Mối quan hệ giữa chất lượng báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán

MoÁi Quan Heä giöÕa cHaÁt LöôÏng Baùo caùo  
taøi cHÍnH Vaø cHaÁt LöôÏng kieÅM toaùn  
PGS.TS. MAI THị HOÀNG MINH*  
S. NGUYỄN VĩNH KHƯơNG*  
Mục tiêu nghiên cứu về chất lượng báo cáo tài chính (BCTC) và chất lượng kiểm toán đều hướng về yếu  
tố quyết định chất lượng và các nhà nghiên cứu ở cả hai lĩnh vực đã thực hiện, tập hợp các biến làm gia  
tăng hoặc suy giảm chất lượng. Mục đích của bài báo nhằm tổng quan khái niệm về chất lượng BCTC, chất  
lượng kiểm toán và cách thức đo lường cả hai khái niệm này. Tiếp đến, thảo luận về mối quan hệ tương hỗ  
giữa chất lượng BCTC và chất lượng kiểm toán. Từ đó hiểu hơn mối tương quan giữa hai khái niệm, cũng  
như cơ hội cho các nghiên cứu trong tương lai.  
Từ khóa: Chất lượng kiểm toán, chất lượng BCTC, biến đại diện chất lượng.  
e relationship between the financial reporting quality of and audit quality of financial statements  
e primary goal studies on the financial reporting quality and audit quality is to understand the  
determinants of quality and the researchers in both fields were identified, a set of variables increases or  
quality deterioration. e purpose of the paper to review the concept of financial reporting quality and  
audit quality and how to measure both concepts. Discuss the relationship between the financial reporting  
quality and audit quality. Finally, helps to understand the relationship between the two concepts, as well as  
opportunities for future research.  
key words: Financial reporting quality; audit quality; quality proxies.  
1. Giới thiệu  
đều cố gắng đưa ra các thành phần tạo nên “chất  
lượng cao” BCTC/ kiểm toán nhưng chưa đưa ra  
một khái niệm rộng rãi về chất lượng. Vì vậy, đầu  
tiên tác giả đnh nghĩa về chất lượng báo cáo tài  
chính và chất lượng kiểm toán dựa trên các nghiên  
cứu trước đây. Nói chung, “chất lượng” được đnh  
nghĩa là mức độ xuất sắc về một điều gì đó, được đo  
lường dựa trên việc so sánh với những việc tương  
tự (Từ điển Oxford, 2015).  
Chất lượng luôn là sự thách thức và là mối quan  
tâm hàng đầu mà bất kỳ tổ chức và doanh nghiệp  
nào đều phải đối mặt trong quá trình hoạt động của  
mình. Chất lượng báo cáo tài chính và chất lượng  
kiểm toán có tầm quan trọng đối với cơ quan quản  
lý, do đó, đây là chủ đề rất được sự quan tâm bởi  
các nhà nghiên cứu hàn lâm. Vì vậy, trước khi phân  
tích mối liên hệ giữa chất lượng báo cáo tài chính  
và chất lượng kiểm toán thì cần xác đnh khái niệm  
cho cả hai khái niệm này. Trong bài báo này, tác giả  
thông qua tổng quan về khái niệm chất lượng kiểm  
toán và chất lượng báo cáo tài chính nhằm thu hẹp  
dần khoảng cách từ hai khái niệm. Cả hai lĩnh vực  
Cả về chất lượng báo cáo tài chính và chất lượng  
kiểm toán chu ảnh hưởng bởi các hoạt động kinh  
tế tại doanh nghiệp, vì vậy, sự thay đổi về hoạt động  
tại doanh nghiệp có ảnh hưởng đến chất lượng  
BCTC và chất lượng kiểm toán. Đây cũng là tiền  
* Trường Đại học Kinh tế TP.HCM; Khoa Kế toán-Kiểm toán_Trường Đại học Kinh tế-Luật  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 132 - tháng 10/2018 11  
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI  
đề của cả hai khái niệm. Do đó, tác giả tiếp tục đưa  
ra các biến đại diện nhằm đo lường hai khái niệm  
này. Từ đó, đưa ra mối tương quan giữa các biến đo  
lường nhằm tìm thấy mối quan hệ giữa chất lượng  
BCTC và chất lượng kiểm toán.  
Luật Kế toán Việt Nam (2015) không có mục  
riêng để nêu các đặc tính có liên quan đến chất  
lượng thông tin BCTC, tuy nhiên khi so sánh nội  
dung trình bày trong chương “Những quy đnh  
chung” với phần khuôn khổ khái niệm của AAA,  
FASB, IASB, PCG, có thể thấy rằng những thuộc  
tính về được liệt kê tại mục “Yêu cầu KT” và tại  
chuẩn mực chung (Bộ Tài chính, 2002), theo đó,  
các thuộc tính thuộc về CLTT BCTC bao gồm:  
Trung thực, khách quan, đầy đủ, kp thời, có thể  
hiểu được, có khả năng so sánh.  
2. khái niệm và đo lường chất lượng báo cáo  
tài chính  
- Khái niệm chất lượng báo cáo tài chính  
Hiện tại, chưa có đnh nghĩa về chất lượng báo  
cáo tài chính chung được chấp nhận rộng rãi trong  
các tài liệu học thuật (McDaniel, Martin và Maines,  
2002; Cohen, Krishnamoorthy và Wright, 2004).  
Tuy nhiên, khuôn mẫu lý thuyết về báo cáo Tài  
chính giúp xác đnh các thang đo phù hợp cho chất  
lượng báo cáo tài chính. eo khuôn mẫu lý thuyết,  
các báo cáo tài chính cung cấp “thông tin về các  
nguồn lực kinh tế của tổ chức và các nghĩa vụ của  
tổ chức” và “thông tin về ảnh hưởng của giao dch  
và các sự kiện khác làm thay đổi nguồn lực kinh tế  
và nghĩa vụ của tổ chức”(FASB, 2010). Do đó, mục  
tiêu của báo cáo tài chính là cung cấp các góc nhìn  
về công ty dựa trên các thông tin.  
Dựa trên khuôn mẫu lý thuyết, có thể đnh  
nghĩa chất lượng báo cáo tài chính ở mức độ cao  
khi có mức độ cao hơn về tính đầy đủ, khách quan,  
không có sai sót và cung cấp thông tin có giá trdự  
đoán hoặc xác thực hữu ích hơn về tình hình tài  
chính và hiệu quả kinh doanh của công ty.  
- Đo lường chất lượng báo cáo tài chính  
Các nghiên cứu hàn lâm đã sử dụng các biện  
pháp khác nhau để đo lường chất lượng báo cáo  
tài chính. Các biện pháp này có được những khía  
cạnh khác nhau về chất lượng được mô tả trong  
12 Số 132 - tháng 10/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
khuôn mẫu lý thuyết. Ví dụ, một số nghiên cứu  
tập trung vào khía cạnh hoàn thiện của chất lượng  
báo cáo tài chính, đo lường chất lượng như mức  
độ công bố thông tin tự nguyện (Botosan, 1997;  
Botosan và Plumlee, 2002). Các nghiên cứu khác  
tập trung vào giá trxác thực và giá trdự đoán. Ví  
dụ: thước đo về chất lượng dồn tích được sử dụng  
rộng rãi do Dechow và Dichev (2002) phát triển, có  
thể thấy được biến dồn tích ngắn hạn trên báo cáo  
lưu chuyển tiền tệ trong quá khứ, hiện tại và tương  
lai. Nghiên cứu cũng đã sử dụng các thước đo về  
sự tồn tại của thu nhập và các khía cạnh của chất  
lượng báo cáo tài chính (Dechow và cộng sự, 2010)  
và cho thấy giá trdự đoán của thu nhập phụ thuộc  
vào độ tin cậy của các phép đo (Bratten, Causholli  
và Khan, 2016).  
cộng sự, 2002). Trong các nghiên cứu tổng hợp, sự  
khác biệt về tính hữu ích của các báo cáo tài chính  
nhìn chung được đo bằng cách kiểm tra sự khác  
biệt về lợi nhuận bất thường xung quanh việc phát  
hành các báo cáo (ví dụ: hệ số chi trả thu nhập). Sự  
phụ thuộc vào báo cáo tài chính của thtrường có  
thể phản ánh những nhận thức của các nhà đầu tư  
về giá trdự báo của các báo cáo, đó là một chức  
năng của cả sự thích hợp và trình bày trung thực  
của báo cáo tài chính.  
Điều quan trọng cần lưu ý là những thước đo  
về chất lượng báo cáo tài chính này có được từ góc  
nhìn về những khía cạnh chất lượng được chấp  
nhận khác nhau. Ngoài ra, một số nghiên cứu  
sử dụng các thước đo về chất lượng báo cáo tài  
chính không có căn cứ trong khuôn mẫu lý thuyết.  
Nghiên cứu giải thích sự tổn thất trước đó như là  
một dấu hiệu chất lượng báo cáo tài chính cao hơn  
(Barth và cộng sự, 2008), mặc dù khuôn mẫu lý  
thuyết cho thấy chất lượng báo cáo tài chính liên  
quan đến tính trung lập. Nghiên cứu của Ahmed và  
cộng sự (2013) cho rằng ổn đnh thu nhập có khả  
năng dự đoán cao hơn nhưng xem xét mức độ ổn  
đnh thu nhập để trở thành chỉ số chất lượng báo  
cáo tài chính thấp hơn. Điều này cho thấy khi lựa  
chọn cách đo lường chất lượng báo cáo tài chính,  
các nhà nghiên cứu phải suy nghĩ cẩn thận về các  
khía cạnh của chất lượng báo cáo tài chính mà nhà  
nghiên cứu muốn đề cập để đảm bảo tính tin cậy  
cho nghiên cứu.  
Hướng nghiên cứu tiếp cận đo lường chất lượng  
báo cáo tài chính thông qua tính khách quan và  
không có sai sót. Một số trong những nghiên cứu  
này sử dụng những dấu hiệu về những sai sót trong  
báo cáo tài chính (ví dụ, Aier và cộng sự 2005; Cao  
và cộng sự, 2012). Các nghiên cứu khác thu thập các  
sai sót cố ý bằng cách đo lường khả năng thao túng  
thu nhập (Cheng và Warfield, 2005; Burgstahler  
và cộng sự, 2006; Dechow và cộng sự, 2010). Mặc  
dù, việc thao túng thu nhập không thể chấp nhận  
được, nhưng các nghiên cứu này lại nắm bắt được  
khả năng thao túng thông qua tổng dồn tích, các  
khoản thu nhập bất thường, ổn đnh thu nhập.  
Một số nghiên cứu của McDaniel và cộng sự,  
2002; Clor-ProellProell và Warfield, 2014; Müller  
và Sellhorn, 2015 thay vì đo lường chất lượng báo  
cáo tài chính bằng sự khác biệt trong báo cáo tài  
chính thì đánh giá chất lượng báo cáo tài chính  
bằng cách kiểm tra mức độ hữu ích của thông tin  
trong báo cáo tài chính đến người sử dụng. Các  
nghiên cứu thực nghiệm đã kiểm tra chất lượng  
báo cáo tài chính được nhận thấy bằng cách trực  
tiếp yêu cầu những người tham gia thử nghiệm  
đánh giá chất lượng báo cáo tài chính (McDaniel và  
3. khái niệm và đo lường chất lượng kiểm toán  
- Khái niệm chất lượng kiểm toán  
ơng tự như chất lượng báo cáo tài chính, việc  
xác đnh và khái niệm hóa chất lượng kiểm toán là  
một thách thức đối với các nhà quản lý và các nhà  
nghiên cứu. Tuy nhiên, chất lượng kiểm toán gần  
đây đã nhận được sự quan tâm và nhấn mạnh khi  
Ủy ban giám sát công ty đại chúng Mỹ (PCAOB)  
vào năm 2013 đã thiết lập Dự án chỉ số chất lượng  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 132 - tháng 10/2018 13  
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI  
kiểm toán với mục đích phát triển các biện pháp đo  
lường chất lượng kiểm toán được sử sụng toàn cầu  
và ổn đnh theo thời gian (PCAOB, 2013). Trong dự  
án này, PCAOB xác đnh chất lượng kiểm toán là  
“việc đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư” để  
đáp ứng các cuộc kiểm toán độc lập và đáng tin cậy  
và “thông tin truyền thông của ủy ban kiểm toán  
tốt” về báo cáo tài chính, công bố, kiểm soát nội bộ  
và khả năng hoạt động liên tục. PCAOB đặc biệt lưu  
ý rằng đnh nghĩa này là phù hợp với khuôn mẫu lý  
thuyết số 8 với cách tiếp cận dựa trên “kết quả” và  
có trọng tâm “nhu cầu của khách hàng.  
toán của khách hàng và báo cáo vi phạm. DeFond  
và Zhang (2014) mở rộng đnh nghĩa để kết hợp  
vai trò của kiểm toán viên trong việc đảm bảo chất  
lượng báo cáo tài chính và xác đnh chất lượng  
kiểm toán “cao hơn” như là cung cấp “sự đảm bảo  
lớn hơn cho rằng báo cáo tài chính phản ánh trung  
thực các nghiệp vụ kinh tế của công ty trên cơ sở hệ  
thống báo cáo tài chính và các đặc điểm của công  
ty. Tuy nhiên, đnh nghĩa này vẫn không kết hợp  
các khía cạnh đầu vào và quy trình về chất lượng  
kiểm toán được coi là quan trọng với một số bên  
liên quan (Knechel và cộng sự, 2013).  
Tuy nhiên, không giống như hầu hết các đnh  
nghĩa của chất lượng BCTC, PCAOB nói thêm rằng  
ngoài việc đánh giá kết quả, cần cân nhắc đến đầu  
vào và quy trình, vì tất cả đều là các yếu tố quyết  
đnh quan trọng cho chất lượng kiểm toán. Để hỗ  
trợ dự án PCAOB và các quan điểm khác nhau của  
các bên liên quan đến cuộc kiểm toán, Viện Chất  
lượng Kiểm toán (CAQ) cho biết đnh nghĩa chất  
lượng kiểm toán phải bao gồm vai trò của ủy ban  
kiểm toán, tuân thủ các quy đnh và chuẩn mực, hệ  
thống kiểm soát chất lượng của công ty kiểm toán,  
cũng như liên kết đến việc kiểm soát chất lượng  
của PCAOB và các chuẩn mực chuyên nghiệp (ví  
dụ như kiến thức, kinh nghiệm...). Phù hợp với  
khái niệm này, Hội đồng Chuẩn mực kiểm toán và  
dch vụ đảm bảo quốc tế (IAASB) tập trung vào quy  
trình kiểm toán như một thước đo về chất lượng:  
Từ các quan điểm trên, các cơ quan ban hành và  
quản lý như PCAOB và IAASB đánh giá chất lượng  
kiểm toán dựa trên các yếu tố đầu vào và quá trình  
kiểm toán, cũng như các kết quả kiểm toán, xem  
một cuộc kiểm toán có chất lượng cao khi bằng  
chứng kiểm toán có đầy đủ và thích hợp. eo quan  
điểm này, ngay cả khi một ý kiến kiểm toán thực tế  
là hợp lý, cuộc kiểm toán vẫn được xem là có chất  
lượng thấp nếu các thủ tục kiểm toán được áp dụng  
trong quá trình kiểm toán dùng làm cơ sở để xác  
đnh ý kiến kiểm toán là không đầy đủ. Các công  
ty kiểm toán có thể có các quan điểm khác nhau về  
chất lượng kiểm toán, xác đnh các cuộc kiểm toán  
có chất lượng cao hơn từ những việc đã hoàn thành  
theo các chính sách và thủ tục của công ty.  
Cuối cùng, theo quan điểm của các nhà đầu tư  
và những người sử dụng báo cáo tài chính, chất  
lượng kiểm toán ở mức độ cao là cuộc kiểm toán  
mà kiểm toán viên cung cấp ý kiến kiểm toán có  
thông tin (DeFond và Zhang 2014). Các bên liên  
quan khác nhau có thể có quan điểm khác nhau về  
đnh nghĩa chính xác (và các thước đo tốt nhất) về  
chất lượng kiểm toán nhưng đều đồng nhất về việc  
tập trung vào yếu tố đầu vào, quá trình kiểm toán  
và kết quả đầu ra. Ngay cả các bên liên quan như  
các nhà đầu tư, những người dường như quan tâm  
nhiều hơn đến kết quả đầu ra, có thể hiểu rằng các  
kết quả đầu ra mang tính xác suất và yếu tố đầu vào  
“eo quan điểm của IAASB, chất lượng kiểm  
toán có thể đạt được khi ý kiến của kiểm toán viên  
về các báo cáo tài chính có thể dựa trên bằng chứng  
đầy đủ, phù hợp thu được bởi nhóm dch vụ kiểm  
toán thực hiện (IAASB 2013, trang 10).”  
Nghiên cứu hàn lâm về chất lượng kiểm toán  
đã chủ yếu sử dụng một đnh nghĩa dựa trên tiếp  
cận trên cơ sở kết quả về chất lượng kiểm toán của  
DeAngelo (1981): Chất lượng kiểm toán đánh giá  
bởi một kiểm toán viên sẽ phải đạt cả hai yêu cầu:  
khi khám phá ra một sự vi phạm trong hệ thống kế  
14 Số 132 - tháng 10/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
và quá trình kiểm toán sẽ làm tăng khả năng đạt  
được kết quả đầu ra.  
đồng của công ty kiểm toán - khách hàng. Cách đo  
lường dựa trên kết quả đầu ra được phân loại thành  
thay đổi báo cáo tài chính, gian lận, vấn đề truyền  
thông của kiểm toán viên, chất lượng báo cáo tài  
chính và nhận thức. Cách tiếp cận này sử dụng  
phương pháp thử nghiệm và xem các biến này là  
biến đại diện cho chất lượng kiểm toán. Mặc dù,  
do tính chất của việc thu thập dữ liệu, các nghiên  
cứu thử nghiệm có xu hướng tập trung nhiều hơn  
vào các biện pháp dựa trên quá trình kiểm toán (Ví  
dụ: các quyết đnh về kế hoạch kiểm toán, đánh  
giá bằng chứng, sử dụng chuyên gia...) (Knechel  
và cộng sự, 2013) và cách đo lường dựa trên nhận  
thức về kết quả đầu ra (ví dụ như nhận thức của các  
nhà đầu tư về chất lượng kiểm toán).  
Do đó, đnh nghĩa về chất lượng kiểm toán của  
chúng tôi tập trung vào quan điểm này. Cụ thể, chất  
lượng kiểm toán ở mức độ cao là cuộc kiểm toán  
cung cấp mức bảo đảm cao hơn mà ở đó kiểm toán  
viên đã có đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để  
chứng minh rằng báo cáo tài chính được trình bày  
trung thực các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại đơn v.  
- Đo lường chất lượng kiểm toán  
eo tổng quan các nghiên cứu trước đây, có  
nhiều cách thức đo lường về chất lượng kiểm toán  
đã được sử dụng (Francis, 2004). DeFond và Zhang  
(2014) dựa trên các nghiên cứu tổng hợp cho rằng  
đo lường chất lượng kiểm toán từ một trong hai  
quan điểm: đầu vào đến quá trình kiểm toán (ví dụ:  
quy mô công ty kiểm toán) và kết quả của quá trình  
kiểm toán (ví dụ như ý kiến kiểm toán). Hơn nữa,  
các nhà nghiên cứu phân loại cách tiếp cận yếu tố  
đầu vào thành các vấn đề liên quan đến đặc điểm  
của kiểm toán viên và các vấn đề liên quan đến hợp  
Các biến đại diện cho chất lượng kiểm toán có  
mức tương quan cao với nhau, chất lượng kiểm  
toán là khái niệm đa hướng, không có cách đo  
lường có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp  
nghiên cứu về chất lượng kiểm toán.  
Ngoài ra, một số biến đại diện cho chất lượng  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 132 - tháng 10/2018 15  
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI  
kiểm toán không phù hợp với các khái niệm về chất  
lượng kiểm toán và không thể khái quát hóa cho  
tất cả các công ty hoặc theo thời gian. Ví dụ, báo  
cáo kiểm tra PCAOB ghi nhận sự thiếu sót đôi khi  
được sử dụng như một thước đo chất lượng kiểm  
toán. Tuy nhiên, thay vì sử dụng một phương pháp  
lựa chọn thống kê, PCAOB sử dụng phương pháp  
tiếp cận dựa trên rủi ro  
dồn tích, thao túng thu nhập.  
ư hai, đo lường chất lượng báo cáo tài chính  
và chất lượng kiểm toán nói chung không thể tách  
rời khi sử dụng các kết quả đầu ra như là biến đại  
diện cho chất lượng. Vì vậy, mặc dù chất lượng  
kiểm toán và chất lượng báo cáo tài chính là những  
khái niệm riêng biệt, do đó, nên sử dụng các biến  
đại diện khác nhau. Chất lượng báo cáo tài chính  
trước kiểm toán so với chất lượng báo cáo tài chính  
sau kiểm toán nhìn chung không đáng lưu ý. Ví dụ,  
chất lượng báo cáo tài chính và chất lượng kiểm  
toán không được chú ý một cách riêng biệt bằng  
cách đo lường mức độ thay đổi báo cáo, sai lệch báo  
cáo tài chính hoặc quản trthu nhập như là biến  
đại diện cho chất lượng.  
Do đó, khó có thể đưa ra các kết luận rõ ràng  
về chất lượng kiểm toán dựa trên kết quả kiểm tra.  
Tóm lại, vì chất lượng kiểm toán phụ thuộc vào  
quan điểm khác nhau của các bên liên quan, vì vậy,  
không có một thước đo phù hợp cho tất cả quan  
điểm. Do đó, các nhà nghiên cứu cần xác đnh  
khía cạnh, quan điểm về chất lượng kiểm toán để  
lựa chọn biến đại diện phù hợp. Hơn nữa, các nhà  
nghiên cứu nên xem xét việc sử dụng biến đại diện  
dựa trên yếu tố đầu vào, quá trình và kết quả đầu ra  
(Francis, 2011; Knechel và cộng sự, 2013; DeFond  
và Zhang, 2014).  
ứ ba, cả chất lượng báo cáo tài chính và chất  
lượng kiểm toán đều bảnh hưởng mạnh bởi các  
nghiệp vụ kinh tế. Mặc dù, cách đo lường này có  
nhiều cách đo như các khoản thu nhập bất thường  
và chi phí kiểm toán bất thường. Điều này cho thấy  
rằng các thước đo về chất lượng báo cáo tài chính  
và chất lượng kiểm toán có thể thấp hơn do sự thay  
đổi hoặc không đồng đều giữa tiêu chuẩn ngành  
giữa các công ty.  
4. Mối quan hệ giữa chất lượng báo cáo tài  
chính và chất lượng kiểm toán  
Từ các đnh nghĩa về chất lượng báo cáo tài  
chính và chất lượng kiểm toán là các khái niệm  
nghiên cứu khác nhau. Chất lượng báo cáo tài  
chính được hiểu là mức độ mà báo cáo tài chính  
phản ánh tình trạng “sức khỏe” của công ty, trong  
khi chất lượng kiểm toán đạt được khi mức độ đảm  
bảo rằng kiểm toán viên có đủ bằng chứng thích  
hợp rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và  
hợp lý tình trạng “sức khỏe” công ty. Mặc dù là các  
khái niệm nghiên cứu khác nhau, chất lượng báo  
cáo tài chính và chất lượng kiểm toán thường có  
mối liên hệ.  
Cuối cùng, rất ít nghiên cứu đề cập các vấn đề  
liên quan đến đo lường chất lượng báo cáo tài chính  
và chất lượng kiểm toán thường là trường hợp nội  
sinh. Quan điểm cho rằng chất lượng kiểm toán  
là yếu tố quyết đnh chất lượng báo cáo tài chính  
sau kiểm toán được các nghiên cứu trước đây đồng  
thuận (DeFond và Zhang, 2014). Tuy nhiên, quan  
niệm cho rằng mối quan hệ giữa chất lượng báo  
cáo tài chính và chất lượng kiểm toán theo cách  
đo hồi quy lặp lại ít được xem xét. Ví dụ, nhiều khả  
năng kỳ vọng về chất lượng kiểm toán ảnh hưởng  
đến chất lượng báo cáo tài chính trước kiểm toán.  
ứ nhất, các nghiên cứu trước đây lúng túng về  
sự phân biệt giữa chất lượng báo cáo tài chính và  
chất lượng kiểm toán và sử dụng cùng biến đại diện  
cho chất lượng báo cáo tài chính hoặc chất lượng  
kiểm toán. Ví dụ: gian lận, kiện tụng, chất lượng  
5. kết luận  
Bài viết đưa ra các quan điểm nhìn nhận về chất  
lượng báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán  
16 Số 132 - tháng 10/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
thông qua các nghiên cứu trước đây. Từ các quan  
điểm khác nhau, các biến đại diện cho cách thức  
đo lường hai khái niệm cũng được bàn luận. Từ  
đó, cung cấp góc nhìn toàn diện hơn về hai khái  
niệm và tạo tiền đề cho các nghiên cứu tương lai.  
Nghiên cứu trong tương lai về chất lượng báo cáo  
tài chính và chất lượng kiểm toán có thể cung cấp  
cái nhìn sâu hơn về các yếu tố quyết đnh và ảnh  
hưởng của chất lượng nếu xét đến những thay đổi  
và khác nhau về tình hình kinh tế có thể ảnh hưởng  
đến báo cáo tài chính và kết quả kiểm toán.  
9. Brown-Liburd, H. L, J. Cohen, and G. Trompeter.  
2013. Effects of earnings forecasts and heightened  
professional skepticism on the outcomes of  
client-auditor negotiation. Journal ofBusiness  
Ethics 116 (2): 311-325;  
10. Center for Audit Quality (CAQ). 2013. Audit  
quality indicators [Letter to the PCAOB];  
11. Chen, Q., K. Kelly, and S. E. Salterio. 2012. Do  
changes in audit actions and attitudes consistent  
with increased auditor skepticism deter aggressive  
earnings management? An experimental  
investigation. Accounting, Organizations and  
Society 37 (2): 95-115;  
12. Clor-Proell, S. M., C. A. Proell, and T. D. Warfield.  
2014. e effects of presentation salience and  
measurement subjectivity on nonprofessional  
investors’ fair value judgments. Contemporary  
Accounting Research 31 (1): 45-66.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Ahmed, A. S., M. Neel, and D. Wang. 2013. Does  
mandatory adoption of IFRS improve accounting  
quality? Preliminary evidence. Contemporary  
Accounting Research 30 (4): 1344-1372;  
13. DeAngelo, L. 1981. Auditor size and audit quality.  
Journal of Accounting and Economics 3 (3): 183–199;  
2. Barth, M., W. Landsman, and M.H. Lang.  
2008. International accounting standards and  
accounting quality. Journal of Accounting  
Research 46 (3): 467-498;  
14. Dechow, P. M. and I. D. Dichev. 2002. e quality of  
accruals and earnings: e role of accrual estimation  
errors. e Accounting Review 77 (s-1): 35-59;  
15. Dechow, P, W. Ge, and C. Schrand. 2010.  
3. Botosan, C. A. 1997. Disclosure level and the cost of  
equity capital. e Accounting Review.72 (3): 323-349;  
Understanding earnings quality:  
of theproxies, their determinants and their  
consequences. Journal of Accounting and  
A review  
4. Botosan, C. A. and M. A. Plumlee. 2002. A  
re-examination of disclosure level and the  
expected cost of equity capital. Journal of  
Accounting Research 40 (1): 21-40;  
Economics 50 (2): 344-401;  
16. DeFond, M. and J. Zhang. 2014. A review of  
archival auditing research. Journal of A ccounting  
and Economics 58 (2): 275-326;  
5. Brandon, D. M., A. D. Crabtree, and J. J. Maher.  
2004. Nonaudit fees, auditor independence, and  
bond ratings. Auditing: A Journal of Practice &  
eory 23 (2): 89-103;  
17. Francis, J.R. 2011. A framework for understanding  
and researching audit quality. Auditing: AJournal  
of Practice & eory 30 (2): 125–152;  
6. Bratten, B., L.M. Gaynor, L. McDaniel, N.R.  
Montague, and G. Sierra. 2013. e Audit of  
Fair Values and Other Estimates: e Effects of  
Underlying Environmental, Task, and Auditor-  
Specific Factors. Auditing: A Journal of Practice  
& eory 32 (Supplement 1): 7-44;  
18. International Auditing and Assurance Standards  
Board (IAASB). 2013. A Framework for Audit  
Quality (Consultation Paper, January 2013). New  
York: International Federation ofAccountants;  
19.Knechel,R.W.,G.V.Krishnan,M.Pevzner,L.B.Shefchik,  
and U.K. Velury. 2013. Auditing quality: Insights from  
the academic literature. Auditing: A Journal of Practice  
&eory 32 (Supplement 1): 385-421;  
7. Bratten, B., R. Jennings, and C. M. Schwab.  
2015. e effect of using a lattice model to  
estimate reported option values. Contemporary  
Accounting Research 32 (1): 192-222;  
20. Müller, M. A., E. J. Riedl, and T. Sellhorn. 2015.  
Recognition versus disclosure of fair values. e  
Accounting Review 90 (6): 2411-2447;  
8. Bratten, B., M. Causholli, and U. Khan.  
2016a. Usefulness of fair values for predicting  
banks’ future earnings: Evidence from other  
comprehensive income and its components.  
Review of Accounting Studies 21 (1): 280-315;  
21. Public Company Accounting Oversight  
Board (PCAOB). 2015a. Concept Release on  
AuditQuality Indicators (Release No. 2015-005,  
July 1, 2015). Washington, DC: PCAOB.  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 132 - tháng 10/2018 17  
pdf 7 trang yennguyen 19/04/2022 1140
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa chất lượng báo cáo tài chính và chất lượng kiểm toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_giua_chat_luong_bao_cao_tai_chinh_va_chat_luong.pdf