhà nước được bổ nhiệm vào ngạch kiểm toán để  
thực hiện nhiệm vụ kiểm toán. Chức danh KTV  
nhà nước gồm các ngạch sau đây: KTV; KTV  
chính; KTV cao cấp. Đây là bộ phận chiếm đại  
đa số trong tổng biên chế và là lực lượng lao động  
chính, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm toán của  
cơ quan KTNN. Bộ phận này chủ yếu làm việc ở  
các đơn vị thực hiện nhiệm vụ kiểm toán (KTNN  
chuyên ngành, KTNN khu vực).  
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, đội ngũ  
cán bộ, công chức, viên chức, KTV nhà nước phải  
bảo đảm đủ về số lượng, cơ cấu và yêu cầu cao về  
chất lượng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức  
nghề nghiệp trong sáng, tận tụy với công việc, yêu  
ngành, yêu nghề, công tâm, khách quan trong quá  
trình thực thi công vụ. Họ chính là những người  
đang hàng ngày miệt mài thực hiện nhiệm vụ “giữ  
tiền” và “giữ người” cho đất nước, góp phần minh  
bạch và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia.  
- Viên chức: Viên chức là công dân Việt Nam  
được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại  
đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng  
làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị  
sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.  
Từ sự phân tích trên đây, có thể đưa ra định  
nghĩa về nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước như  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 128 - tháng 6/2018  
9
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI  
sau: Nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước là tổng  
thể số lượng, theo cơ cấu và chất lượng cán bộ,  
công chức, viên chức và KTV nhà nước với tổng  
hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm  
chất đạo đức, tinh thần tạo nên năng lực mà bản  
thân họ và cơ quan KTNN đã, đang và sẽ huy động  
vào quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm toán đáp  
ứng yêu cầu phát triển của đất nước.  
tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng tài  
chính, tài sản công. Những năm qua, KTNN mới  
chỉ chủ yếu thực hiện kiểm toán theo loại hình kiểm  
toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ, chưa  
có điều kiện thực hiện nhiều loại hình kiểm toán  
hoạt động. Hiện nay, để thực thi các quy định của  
Hiến pháp năm 2013, KTNN đang chú trọng triển  
khai loại hình kiểm toán hoạt động và tiến tới sẽ tập  
trung vào loại hình kiểm toán quan trọng này. Điều  
đó đòi hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng phải đi trước  
một bước trong việc trang bị kiến thức và kỹ năng  
thực hiện loại hình kiểm toán hoạt động cho đội  
ngũ KTV nhà nước.  
Đặc điểm của nguồn nhân lực kiểm toán  
nhà nước  
Để có cơ sở cho việc hoạch định đúng đắn các  
chính sách phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn  
nhân lực kiểm toán nhà nước ở nước ta, một vấn đề  
quan trọng là phải xuất phát từ đặc điểm của nguồn  
nhân lực kiểm toán nhà nước cũng như xu hướng  
biến đổi của nó. Đặc điểm chủ yếu của nguồn nhân  
lực kiểm toán nhà nước, bao gồm:  
Hai là: Yêu cầu cao về trình độ chuyên môn và  
đạo đức nghề nghiêp  
Nghề nghiệp kiểm toán yêu cầu đội ngũ công  
chức, KTV phải có trình độ chuyên môn, kinh  
nghiệm và kỹ năng tương xứng, đòi hỏi phải có quá  
trình tuyển dụng, đào tạo, huấn luyện rất công phu.  
Kiểm toán là công việc mang tính chuyên môn cao,  
công tác kiểm toán đòi hỏi đội ngũ làm nghề phải  
có trình độ chuyên môn sâu, được đào tạo bài bản,  
không ngừng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức và trau  
dồi kỹ năng nghề nghiệp. KTV nhà nước là một loại  
công chức đặc biệt về chuyên môn nghiệp vụ và đòi  
hỏi điểm xuất phát khá cao về trình độ khi bước vào  
nghề. eo tuyên bố Lima: “Công chức kiểm toán  
của cơ quan KTNN phải có đủ năng lực cần thiết và  
đạo đức để hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ của mình.  
Ngay từ lúc tuyển dụng vào biên chế của cơ quan  
KTNN phải quan tâm đến trình độ kiến thức và  
năng lực trên mức độ trung bình cũng như thực tế  
nghiệp vụ ở mức thỏa đáng của các ứng viên. Trong  
thực tế, KTNN cũng đặt ra tiêu chuẩn tối thiểu đối  
với ứng viên tuyển dụng vào ngành đó là phải có  
bằng đại học trở lên. Cũng theo tuyên bố Lima  
“Cần quan tâm ở mức cao nhất đến việc bồi dưỡng  
lý luận và thực tế nghiệp vụ trên bình diện nội bộ,  
đại học và quốc tế cho tất cả các công chức kiểm  
toán của cơ quan KTNN và khuyến khích công việc  
đó bằng mọi phương tiện, kể cả mặt tài chính và tổ  
chức. Việc bồi dưỡng phải vượt ra khỏi những kiến  
thức kế toán và kiến thức truyền thống về luật, kinh  
Một là: Nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước liên  
quan trực tiếp hoạt động kiểm tra, giám sát của Nhà  
nước về tài chính, tài sản công  
Nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước có vai trò  
quan trọng vì liên quan trực tiếp đến hoạt động  
kiểm tra, giám sát của Nhà nước về tài chính, tài  
sản công. Vi vị thế là cơ quan kiểm tra tài chính  
nhà nước cao nhất, hoạt động KTNN phục vụ việc  
kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử  
dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; góp phần  
thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát,  
lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm  
pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách,  
tiền và tài sản nhà nước. Để đáp ứng yêu cầu nêu  
trên, nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước phải đáp  
ứng yêu cầu thực hiện đầy đủ cả ba loại hình kiểm  
toán là kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân  
thủ và kiểm toán hoạt động; trong đó: Kiểm toán  
báo cáo tài chính là loại hình kiểm toán để kiểm tra,  
đánh giá, xác nhận tính đúng đắn, trung thực của  
báo cáo tài chính; kiểm toán tuân thủ là loại hình  
kiểm toán để kiểm tra, đánh giá và xác nhận việc  
tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế mà đơn vị được  
kiểm toán phải thực hiện; kiểm toán hoạt động là  
loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá tính kinh  
10 Số 128 - tháng 6/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
tế và phải bao gồm cả các kỹ thuật khác về kinh tế  
xí nghiệp, kể cả về xử lý dữ liệu bằng máy vi tính.  
Điều đó có nghĩa là đòi hỏi của nghề kiểm toán đối  
với người làm nghề là không những phải tinh thông  
nghiệp vụ mà còn phải có kỹ năng xử lý nghiệp vụ,  
có hiểu biết sâu, rộng về nhiều lĩnh vực.  
kỹ năng chuyên môn để thực hiện các công việc  
của một cuộc kiểm toán; có khả năng vận dụng các  
kỹ năng chuyên môn phù hợp với sự đa dạng, phức  
tạp của nhiệm vụ được giao. KTV nhà nước phải  
có kỹ năng lập kế hoạch, chương trình kiểm toán;  
kỹ năng thu thập, phân tích thông tin, thu thập  
bằng chứng kiểm toán; kỹ năng lập báo cáo kiểm  
toán, thuyết trình, thảo luận; thực hiện thành thạo  
các phương pháp nghiệp vụ kiểm toán và có khả  
năng sử dụng các phương tiện công nghệ hiện đại  
trong hoạt động kiểm toán.  
KTV nhà nước phải là người có đạo đức nghề  
nghiệp thích hợp. eo Chuẩn mực kiểm toán  
quốc tế cũng như Chuẩn mực KTNN Việt Nam  
thì KTV nhà nước phải đảm bảo các nguyên tắc  
đạo đức nghề nghiệp sau đây: Liêm chính; độc lập,  
khách quan; trình độ, năng lực; kỹ năng chuyên  
môn; thận trọng nghề nghiệp và bảo mật.  
ận trọng nghề nghiệp: KTV nhà nước phải  
thực hiện công việc với sự thận trọng cần thiết  
trong mọi giai đoạn của cuộc kiểm toán. KTV nhà  
nước phải có thái độ hoài nghi mang tính nghề  
nghiệp trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện  
kiểm toán; có thái độ, tác phong thận trọng, kỹ  
lưỡng để công việc đạt chất lượng cao; chỉ tham  
gia vào các hoạt động kiểm toán mà mình có kiến  
thức, kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết trong lĩnh  
vực đó...  
Liêm chính: Trong hoạt động kiểm toán, KTV  
nhà nước phải công minh, chính trực, thẳng thắn,  
trung thực để có chính kiến rõ ràng; công bằng, tôn  
trọng sự thật, không thành kiến và thiên vị. KTV  
nhà nước không được nhận tiền, quà biếu và tránh  
các quan hệ xã hội có thể dẫn đến việc phải nhân  
nhượng trong kiểm toán...  
Độc lập, khách quan: Trong hoạt động kiểm  
toán, KTV nhà nước phải thật sự độc lập, khách  
quan, không bị chi phối hoặc bị tác động bởi bất  
kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần khi kiểm toán và  
đưa ra kết luận, kiến nghị kiểm toán. Trong khi  
thực hiện nhiệm vụ, KTV nhà nước chỉ tuân theo  
pháp luật, các chuẩn mực, quy trình, phương pháp  
chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và các quy định  
khác của KTNN.  
Bảo mật: KTV nhà nước phải có trách nhiệm  
thực hiện theo các quy định của pháp luật về giữ bí  
mật nhà nước, bí mật của đơn vị được kiểm toán về  
những thông tin mà mình đã thu thập được trong  
hoạt động kiểm toán; không được tiết lộ thông tin  
dưới bất kỳ hình thức nào khi chưa được phép của  
cấp quản lý có thẩm quyền, trừ khi có nghĩa vụ  
phải công khai theo quy định của pháp luật.  
Để có được đội ngũ công chức, KTV nhà nước  
tinh thông nghiệp vụ và có đạo đức trong sáng đòi  
hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ phải  
được thực hiện thường xuyên, liên tục, có kế hoạch  
và nội dung phù hợp.  
Trình độ, năng lực: KTV nhà nước phải có sự  
am hiểu về pháp luật, các nguyên tắc và chuẩn mực  
điều chỉnh hoạt động của đơn vị được kiểm toán;  
hiểu rõ quy định của pháp luật trong các lĩnh vực  
quản lý nhà nước về kinh tế, tài chính công; về quản  
lý, sử dụng tài chính và tài sản công thuộc lĩnh vực,  
chuyên ngành được phân công kiểm toán. KTV  
nhà nước phải hiểu rõ quy định của pháp luật và  
quy định về hoạt động kiểm toán của KTNN; hiểu  
biết và tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán, kế toán  
và quản lý tài chính, các quy trình và hướng dẫn  
thực hành theo yêu cầu của nhiệm vụ kiểm toán...  
Ba là: Có xu hướng trẻ hóa và phát triển nhanh  
chóng  
Do KTNN là hoạt động mới chỉ xuất hiện ở Việt  
Nam từ năm 1994, trước khi thành lập cơ quan  
KTNN, chưa có cơ quan nào trong bộ máy nhà  
nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của KTNN.  
Do vậy, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công  
chức, KTV nhà nước phải tiến hành từ đầu, song  
Kỹ năng chuyên môn: KTV nhà nước phải có các  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 128 - tháng 6/2018 11  
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI  
được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đội ngũ  
cán bộ, công chức, KTV nhà nước từng bước được  
kiện toàn và phát triển nhanh chóng. Nếu như năm  
1994 khi bắt đầu thành lập, KTNN có 60 người  
thì sau hơn 20 năm hoạt động đến nay KTNN đã  
có trên 2000 người và dự kiến đến năm 2020 có  
khoảng trên 2500 người.  
yêu cầu buộc phải có đối với KTV. Đây được coi  
là điều kiện tiên quyết trong đạo đức nghề kiểm  
toán và phải được KTV thường xuyên trau dồi, rèn  
luyện duy trì và phát huy. Mặt khác, do hoạt động  
kiểm toán phân tán trên địa bàn rộng lớn cả nước,  
trung bình mỗi KTV mỗi năm phải đi công tác xa  
nhà, xa cơ quan dài ngày khoảng 6 đến 7 tháng;  
hàm chứa nhiều rủi ro về chuyên môn, phẩm chất  
đạo đức của KTV. Do vậy, vừa đòi hỏi đội ngũ KTV  
về cả trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp;  
vừa phải có chế độ đãi ngộ thích hợp; vừa đòi hỏi  
phải có cơ chế kiểm soát chất lượng và quản lý đạo  
đức nghề nghiệp chặt chẽ.  
Đội ngũ công chức của KTNN được hình thành  
từ 2 nguồn chính là:  
- Nguồn tiếp nhận: Đây là những công chức  
hình thành từ những năm đầu thành lập và chuyển  
công tác từ đơn vị khác về KTNN, chủ yếu là những  
công chức lớn tuổi, có kinh nghiệm trong công tác  
thực tiễn.  
Để kiểm soát chất lượng kiểm toán và quản lý  
chặt chẽ đạo đức nghề nghiệp của KTV, KTNN  
phải tăng cường các biện pháp giáo dục, kiểm tra  
kiểm soát, phòng ngừa; đồng thời, phát hiện kịp  
thời và xử lý nghiêm minh những trường hợp vi  
phạm đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật công tác của  
ngành và pháp luật của Nhà nước.  
- Nguồn thi tuyển (chủ yếu từ sinh viên đã tốt  
nghiệp các trường đại học): Đây là lực lượng chiếm  
đa số trong đội ngũ công chức của KTNN hiện nay;  
trong đó, số công chức trẻ mới được tuyển dụng  
qua thi tuyển những năm gần đây chiếm khoảng  
50% tổng số công chức toàn ngành. Do vậy, đội ngũ  
công chức có xu hướng trẻ hóa, nhất là sau mỗi đợt  
tổ chức thi tuyển công chức vào cơ quan KTNN.  
Nhận diện đúng đắn những khía cạnh cơ bản  
nêu trên sẽ tạo cơ sở khoa học cho việc đề ra hệ  
thống các giải pháp đầy đủ, đồng bộ và có tính khả  
thi cao cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân  
lực kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu kiểm soát  
tài chính, tài sản công của Đảng và Nhà nước ở  
nước ta hiện nay.  
Nguồn nhân lực trẻ và tăng nhanh là một lợi thế  
đối với sự phát triển của KTNN ở nước ta. Công  
chức trẻ, nhất là số mới được tuyển dụng qua thi  
tuyển những năm gần đây có mặt mạnh là được  
đào tạo cơ bản các kiến thức mới của nền kinh tế  
thị trường, theo chuyên ngành phù hợp với chuyên  
môn của KTNN; có kiến thức về tin học, ngoại ngữ  
tốt; có khả năng thích ứng, nắm bắt nhanh với kiến  
thức hiện đại và có sức khỏe dồi dào. Tuy nhiên, đa  
số họ còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn trong giao  
tiếp, ứng xử, xử lý tình huống và vận dụng kiến  
thức lý thuyết vào thực tế công tác.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam  
năm 2013;  
2. Luật KTNN (sửa đổi);  
3. Luật Cán bộ, công chức năm 2008;  
4. Chuẩn mực KTNN số 30 – Bộ quy tắc đạo  
đức nghề nghiệp;  
5. Tuyên bố Lima của INTOSAI;  
Bốn là: Luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro  
6. Giáo trình Quản lý nguồn nhân lực xã hội,  
Nghề kiểm toán được xã hội ghi nhận như một  
nghề nhạy cảm vì nó cận kề với sự cám dỗ mang  
tính vật chất, kết luận kiểm toán có thể thiếu khách  
quan nếu người làm ra nó thiếu bản lĩnh nghề  
nghiệp và bị mua chuộc bởi những lợi ích vật chất.  
Chính vì vậy, tố chất “liêm chính, khách quan” là  
Học viện Hành chính Quốc gia;  
7. Từ điển bách khoa Việt Nam; Từ điển tiếng  
Việt.  
Ngày nhận bài lần 1: 04/6/2018  
Ngày duyệt đăng: 10/6/2018  
12 Số 128 - tháng 6/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
pdf 7 trang yennguyen 19/04/2022 1640
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu kiểm soát tài chính, tài sản công của Đảng và nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_chat_luong_nguon_nhan_luc_kiem_toan_nha_nuoc_dap_un.pdf