Hoàn thiện việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại kiểm toán nhà nước

TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN  
HOAØN THIEÄN VIEÄC TIEÁP NHAÄN, GIAÛI QUYEÁT  
KHIEÁU NAÏI, TOÁ CAÙO TAÏI KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC  
S. NGUYỄN MẠNH CƯờNG*  
S. NGUYỄN MINH THắNG*  
ông tác tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của  
công tác quản lý, là một biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành  
vi vi phạm pháp luật. Trong những năm qua, Kiểm toán nhà nước (KTNN) luôn quan tâm  
C
đến công tác này nên công tác tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã đạt được những kết  
quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong công tác tiếp nhận, giải quyết  
khiếu nại, tố cáo của KTNN hiện vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế. Vì vậy, để việc tiếp nhận, giải  
quyết khiếu nại, tố cáo của KTNN được hoàn thiện hơn, tác giả bài viết đi sâu vào phân tích thực trạng  
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ngành để chỉ ra những tồn tại, hạn chế, từ đó đề ra các giải pháp  
đồng bộ, giúp cho việc thực hiện công tác tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo của KTNN ngày càng được  
tốt hơn.  
Từ khóa: Giải quyết khiếu nại tố cáo  
Completing the settlement of complaints and denunciations procedures of SAV  
e reception and settlement of complaints and denunciations has the necessary position and role,  
contributing to raising the efficiency and effectiveness of the management work, as a preventive measure,  
detecting, preventing and treating the law violations. Over the past years, SAV has paid great attention  
to this task so the work of receiving and settling complaints and denouncements has gained remarkable  
results. However, besides the results achieved, there are still shortcomings in the work of receiving and  
handling complaints and denunciations of SAV. erefore, in order to improve the reception and settlement  
of complaints and denunciations of SAV, the article’s author goes deep into the analysis of the current  
situation of the settlement of complaints and denunciations to point out the shortcomings and the solutions  
to synchronize, to help the implementation of the better work of receiving and resolving complaints and  
denouncements of SAV.  
keywords: Complaints, denunciation settlement  
kết quả tiếp nhận, giải quyết đơn của kTNN  
trong 5 năm qua  
tổng số đơn KTNN đã nhận). Đối với 44 đơn thuộc  
thẩm quyền giải quyết, KTNN đã tiến hành xử lý  
dứt điểm, đúng quy định pháp luật. Đối với 354  
đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết, phần lớn  
KTNN đã tiến hành xem xét, xử lý kịp thi theo  
quy định của pháp luật (chuyển đơn đến tổ chức,  
cơ quan, đơn vị có thẩm quyền giải quyết; lưu đơn;  
hướng dẫn ngưi viết đơn...), không để xảy ra tình  
trạng tồn đọng, kéo dài. Đồng thi, sao gửi 143 đơn  
đến KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực để cung  
cấp thông tin phục vụ hoạt động kiểm toán.  
Trong giai đoạn từ ngày 15/12/2012 đến ngày  
31/12/2017, KTNN nhận được 398 đơn (274 đơn  
tố cáo; 36 đơn khiếu nại; 88 đơn phản ánh, kiến  
nghị, đề nghị), trong đó: có 44 đơn (26 đơn tố cáo,  
02 đơn khiếu nại; 16 đơn đề nghị, kiến nghị, phản  
ánh) thuộc thẩm quyền giải quyết (chiếm 6,53%  
trên tổng số đơn KTNN đã nhận); 354 đơn không  
thuộc thẩm quyền giải quyết (chiếm 93,47% trên  
*Văn phòng Đảng, Đoàn thể KTNN; anh tra KTNN  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 133 - tháng 11/2018 41  
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN  
Những tồn tại, hạn chế trong các quy định  
về tiếp nhận, giải quyết đơn của kTNN trong  
thời gian qua  
định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo,  
đơn kiến nghị, phản ánh” (sẽ áp dụng thẳng theo  
ông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014  
của anh tra Chính phủ quy định quy trình xử lý  
đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh  
- viết tt là ông tư số 07/2014/TT-TTCP) để đảm  
bảo tính toàn diện, chặt chẽ trong quá trình xử lý  
đơn, đảm bảo việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hợp  
lý, tiết kiệm, đúng pháp luật và hạn chế các rủi ro.  
Tính đến nay, Luật KTNN năm 2015 có hiệu lực  
thi hành gần ba năm (từ ngày 01/01/2016), trong đó  
có quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu  
nại, tố cáo trong hoạt động của KTNN (Điều 69 và  
Điều 70). Tiếp đó, ngày 17/02/2016 (sau gần bốn  
năm khi Luật Khiếu nại, Luật Tcáo có hiệu lực),  
lần đầu tiên, KTNN ban hành Quy trình tiếp nhận,  
giải quyết khiếu nại, tố cáo của KTNN (kèm theo  
Quyết định số 161/QĐ-KTNN ngày 17/02/2016  
của Tổng KTNN) - viết tt là Quy trình 161. Mặc  
dù mới ban hành nhưng Quy trình 161 cũng đã  
bộc lộ một số thiếu sót, như:  
(ii) Tại khoản 3 Điều 6 của Quy trình 161 quy  
định: “Hồ sơ, mẫu biểu giải quyết khiếu nại, tố cáo  
của KTNN được ban hành kèm theo Quy trình  
này. Việc lập, quản lý hồ sơ giải quyết khiếu nại,  
tố cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật  
về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, hiện  
tại, chưa có hệ thống Hồ sơ, mẫu biểu giải quyết  
khiếu nại, tố cáo của KTNN như Quy trình 161  
đang nêu. Tác giả đề xuất nên ghi chú là áp dụng  
thẳng các hồ sơ, mẫu biểu liên quan tại ông  
tư số 07/2014/TT-TTCP, ông tư số 06/2013/  
TT-TTCP ngày 30/9/2013 của anh tra Chính  
phủ quy định quy trình giải quyết tố cáo, ông tư  
số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của anh  
tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu  
nại hành chính.  
(i) Tại Điều 1 (Phạm vi điều chỉnh) của Quy  
trình 161 chỉ bàn đến việc tiếp nhận, giải quyết đơn  
khiếu nại, tố cáo. Vđơn kiến nghị, đơn phản ánh  
và các loại đơn khác, Quy trình chưa bàn đến, trong  
khi số lượng các đơn này chiếm tỷ trọng rất nhiều  
trong tổng số đơn KTNN đã nhận được trong một  
năm (chiếm khoảng 94% trong một năm ở giai  
đoạn từ năm 2012 đến năm 2017). Do vậy, việc bổ  
sung Quy trình này thêm một phần riêng sẽ là “Quy  
42 Số 133 - tháng 11/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
(iii) Tại khoản 1 Điều 3 của Quy trình 161 quy  
định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại: “Tổng  
KTNN có thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết  
định hành chính, hành vi hành chính của KTNN,  
của ngưi có thẩm quyền trong khối tham mưu  
thuộc bộ máy điều hành và KTNN chuyên ngành;  
quyết định kỷ luật công chức, viên chức và ngưi  
lao động (sau đây gọi chung là quyết định kỷ luật)  
do Tổng KTNN ban hành; Giải quyết khiếu nại  
lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi  
hành chính, quyết định kỷ luật của ngưi đứng  
đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp đã giải quyết lần  
đầu nhưng còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu  
đã hết thi hạn nhưng chưa được giải quyết. Kiểm  
toán trưởng KTNN khu vực, ủ trưởng đơn vị sự  
nghiệp thuộc KTNN có thẩm quyền giải quyết lần  
đầu các quyết định giải quyết khiếu nại nêu trên  
tại đơn vị. Bên cạnh đó, tại khoản 4, Điều 3 (áp  
dụng pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu  
nại) của Luật Khiếu nại có quy định: “Căn cứ vào  
Luật này,... Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Quốc  
hội, Văn phòng Chủ tịch nước và các cơ quan khác  
của Nhà nước quy định việc khiếu nại và giải quyết  
khiếu nại trong cơ quan mình. Có nghĩa là trong  
Luật Khiếu nại cũng chưa có quy định rõ về thẩm  
quyền giải quyết khiếu nại tại KTNN. Như vậy,  
nếu theo quy định trên thì “Tổng KTNN có thẩm  
quyền giải quyết khiếu nại quyết định hành chính,  
hành vi hành chính của KTNN, của ngưi có thẩm  
quyền trong khối tham mưu thuộc bộ máy điều  
hành và KTNN chuyên ngành; quyết định kỷ luật  
công chức, viên chức và ngưi lao động (sau đây  
gọi chung là quyết định kỷ luật) do Tổng KTNN  
ban hành. Tuy nhiên, tại quy định này chưa nêu rõ  
việc “giải quyết khiếu nại” (nêu trên) là khiếu nại  
lần đầu hay là khiếu nại lần hai hoặc cả khiếu nại  
lần đầu và khiếu nại lần hai (?). Ngoài ra, cụm từ  
“ngưi có thẩm quyền” đang nêu ở đây cũng chưa  
rõ ràng, gây khó khăn khi áp dụng trên thực tế. Đây  
là các vấn đề cần phải làm rõ để tránh mâu thuẫn  
về thẩm quyền giải quyết và tránh khiếu kiện kéo  
dài, tránh phát sinh các vụ kiện ra Tòa án do chưa  
được giải quyết thỏa đáng ở lần hai (nếu có). Ngay  
sau đó, Quy trình 161 quy định: “Tổng KTNN giải  
quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành  
chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật của  
ngưi đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp đã giải  
quyết lần đầu nhưng còn khiếu nại. Ở đây, có thể  
hiểu “ngưi đứng đầu cơ quan cấp dưới trực tiếp”  
là gồm cả khối tham mưu thuộc bộ máy điều hành,  
KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực và đơn vị  
sự nghiệp. Như vậy, đây cũng là một điểm chưa rõ  
ràng cần nghiên cứu, xem xét để làm rõ, sửa đổi...  
Bên cạnh những hạn chế tại Quy trình 161,  
trong công tác tiếp nhận, giải quyết đơn của KTNN  
còn một số tồn tại như: (i) Công tác tham mưu,  
giải quyết khiếu nại, tố cáo của một số đơn vị, cá  
nhân có thẩm quyền còn chậm; (ii) Tình trạng vi  
phạm thi hạn giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo  
hoặc giải quyết đơn chưa đúng trình tự, thủ tục quy  
định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo đôi khi còn  
xảy ra; (iii) Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố  
cáo còn một số thiếu sót, còn một số vụ việc không  
ban hành quyết định giải quyết khiếu nại; (iv) Việc  
tiếp nhận, xử lý bước đầu đối với các đơn khiếu nại,  
đơn tố cáo đôi khi còn lúng túng, chưa được quan  
tâm đúng mức; (v) Công tác phối hợp giữa các đơn  
vị trực thuộc KTNN trong giải quyết khiếu nại, tố  
cáo có lúc còn chưa rõ ràng, chưa nhịp nhàng.  
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong  
công tác tiếp nhận, giải quyết đơn của kTNN  
Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ  
nhiều nguyên nhân, trong đó xuất phát từ những  
nguyên nhân chủ yếu sau:  
(i) Hầu hết, trong bộ máy của các đơn vị trực  
thuộc KTNN không có ngưi am hiểu, chuyên sâu  
về việc giải quyết đơn thư nên dẫn tới các hạn chế  
nếu trên;  
(ii) eo Khoản 2 Điều 50 Luật Tcáo số  
03/2011/QH13 ban hành ngày 11/11/2011 “Căn cứ  
vào Luật này, cơ quan khác của Nhà nước, cơ quan  
có thẩm quyền của tổ chức chính trị, tổ chức chính  
trị - xã hội hướng dẫn việc thực hiện pháp luật về  
tố cáo và giải quyết tố cáo trong phạm vi cơ quan,  
tổ chức mình.” Và Khoản 1 Điều 64 Luật Khiếu  
nại số 02/2011/QH13 ban hành ngày 11/11/2011  
thì “Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân  
dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Quốc  
hội, Văn phòng Chủ tịch nước, các cơ quan khác  
của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 133 - tháng 11/2018 43  
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN  
- xã hội trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền  
hạn của mình quản lý công tác giải quyết khiếu nại,  
định kỳ thông báo với Chính phủ về công tác giải  
quyết khiếu nại của cơ quan, tổ chức mình.Tuy  
nhiên, đến ngày 17/02/2016, KTNN mới ban hành  
Quy trình 161. Việc chậm ban hành văn bản hướng  
dẫn công tác tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo  
trong nội bộ KTNN cũng là một nguyên nhân dẫn  
tới các hạn chế nêu trên;  
nại lần hai đến ủ trưởng cấp trên trực tiếp của  
ngưi có thẩm quyền giải quyết lần đầu.... Đồng  
thi, Điều 18, Điều 19 và Điều 21 Luật Khiếu nại  
quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần  
hai: “Giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định  
hành chính, hành vi hành chính của... đã giải quyết  
lần đầu nhưng còn có khiếu nại hoặc khiếu nại lần  
đầu đã hết thi hạn nhưng không được giải quyết.  
eo quy định tại các điều luật này, khi khiếu nại  
lần đầu đã hết thi hạn mà không được giải quyết  
thì ngưi khiếu nại có quyền khiếu nại lần hai và  
ngưi có thẩm quyền phải thực hiện trình tự, thủ  
tục giải quyết khiếu nại lần hai.  
(iii) Mặc dù đã ban hành được văn bản hướng  
dẫn công tác tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo  
trong nội bộ KTNN (Quy trình 161) nhưng Quy  
trình này còn một số hạn chế, đặc biệt là chưa có  
quy định về hệ thống hồ sơ mẫu biểu và chưa có  
quy định cụ thể, rõ ràng về việc tiếp nhận, xử lý  
ban đầu đối với các loại đơn nên đã dẫn tới các hạn  
chế nêu trên;  
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1, Điều  
31 Luật Khiếu nại 2011: “Ngưi giải quyết khiếu  
nại lần đầu phải ra quyết định giải quyết khiếu  
nại. Đoạn 2, khoản 1, Điều 33 Luật Khiếu nại quy  
định:“Trong trưng hợp khiếu nại lần hai thì ngưi  
khiếu nại phải gửi đơn kèm theo quyết định giải  
quyết khiếu nại lần đầu, các tài liệu có liên quan cho  
ngưi có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.  
ực tế cho thấy, quy định này chỉ đúng với trưng  
hợp khiếu nại lần đầu được thụ lý giải quyết, còn  
trong trưng hợp ngưi khiếu nại lần hai với lý do  
“khiếu nại lần đầu đã hết hạn nhưng không được  
giải quyết” thì không thể thực hiện theo quy định  
nêu trên vì khiếu nại lần đầu không được giải quyết  
thì không thể có quyết định giải quyết lần đầu để  
gửi kèm theo đơn khiếu nại lần hai. Bên cạnh đó,  
việc quy định “Ngưi giải quyết khiếu nại lần đầu  
phải ra quyết định giải quyết khiếu nại” cũng sẽ  
dẫn đến cách hiểu nếu khiếu nại lần đầu chưa được  
xem xét, giải quyết thì không thể ban hành quyết  
định giải quyết khiếu nại và cũng không thể coi là  
khiếu nại đã được giải quyết.  
(iv) Đôi khi, nhận thức của một số cá nhân  
được tham gia, thực hiện nhiệm vụ giải quyết  
khiếu nại, tố cáo còn chủ quan, xem nhẹ vụ việc  
nên đã dẫn tới công tác tham mưu chưa kịp thi  
và trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo còn  
một số thiếu sót;  
(v) Việc tiếp nhận, xử lý ban đầu đối với các  
loại đơn gửi tới KTNN có khi chưa tập trung  
vào một mối nên dẫn tới hiện tượng đơn thư di  
chuyển trong nội bộ các đơn vị trực thuộc KTNN  
một khoảng thi gian khá dài mới được nơi đơn  
vị chuyên trách, có đủ năng lực để xử lý đúng đn,  
phù hợp. Do vậy, có thể dẫn tới làm chậm thi hạn  
xử lý đơn;  
(vi) Quy định của Luật Khiếu nại và các văn bản  
hướng dẫn thi hành còn một số hạn chế, tồn tại cần  
nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung trong thi gian tới  
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác  
giải quyết khiếu nại, cụ thể:  
ực tế nêu trên dẫn đến ngưi giải quyết  
khiếu nại lần hai không thể xác định được khiếu  
nại trong trưng hợp này là lần đầu hay lần hai  
bởi vì những mâu thuẫn ở ngay chính các quy  
định của pháp luật khiếu nại. Vì nếu xác định là  
giải quyết khiếu nại lần đầu thì sẽ phát sinh thẩm  
quyền giải quyết lần hai ở cấp cao hơn, điều này  
là không đúng về thẩm quyền giải quyết, còn nếu  
xác định là giải quyết lần hai vì cho rằng ngưi  
có thẩm quyền đã giải quyết lần đầu từ bỏ trách  
- Vviệc xác định khiếu nại lần đầu đã hết thời  
hạn nhưng không được giải quyết  
eo quy định tại khoản 1, Điều 7 Luật Khiếu  
nại 2011 về trình tự khiếu nại: “Trưng hợp ngưi  
khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết  
khiếu nại lần đầu hoặc quá thi hạn quy định mà  
khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu  
44 Số 133 - tháng 11/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
nhiệm giải quyết thì có nguy cơ ảnh hưởng đến  
quyền lợi của ngưi khiếu nại, đồng thi sẽ không  
đề cao trách nhiệm của ngưi giải quyết khiếu nại.  
Đây là vấn đề cần có hướng dẫn cụ thể trong các  
văn bản dưới luật để thống nhất áp dụng và bảo  
đảm quyền của ni khiếu nại.  
cung cấp được bằng chứng, tình tiết mới. Các cơ  
quan nhà nước lại thiếu thống nhất trong việc chấm  
dứt, từ chối không thụ lý giải quyết, nên vụ việc kéo  
dài, gây lãng phí thi gian, công sức của cơ quan  
nhà nước. Bên cạnh đó, một trong những lý do của  
khiếu nại không có điểm dừng, nhất là khiếu nại về  
đất đai, đền bù, giải phóng mặt bằng, do chính sách  
áp dụng trong giải quyết lần đầu và các lần tiếp theo  
thiếu nhất quán, nên không được sự đồng tình của  
nhân dân, khiếu nại kéo dài. Vì vậy, cần nghiên cứu  
một cơ chế riêng để giải quyết khiếu nại về đền bù,  
giải phóng mặt bằng, chính sách đất đai.  
- Về tình trạng chuyển từ khiếu nại sang tố cáo  
chưa có hướng dẫn cụ thể để xem xét, xử lý cho  
thỏa đáng  
Trên thực tế có xảy ra tình trạng ngưi khiếu  
nại sau khi không đạt được mục đích của mình,  
đã chuyển sang tố cáo ngưi giải quyết khiếu nại,  
gây ra nhiều khó khăn, lúng túng cho các cơ quan  
nhà nước. Vvấn đề này hiện có hai quan điểm  
khác nhau khi xử lý vụ việc. Quan điểm thứ nhất  
cho rằng, nếu tố cáo có cơ sở thì phải thụ lý và giải  
quyết theo trình tự thủ tục quy định; quan điểm  
thứ hai cho rằng, bản chất đây là việc khiếu nại,  
nên không thụ lý giải quyết nội dung tố cáo mà cần  
tập trung vào việc giải quyết khiếu nại nếu khiếu  
nại có căn cứ. Tuy nhiên, đó chỉ là các quan điểm  
chúng tôi ghi nhận được qua thực tế trao đổi, tranh  
luận – chưa có quy định của pháp luật là phải xử lý  
như thế nào là đúng.  
- Về tổ chức đối thoại lần hai  
Luật Khiếu nại quy định ngưi giải quyết khiếu  
nại lần hai có nghĩa vụ “Tchức đối thoại với ngưi  
khiếu nại, ngưi bị khiếu nại và cơ quan, tổ chức,  
cá nhân có liên quan. Nhưng tại điểm a, khoản 1,  
Điều 21 ông tư 07/2013/TT-TTCP của anh  
tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu  
nại hành chính (ông tư 07/2013/TT-TTCP) quy  
định: “Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần  
hai, ngưi giải quyết khiếu nại hoặc ngưi có trách  
nhiệm xác minh tổ chức đối thoại...” Quy định của  
ông tư 07/2013/TT-TTCP về mở rộng chủ thể  
có trách nhiệm đối thoại (tức là bổ sung cả “ngưi  
có trách nhiệm xác minh”) đã tháo gỡ được một  
phần khó khăn thực tế hiện nay vì phần lớn các  
vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của  
Tổng KTNN nên việc Tổng KTNN phải trực tiếp  
đối thoại khi giải quyết khiếu nại (lần hai) là rất  
khó thực hiện. Tuy nhiên, quy định tại ông tư  
07/2013/TT-TTCP lại không phù hợp, đúng tinh  
thần của Luật Khiếu nại quy định về trách nhiệm  
của ngưi giải quyết khiếu nại trong việc đối thoại  
với ngưi khiếu nại.  
- Vviệc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại  
có hiệu lực pháp luật  
Luật Khiếu nại quy định về việc thi hành quyết  
định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật  
song lại chưa được quy định và hướng dẫn cụ thể  
làm cơ sở cho việc tổ chức thi hành như: trách  
nhiệm, nghĩa vụ của các bên có liên quan, trình  
tự thủ tục trong việc triển khai, việc tổ chức cưỡng  
chế, việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, xử lý vi phạm.  
Bên cạnh đó, việc phối hợp của các cơ quan, tổ  
chức, cá nhân có thẩm quyền trong tổ chức thi  
hành cũng chưa được chặt chẽ và đầy đủ. Vì vậy,  
quá trình tổ chức thực hiện gặp nhiều khó khăn,  
vướng mc, thậm chí có thể dẫn đến sai phạm, gây  
bức xúc cho ngưi dân và dư luận xã hội.  
Hiện tại, anh tra Chính phủ đã ban hành  
ông tư số 02/2016/TT-TTCP sửa đổi, bổ sung  
một số điều của ông tư số 07/2013/TT-TTCP  
quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính  
(ông tư số 02/2016/TT-TTCP) - ông tư có  
hiệu lực thi hành từ ngày 05/12/2016. eo đó,  
ông tư 02/2016/TT-TTCP quy định về tổ chức  
đối thoại như sau: “Trong quá trình giải quyết  
khiếu nại lần hai, ngưi giải quyết khiếu nại phải  
Trên thực tế, có không ít vụ việc đã được giải  
quyết hết thẩm quyền, đúng chính sách, pháp luật,  
đã được rà soát, thông báo nhưng công dân vẫn  
không đồng ý, tiếp tục khiếu nại đến nhiều cấp,  
nhiều ngành kể cả lên Trung ương, nhưng không  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 133 - tháng 11/2018 45  
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN  
tiến hành đối thoại. Như trên đã phân tích, quy  
định này về nguyên tc phù hợp với Luật Khiếu nại  
nhưng lại chưa phù hợp với thực tiễn công tác giải  
quyết khiếu nại. Vlâu dài, để tháo gỡ khó khăn  
từ thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, đồng  
thi vẫn bảo đảm tăng cưng trách nhiệm của ủ  
trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong giải quyết  
khiếu nại, Luật Khiếu nại và các văn bản hướng  
dẫn thì hành nên quy định theo hướng: Ngưi  
giải quyết khiếu nại được uỷ quyền cho cấp phó  
của mình tiến hành đối thoại. Quy định này đảm  
bảo tính linh hoạt trong hoạt động quản lý hành  
chính, không ảnh hưởng đến thi hạn giải quyết  
khiếu nại, đồng thi phù hợp với Luật tố tụng hành  
chính 2015 là cho phép ngưi đứng đầu cơ quan, tổ  
chức, đơn vị được uỷ quyền cho cấp phó của mình  
làm ngưi đại diện trong trưng hợp ngưi bị kiện  
là cơ quan, tổ chức hoặc ngưi đứng đầu cơ quan,  
tổ chức.  
của Kiểm toán nhà nước (Quyết định số 1294/  
QĐ-KTN) thì Tổng KTNN cũng là ngưi quyết  
định bổ nhiệm công chức, viên chức lãnh đạo của  
KTNN (trừ các Phó Tổng KTNN thì thực hiện  
theo các quy chế, quy định về quản lý cán bộ, về  
bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm cán  
bộ, công chức lãnh đạo của Đảng và Nhà nước).  
Như vậy, Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành,  
KTNN khu vực không có quyền bổ nhiệm công  
chức. Do đó, nếu không làm rõ cụm từ “công chức  
do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp” (tại khoản 2,  
Điều 14 Luật Tcáo) thì sẽ gây khó khăn rất lớn  
trong quá trình tiếp nhận, xử lý và giải quyết tố cáo  
thuộc thẩm quyền của KTNN.  
Đề xuất các giải pháp pháp khắc phục những  
tồn tại, hạn chế trong công tác tiếp nhận, giải  
quyết đơn của kTNN  
Để khc phục các tồn tại, hạn chế trong Quy  
trình 161 và trong công tác tiếp nhận, giải quyết  
khiếu nại, tố cáo trong thi gian qua của KTNN,  
tác giả đề xuất một số giải pháp chính như sau:  
(vii) Luật Tcáo còn một số điểm cần phải làm  
rõ để việc áp dụng trong thực tiễn được phù hợp,  
khả thi, cụ thể:  
(i) Đề nghị tiến hành việc sửa đổi, bổ sung Quy  
trình 161 để đảm bảo phù hợp với thực tế. Sau đó,  
tổ chức phổ biến, tập huấn Quy trình 161 (đã được  
sửa đổi, bổ sung) trong toàn ngành để các đơn vị  
trực thuộc KTNN nm rõ và thực hiện đúng, kịp  
thi trong công tác tiếp nhận giải quyết khiếu nại,  
tố cáo.  
Tại khoản 2, Điều 14 Luật Tố cáo có quy định:  
Tổng Kiểm toán nhà nước có thẩm quyền giải  
quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc  
thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Kiểm toán trưởng,  
Phó Kiểm toán trưởng Kiểm toán nhà nước chuyên  
ngành, Kiểm toán nhà nước khu vực và công chức  
do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp. Kiểm toán  
trưởng Kiểm toán nhà nước chuyên ngành, Kiểm  
toán nhà nước khu vực có thẩm quyền giải quyết  
tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực  
hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức do mình  
bổ nhiệm, quản lý trực tiếp. Tuy nhiên, tại điểm b,  
khoản 1 Điều 10 Quyết định số 1786/QĐ-KTNN  
ngày 01/11/2016 của Tổng KTNN ban hành Quy  
định về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm các ngạch  
Kiểm toán viên nhà nước (Quyết định số 1786/  
QĐ-KTNN) quy định: “Tổng KTNN quyết định  
bổ nhiệm, miễn nhiệm các ngạch Kiểm toán viên  
nhà nước đối với công chức Kiểm toán nhà nước.  
Bên cạnh đó, theo quy định tại Quyết định số 1294/  
QĐ-KTNN ngày 25/7/2016 của Tổng KTNN ban  
hành Quy định về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức  
và miễn nhiệm công chức, viên chức lãnh đạo  
(ii) Đề nghị Tổng KTNN cho phép thực hiện  
phương pháp quản lý, điều hành việc tiếp nhận,  
giải quyết khiếu nại, tố cáo tại KTNN như sau:  
- Giao cho anh tra KTNN chủ trì trong công  
tác tham mưu giúp Tổng KTNN quản lý, điều  
hành việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo  
tại KTNN;  
- KTNN sẽ thiết kế một hòm thư điện tử nóng  
(email nóng) giao cho Phó Tổng KTNN phụ trách  
giải quyết đơn thư và anh tra KTNN quản lý.  
Email nóng này có nhiệm vụ tiếp nhận nhanh nhất  
các đơn thư gửi tới KTNN theo cách:  
+ Nếu là các đơn thư gửi tới các đơn vị trực  
thuộc KTNN (không phải là anh tra KTNN, Văn  
phòng KTNN): Ngay sau khi nhận được đơn thư,  
46 Số 133 - tháng 11/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
các đơn vị này có trách nhiệm chụp ảnh, scan đơn  
thư và toàn bộ tài liệu kèm theo đơn thư để gửi  
về email nóng, đồng thi, điện thoại hoặc nhn tin  
ngay để Phó Tổng KTNN phụ trách giải quyết đơn  
thư và anh tra KTNN biết việc đơn vị vừa gửi  
đơn thư vào email nóng;  
1. Kiểm toán nhà nước, Chiến lược phát triển Kiểm  
toán nhà nước đến năm 2020, năm 2010;  
2. Kiểm toán nhà nước, Kế hoạch Chiến lược  
phát triển Kiểm toán nhà nước đến năm  
2013-2017, năm 2013;  
3. Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015;  
4. Luật Khiếu nại năm 2011;  
5. Luật Tố cáo năm 2011;  
+ Nếu là các đơn thư gửi tới anh tra KTNN,  
Văn phòng KTNN thì hai đơn vị này có trách nhiệm  
báo cáo ngay tới lãnh đạo KTNN để xử lý kịp thi.  
6. Luật Tiếp công dân năm 2013;  
- Ngay sau khi anh tra KTNN nhận được  
đơn thư qua email nóng, anh tra KTNN có trách  
nhiệm báo cáo và tham mưu tới lãnh đạo về phương  
án xử lý ban đầu đối với đơn thư nhận được. Sau  
đó, trên cơ sở chỉ đạo của lãnh đạo KTNN phải liên  
hệ ngay với các đơn vị trực thuộc đã gửi đơn vào  
email nóng để tiến hành trao đổi, tư vấn các bước  
tiếp nhận, xử lý, giải quyết đơn thư theo quy định.  
7. Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày  
03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết  
một số điều của Luật Khiếu nại;  
8. Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày  
03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết  
thi hành một số điều của Luật Tố cáo;  
9. ông tư số 06/2013/TT-TTCP ngày  
30/9/2013 của anh tra Chính phủ quy  
định quy trình giải quyết tố cáo;  
(iii) Đề nghị Tổng KTNN cho phép tiến hành  
hoàn thiện tổ chức, bộ máy, đảm bảo về nhân sự  
trong việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại  
Kiểm toán nhà nước, cụ thể: Bổ sung cho anh  
tra KTNN từ 2 đến 3 công chức có kinh nghiệm,  
năng lực về giải quyết đơn thư; Ngoài anh tra  
KTNN, mỗi đơn vị trực thuộc KTNN nên bố trí  
01 công chức (ở Văn phòng hoặc Phòng Tổng hợp)  
được giao nhiệm vụ thưng xuyên về tham mưu  
giải quyết đơn thư giúp thủ trưởng đơn vị;  
10. ông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày  
31/10/2013 của anh tra Chính phủ quy định  
quy trình giải quyết khiếu nại hành chính;  
11. ông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày  
31/10/2014 của anh tra Chính phủ quy  
định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố  
cáo, đơn kiến nghị, phản ánh;  
12. Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học  
Xã hội, Hà Nội, năm 1994;  
13. Từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học,  
Nhà xuất bản ành phố Hồ Chí Minh,  
ành phố Hồ Chí Minh, năm 2002;  
(iv) ưng xuyên tổ chức tập huấn, trau dồi  
chuyên môn, nghiệp vụ về tiếp nhận, xử lý và giải  
quyết đơn thư đối với các công chức, ngưi có liên  
quan tại các đơn vị trực thuộc KTNN.  
14. Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện ông báo  
số 130-TB/TW ngày 10/01/2008 của Bộ  
Chính trị về giải quyết khiếu nại, tố cáo;  
ông qua bài viết, tác giả bước đầu đã đánh  
giá được thực trạng, chỉ ra một số tồn tại, hạn chế  
trong công tác tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố  
cáo tại KTNN, đồng thi, cũng đề xuất một số giải  
pháp để Lãnh đạo KTNN có một góc nhìn toàn  
diện hơn về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo  
của Ngành và có những điều chỉnh kịp thi giúp  
cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ngành  
ngày càng được hoàn thiện và hiệu quả hơn.  
15. Báo cáo số 984/BC-UBTVQH13 ngày  
05/11/2015 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về  
kết quả giám sát việc giải quyết đơn, thư khiếu  
nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội;  
16. Báo cáo số 2804/BC-UBPL13 ngày  
14/11/2014 của Uỷ ban Pháp luật về kết  
quả giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố  
cáo của công dân thuộc thẩm quyền của cơ  
quan hành chính nhà nước.  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 133 - tháng 11/2018 47  
pdf 7 trang yennguyen 18/04/2022 1420
Bạn đang xem tài liệu "Hoàn thiện việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại kiểm toán nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfhoan_thien_viec_tiep_nhan_giai_quyet_khieu_nai_to_cao_tai_ki.pdf