Tập bài giảng Bảo vệ thực vật đại cương - Nguyễn Thị Tần

UỶ BAN NHÂN TỈNH  
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG  
Th.sNguyễn Thị Tần  
TẬP BÀI GIẢNG  
BẢO VỆ THỰC VẬT ĐẠI CƯƠNG  
LÀO CAI 2012  
LỜI NÓI ĐẦU  
Khoa học bảo vệ thực thực vật là ngành khoa học tổng hợp bao gồm các lĩnh vực khoa  
học về côn trùng, bệnh cây và các loài dịch hại khác thường xuyên gây hại trên các loài cây  
trồng và sản phẩm nông lâm nghiệp.  
Trong quá trình sản xuất thâm canh, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông  
thôn hiện nay, quy mô và mức độ phổ biến gây hại của dịch hại là vấn để có nguy cơ lớn, cần  
phải tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật bảo vệ thực vật trong sản xuất  
nhằm bảo vệ cây trồng, bảo vệ môi trường và phát triển sản xuất nông nghiệp một cách ổn  
định, bền vững và hiệu quả kinh tế cao.  
Trong chương trình đào tạo trung cấp trồng trọt, môn học Bảo vệ thực vật đại cương  
được coi là môn học cơ sở và chuyên ngành góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo cho học sinh  
nhóm nghề trồng trọt và bảo vệ thực vật có trình độ kiến thức chuyên môn tương đối toàn diện  
về lý thuyết cơ bản và kỹ năng thực hành để nhận biết, điều tra và phòng trừ các loại sâu bệnh  
dịch hại trên các sản phẩm nông, lâm nghiệp.  
Tập bài giảng bảo vệ thực đại cương được biên soạn theo chương trình chi tiết môn học  
Bảo vệ thực vật đại cương bao gồm năm đơn vị học trình. Tập bài giảng được chia làm bai  
phần lớn với 10 chương, trình bày các kiến thức cơ bản về các khái niệm chung, các đặc điểm  
hình thái, giải phẫu, phân loại, sinh học, sinh thái và phương pháp điều tra phát hiện sâu bệnh  
và dịch hại phổ biến.  
Tập bài giảng cung cấp cho người học hệ thống các kiến thức cơ bản có tính chất truyền  
thống đồng thời bổ sung thêm một số kiến thức mới được chọn lọc từ các thành tựu nghiên cứu  
khoa học trong nước những năm gần đây về kỹ thuật sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có  
tính chọn lọc cao, có độ độc thấp, các chế phẩm sinh học, các giống kháng sâu bệnh... nhằm  
hạn chế tối đa thiệt hại do sâu bệnh gây ra.  
Mặc dù đã cố gắng nhiều, xong tập bài giảng khó tránh khỏi thiếu sót, tác giả rất mong  
nhận được các ý kiến đóng góp bổ sung của bạn đọc để có thể sửa chữa cho hoàn chỉnh trong  
lần tái bản sau.  
TÁC GIẢ  
3
BÀI MỞ ĐẦU  
1. ĐỊNH NGHĨA MÔN HỌC  
Bảo vệ thực vật là một ngành khoa học nghiên cứu về bản chất của các loài dịch hại (các  
nguyên nhân gây hại) trên cây trồng và các biện pháp phòng chống tổng hợp dịch hại nhằm bảo  
vệ cây trồng, đảm bảo năng suất cao, chất lượng tốt, an toàn vệ sinh nông sản phẩm và môi  
trường. Dịch hại là nhưng vi sinh vật gây hại đến đời sống cây trồng và chất lượng sản phẩm.  
Chúng có mặt trong hệ sinh thái nông, lâm nghiệp là những yếu tố lớn rất nguy hại cho nên sản  
xuất nông nghiệp. Đặc biệt là các loại sâu hại (côn trùng) là một trong yêu tố gây hại thường  
xuyên và có thể gây thiệt hại lớn trên diên rộng.  
2. TÁC HẠI CỦA DỊCH HẠI CÂY TRỒNG TRONG SẢN XUẤT  
Các loài dịch hại, nhất là sâu bệnh ở dại, chuột luôn gây ra các tác động xấu đối với đời  
sống, sinh trưởng, phát triển và giá trị kinh tế của cây trồng, của tài nguyên thực vật.  
Tác hại của dịch hại thể hiện ở các mặt sau đây:  
- Do bị hại cây có thể bị lụi, hoặc một số bộ phận cơ quan của cây như hạt, củ, quả, thân,  
rễ, lá, hoa quả bị huỷ hoại chức năng sinh lý bị phá huỷ, rối loạn làm cây sinh trưởng phát triển  
kém, còi cọc... dẫn tới làm giảm sút nghiêm trọng năng xuất thu hoạch, thậm chí mất trắng  
hoặc phải phá bỏ cây sớm.  
- Chất lượng sản phẩm thu hoạch và sau thu hoạch bị giảm sút, chủ yếu làm giảm sút giá  
trị dinh dưỡng, giá trị sử dụng, làm giảm chất lượng chế biến, bảo quản, làm giảm sức sống,  
chất lượng của hạt giống, cây giống, thoái hoá giống, làm mất giá trị hàng hoá, phẩm cấp nông  
sản, khả năng tiêu thụ, giá cả canh tranh kém.  
- Ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp gây ô nhiễm, độc hại đối với đất đai, môi trường, đời  
sống sức khoẻ của con người và gia súc khi sử dụng một số nông sản bị dịch hại.  
Ví dụ: Bệnh mốc vàng hại lạc (Aspergillus flaws) sinh ra độc tố Aflavotoxin trong hạt lạc  
có thể bị ung thu gan cho người và gia súc khi sử dụng để ăn hoặc chế biến thức ăn gia súc.  
Một số độc tố khác của nấm hại cây như Ergotoxin trong bột mỳ, độc tố bệnh mốc đỏ  
Fusarium graminearum trong hạt ngô...  
Đánh giá thiệt hại kinh tế do các dịch hại gây ra ở mức độ chính xác là rất khó khăn. Tổ  
chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO) năm 1993 cho thấy thiệt hại do sâu bệnh, cỏ dại gây  
ra trên phạm vi toàn thế giới có thể làm giảm 33,7% tổng sản lượng nông nghiệp, trong đó tỷ lệ  
thiẹt hại do sâu 12,2%, do bệnh 11,8%, do cỏ dại 9,7%. Ở nước ta theo đánh giá chung, sâu  
bệnh có thể làm tổn thất 20 - 30% tổng sản lượng thu hoạch hàng năm.  
3. VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC BẢO VỆ THỰC VẬT TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP  
Sâu bệnh và dịch hại thường xuyên gây hại ở các mức độ khác nhau trên các loại cây  
trồng nông lâm nghiệp, gây tổn thất to lớn trong sản xuất trên thế giới và ở nước ta.  
Theo Agris G.N.1997, trung bình tỷ lệ % mất sản lượng nói chung trong sản xuất một số  
cây trồng chính như lúa, lúa mì, ngô, khoai tây, đậu tương, bông, cà phê… là 42,1% với tổng  
thiệt hại kinh tế tính ra tiền là 243,7 tỷ đô la Mỹ. Theo FAO, năm 1993 tỷ lệ mất sản lượng do  
sâu bệnh, cỏ dại gây ra là 34,5%, trong đó 13,9% do sâu hại, 9,2% do bệnh hại, 11,2% do cỏ dại.  
Ở nước ta trong nền sản xuất thâm canh, sử dụng những giống mới năng xuất cao nhưng  
có tính mẫn cảm với sâu bệnh, tăng cường sử dụng phân đạm, lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật  
và thay đổi chế đội canh tác theo hướng chuyên canh, tăng vụ đã là những yếu tố tạo ra một hệ  
4
sinh thái nông nghiệp mới ngày càng xa với tự nhiên. Do vậy nó đã tác động mạnh mẽ đến  
thành phần và số lượng quần thể các loại dịch hại vốn rất đa dạng và phức tạp, vì vậy nếu  
chúng ta không tăng cường công tác bảo vệ thực vật sẽ dẫn tới sự phá hại của sâu bệnh có nguy  
cơ ngày càng lớn.  
5
Phần 1  
CÔN TRÙNG ĐẠI CƯƠNG  
Chương 1. HÌNH THÁI HỌC CÔNG TRÙNG  
Côn trùng là loài động vật không xương sống và là lớp tiến hoá nhất trong ngành chân  
khớp (Arthropora). Cơ thể côn trùng được bao bọc bởi một lớp da cứng chắc có cấu tạo phức  
tạp và được phân cắt thành nhiều vòng đốt ngay từ lúc phôi thai. Sau khi trưởng thành, cơ thể  
chia làm 3 phần rõ ràng: Đầu , ngực, bụng rõ ràng, mỗi phần có cấu tạo và chức năng nhất định  
đảm bảo cho cơ thể phát triển và tồn tại (hình 1.1)  
Hình 1.1. Cấu tạo chung cơ thể côn trùng (theo D. F. W  
1.1. BỘ PHẬN ĐẦU CÔN TRÙNG  
1.1.1. Cấu tạo chung của đầu côn trùng  
aterhouse)  
Đầu là phần trước nhất của cơ thể côn trùng, có cấu tạo là một vỏ cứng hình hộp tròn, trên  
đó mang một đôi râu đầu, một đôi mắt kép, 2 - 3 mắt đơn và bộ phận miệng (hình 1.1). Do đó  
đầu được xem là trung tâm của cảm giác, xác định phương hướng và cơ quan thu nhận thức ăn.  
Khi quan sát bề mặt đầu côn trùng, thế thấy một số ngấn trên đó. Đây không phải là dấu  
vết các đốt cơ thể côn trùng nguyên thuỷ mà chỉ là những rãnh lõm sâu vào bên trong làm tăng  
độ cứng chắc và tạo các mấu cho cơ thịt phía trong bám vào. Các đường ngấn này đã chia vỏ  
đầu côn trùng thành một số khu, mảnh, đặc trưng cho từng loài nên thường được dùng như một  
đặc điểm đ phân loại côn trùng (hình 1.1).  
- Khu trán - chân môi: Đây là mặt trước vỏ đầu côn trùng được chia làm 2 phần, phía trên  
là trán, phía dưới là chân môi bởi ngấn trán - chân môi. Trên khu trán có một số mắt đơn,  
thường là 3 chiếc, xếp theo hình tam giác đảo ngược.  
- Môi trên: Đây là một phiến hình nắp cử động được để đậy kín mặt trước miệng côn  
trùng, phiến này được đính vào mặt dưới khu chân môi.  
- Khu cạnh - đỉnh đầu: Khu này bao gồm phần đỉnh đầu và phần tiếp nối 2 bên đỉnh đầu.  
6
Giới hạn phía sau của khu này là ngấn ót. Đôi mắt kép của côn trùng nằm ở khu này, ở 2 bên  
đỉnh đầu, còn phía dưới chúng là phần má.  
- Khu gáy - gáy sau: Khu này là mặt sau của đầu gồm 2 phiến hẹp hình vòng cung bao  
quanh lỗ sọ, chỗ nối thông giữa đầu và ngực côn trùng.  
- Khu má dưới: Đây là phần tiếp theo về phía dưới 2 má được phân định bởi ngấn dưới  
má. Đầu côn trùng là một khối rắn chắc nhưng được nối với ngực bằng một vòng da mỏng gọi  
là cổ, nhờ đó đầu có thể cử động linh hoạt.  
Hình 1.2. Cấu tạo đầu côn trùng (theo Chu Nghiêu)  
A. Đầu nhìn mặt trước; B. Đầu nhìn mặt sau; C. Đầu nhìn mặt bên: D. Đầu nhìn mặt bụng  
1. Râu đầu; 2. Mt kép; 3. Mắt đơn; 4. Trán; 5. Chân môi; 6. Đỉnh đầu; 7. Sau đu;8.  
Má; 9. Ngn ót; 10. Ót; 11. Khu dưới má; 12. ót sau; 13. Môi trên;14. Hàm trên; 15.  
Hàm dưới; 16. Môi dưới; 17. Ls(lchm)  
1.1.2. Các kiểu đầu ở côn trùng  
Để thích nghi với những phương thức sinh sống khác nhau, cụ thể là cách lấy thức ăn, vị  
trí của bộ phận miệng có sự thay đổi thành 3 kiểu chính sau đây.  
- Đầu miệng dưới: Là kiểu đầu phổ biến nhất với miệng nằm ở mặt dưới của đầu. Thường  
thấy ở côn trùng có kiểu miệng gặm nhai ăn thực vật như châu chấu, dế, xén tóc v.v... ở kiểu  
đầu này trục mắt - miệng gần như vuông góc với trục dọc cơ thể.  
- Đầu miệng trước: ở đây miệng nhô hẳn ra phía trước đầu nên trục mắt - miệng gần như  
song song với trục cơ thể. Nhờ miệng nằm ở phía trước nên rất thuận lợi cho các loài mọt, bọ  
vòi vòi đục sâu vào thân cây, hạt, quả (hình 1.3). Một số nhóm côn trùng bắt mồi như bọ chân  
chạy, sâu cánh mạch cũng có kiểu đầu miệng trước giúp chúng săn bắt mồi dễ dàng.  
- Đầu miệng sau: Phần lớn côn trùng chích hút nhựa cây như ve, rầy, rệp, bọ xít có kiểu  
đầu mà trục mắt - miệng với trục dọc cơ thể là một góc nhọn do miệng biến thành ngòi châm  
kéo dài về phía sau đầu. Nhờ cách sắp xếp này miệng luôn được cơ thể che chở đồng thời dễ  
dàng tiếp xúc với thức ăn khi côn trùng đậu trên cây.  
7
Hình 1.3. Các kiểu đầu của côn trùng  
1. Đầu miệng dưới; 2. Đầu miệng trước; 3. Đầu miệng sau  
1.1.3. Các phần phụ của đầu  
1.1.3.1. Râu đầu  
Râu đầu côn trùng (anten) là đôi phần phụ có chia đốt, có thể cử động được, mọc phía  
trước trán giữa 2 mắt kép. Râu đầu côn trùng có kích thước, hình dạng rất khác nhau tuỳ theo  
loài song đều có cấu tạo cơ bản giống nhau gồm 3 phần sau đây (hình 1.4).  
- Chân râu: Là đốt gốc của râu, có hình dạng thô, ngắn hơn các đốt khác, phía trong có cơ  
thịt điều khiển sự hoạt động của râu. Chân râu mọc ở phía trước trán từ một hốc da mềm hình  
tròn gọi là ổ hất, có cơ điều khiển sự hoạt động.  
Hình 1.4. Cấu tạo cơ bản của râu đầu  
- Cuống râu: Là đốt th2 của râu, thường ngn nht song cũng có cơ điều khin shoạt động.  
- Roi râu: Là phn tiếp theo đốt cung râu và là phn phát trin nht ca râu. Roi râu gm  
nhiều đốt vi cu trúc rt khác nhau to nên sự đa dạng ca râu côn trùng, cth(hình 1.5).  
+ Râu sợi chỉ: Ngoại trừ phần chân râu có 1- 2 đốt hơi to, các đốt còn lại có tiết diện hình  
trụ đơn giản, thon nhỏ dần về phía cuối. Có loại râu sợi chỉ thô ngắn như ở châu chấu, hoặc rất  
dài, mảnh như ở muỗm, dế, gián v.v...  
+ Râu lông cứng: Râu thường rất ngắn, trừ 1 - 2 đốt phía gốc hơi to, các đốt còn lại rất  
mảnh và ngắn như một sợi lông cứng, như râu chuồn chuồn, ve sầu, rầy xanh v.v...  
+ Râu chuỗi hạt: Gồm nhiều đốt hình hạt nhỏ nối tiếp nhau như râu mối thợ, bọ chân dệt.  
+ Râu răng cưa: Gồm nhiều đốt hình tam giác, nhô góc nhọn về một phía giống răng cưa,  
như râu ban miêu đực, đom đóm.  
8
Hình 1.5. Các kiển râu đầu của côn trùng  
1. Râu hình sợi chỉ (Châu chấu Locusta migratoria Linn.); 2. Râu hình chuỗi hạt (Mối  
thợ Calotermes sp.); 3. Râu hình lông cứng (Chuồn chuồn Anax parthenope Selys); 4.  
Râu hình răng cưa (Xén tóc Prionus insularis Motsch.); 5. Râu hình lưới kiếm (Cào cào  
Acrida lata Motsch.); 6. Râu chổi lông thưa (muỗi cái Culex fatigas Wied.); 7. Râu chổi  
lông rậm (muỗi đực Culex fatigas Wied.); 8. Râu hình lông chim (Sâu róm chè Semia  
cynthia Drury); 9. Râu hình răng lược (Ptilineurus marmoratus Reitt. ♂); 10. Râu hình  
rẻ quạt mềm (Halictophagus sp. ♂); 11. Râu hình dùi đục ; 12. Râu hình dùi trống (Loài  
Ascalaphus sp.) 13. Râu hình lá lợp; 14. Râu hình đầu gối ;15. Râu hình chuỳ; 16. Râu  
ruồi (Ruồi xanh Luccia sp.).  
+ Râu lông chim (hay răng lược kép): Trừ 1- 2 đốt ở gốc râu các đốt còn lại đều phân  
nhánh sang hai bên kiểu chiếc lược kép hay lông chim như râu ngài tằm, ngài đực sâu róm ...  
+ Râu chổi lông: Trừ 1- 2 đốt ở gốc râu, các đốt còn lại mọc đầy lông dài toả tròn trông tựa  
chổi lông, như râu muỗi đực.  
+ Râu đầu gối: Đốt chân râu khá dài cùng với phần roi râu tạo thành một hình gấp đầu gối  
như râu ong mật, ong vàng, kiến...  
+ Râu dùi đục: Các đốt hình ống nhỏ dài nhung lớn dần ở các đốt cuối trông tựa dùi đục  
như râu các loài bướm.  
+ Râu dùi trống: Gần giống râu dùi đục nhưng các đốt cuối phình to đột ngột, như râu một  
loài cánh mạch lớn.  
+ Râu hình chùy: Các đốt chân râu, cuống râu phình to kiểu quả chùy, như râu ve sầu  
bướm, rầy nâu v.v..  
+ Râu lá lợp: Các đốt roi râu biến đổi thành hình lá, xếp lợp lên nhau và có thể co, duỗi  
được như râu họ bọ hung.  
+ Râu nhánh: Là kiểu râu rất đặc biệt chỉ thấy ở một số họ ruồi nên còn gọi là râu ruồi. Râu khá  
ngắn với 2 - 3 đốt gốc phình to, trên đó mọc 1 nhánh nhỏ, phân đốt có mang nhiều sợi lông cứng.  
9
Có thể thấy râu đầu côn trùng rất đa dạng về hình thái, đặc trưng cho từng loài cũng như  
giới tính trong loài vì vậy người ta thường dựa vào đặc điểm này trong phân loại côn trùng  
cũng như phân biệt giới tính của chúng.  
1.1.3.2. Miệng  
a. Cấu tạo chung  
Miệng côn trùng có cấu tạo kphức tạp, gồm 5 phần là môi trên, lưới, hàm trên, hàm dưới  
và môi dưới. Trong đó hàm trên, hàm môi và môi dưới là các phần chính của miệng có nguồn  
gốc cấu tạo từ 3 đôi phần phụ của 3 đốt cơ thể nguyên thuỷ tham gia hình thành miệng côn  
trùng. Dưới đây là cấu tạo chi tiết của kiểu miệng gậm nhai, thích hợp với kiểu gậm, nghiền  
thức ăn rắn. Đây là kiểu miệng nguyên thuỷ nhất ở lớp côn trùng (Hình 1.6).  
- Hàm trên: Là một đôi xương cứng khá lớn và không phân đốt nằm sát dưới môi trên, giúp  
chúng gậm, nhai thức ăn rắn dễ dàng, đào khoét hang làm tổ và còn là vũ khí lợi hại để tự vệ  
hay tấn công con mồi.  
Hình 1.6. Cấu tạo miệng nhai của côn trùng (Châu chấu diac − Locusta migratoria Linn.)  
1. Môi trên (1. nhìn phía ngoài); 2. Môi trên (nhìn phía trong); 3, 4. Hàm trên bên phải và bên  
trái (1. Răng gặm; 2. Răng nhai); 5, 6. Hàm dưới (1. Chân hàm; 2. Thân hàm; 3. Lá trong  
hàm; 4. Lá ngoài hàm; 5. Chân râu hàm dưới; 6. Râu hàm dưới); 7. Môi dưới (1. Cằm sau;  
2. Cằm trước; 3. Lá giữa môi; 4. Lá ngoài môi; 5. Chân râu môi dưới; 6. Râu môi dưới);  
- Hàm dưới: Cũng là 1 đôi xương nằm phía sau hàm trên ở vị trí thấp hơn, chức năng nếm  
hoặc ngửi thức ăn.  
- Môi dưới: Thực chất là đôi hàm dưới thứ hai đó hợp làm một thành chiếc nắp đậy kín  
mặt dưới của miệng, cũng có chức năng nếm hoặc ngửi thức ăn.  
- Môi trên: Là một phiến da dày hình nắp, cử động được để đậy kín mặt trước miệng côn trùng.  
b. Những biến đổi của miệng  
Qua nghiên cứu người ta đã chứng minh được rằng, miệng gặm nhai ăn thức ăn rắn là kiểu  
miệng nguyên thuỷ của côn trùng. Trong quá trình tiến hoá nhiều nhóm côn trùng có xu hướng  
chuyển sang ăn thức ăn nửa rắn nửa lỏng đến thức ăn lỏng hoàn toàn. Để thích nghi với các  
loại thức ăn này, cấu tạo miệng côn trùng đó biến đổi theo chiều hướng và hình thành nên một  
số kiểu miệng sau đây:  
10  
- Miệng gậm hút: Thường gặp ở nhóm ong lớn trong bộ Cánh màng, điển hình là ong mật.  
Cụ thể lá ngoài hàm dưới kéo dài thành hình lưới kiếm để tách, lật cánh hoa tìm mật, lá giữa  
môi kéo dài thành vòi, đầu mút có một núm hình cầu gọi là đĩa vòi để hút mật hoa. Ở kiểu  
miệng này, râu hàm dưới và râu môi dười gần như tiêu biến vì ít tác dụng.  
- Miệng dũa hút: là kiểu miệng của bọ trĩ (bộ Cánh tơ). Miệng của chúng có một vòi ngắn  
hơi cúp về phía sau do môi trên, một phần hàm dưới và môi dưới tạo thành. Trong vòi có 3 ngòi  
châm là đôi hàm dưới và hàm trên bên trái biến đổi thành, còn hàm trên bên phải đó thoái hoá.  
Khi ăn các ngòi châm này liên tục co duỗi, dũa rách biểu bì làm dịch cây tiết ra để sau đó được  
vòi hút vào cơ thể. Ở đây lưỡi và lá giữa môi hợp thành ống tiết nước bọt vào vết thương trên  
bề mặt mô cây.  
- Miệng cứa liếm: là kiểu miệng của mòng trâu. Ở đây đôi hàm trên và đôi hàm dưới biến  
đổi thành các ngòi châm sắc nhọn, chuyển động theo chiều ngang để cứa rách da vật chủ như  
trâu, bò.  
- Miệng liếm hút: là kiểu miệng của nhóm ruồi, điển hình là họ ruồi nhà. Ở kiểu miệng này  
đôi hàm trên và đôi hàm dưới đó hoàn toàn thoái hoá, trong lúc đó môi dưới khá phát triển, kéo  
dài thành một chiếc vòi thô ngắn có thể co duỗi linh hoạt.  
- Miệng hút: đây là kiểu miệng điển hình của các loài ngài, bướm để hút mật hoa và các  
thức ăn lỏng khác. Ở kiểu miệng này, môi trên, môi dưới và đôi hàm trên đó thoái hoá, còn đôi  
hàm dưới lại kéo dài thành vòi phía trong có rãnh hút thức ăn. Khi ăn vòi vươn dài ra ngoài, cử  
động linh hoạt để tìm kiếm thức ăn. Còn lúc nghỉ vòi được cuộn lại theo hình trôn ốc, dấu ở  
phía dưới đầu để tránh bị tổn thương. Ở kiểu miệng này, râu môi dưới khá phát triển để ngửi  
thức ăn.  
- Miệng chích hút: Khác với các kiểu miệng ăn thức ăn lỏng nói trên, miệng chích hút là  
kiểu biến đổi theo hướng thành những ngòi châm dài, nhọn để có thể chích sâu  
Ngoài ra còn phải kể đến miệng bắt mồi rất hoàn hảo của sâu non bộ cánh mạch (chuồn  
chuồn) và miệng niềng niễng.  
c. Mắt côn trùng  
Mắt côn trùng là cơ quan thị giác quan trọng trong đời sống côn trùng. Mắt côn trùng có  
hai loại mắt: mắt đơn và mắt kép nằm ở giữa trán và đỉnh đầu.  
- Mắt đơn: có chức năng phân biệt độ sáng tối cũng như kích mắt kép tăng cường quang  
động.  
- Mắt kép là hai mắt lớn ở đỉnh đầu. Mỗi mắt kép gồm nhiều mắt nhỏ và số lượng mắt nhỏ  
tùy theo loài. Ví dụ ruồi nhà có tới 4000 mắt nhỏ/mắt kép, chuồn chuồn có tới 20.000 mắt  
nhỏ/mắt kép. Mỗi mắt nhỏ chỉ nhận rõ một điểm của vật, nhờ đó côn trùng có thể phân biệt  
được hình dạng, màu sắc, chuyển động, khoảng cách và cả ánh sáng phân cực  
1.1.3.3. Ứng dụng trong điều tra phát hiện và phòng chống  
- Nghiên cứu miệng côn trùng chúng ta biết được triệu chứng gây hại do kiểu miệng gây ra  
mặc dù sâu đã di chuyển đi.  
Ví dụ: khi điều tra phát hiện thấy các vết cắn gặm, đục khoét trên các bộ phận cây trồng, ta  
có thể biết đó là sâu có kiểu miệng nhai gây hại...  
- Nghiên cứu cấu tạo miệng côn trùng còn giúp ta sử dụng thuốc phòng chống hợp lý.  
Ví dụ: Thuốc hữu hiệu nhất để trừ sâu có miệng nhai là các thuốc có tác động vị độc. Thuốc  
đi vào cơ thể côn trùng cùng với thức ăn, được thành ruột hấp thụ vào máu và gây độc cho cơ  
11  
thể. Ngược lại, côn trùng có miệng chích hút thuốc vị độc hầu như không có tác dụng. Thuốc  
hữu hiệu để trừ nó phải là các loại thuốc nội hấp như Bi -58, Sherpa, Bassa...  
1.2. BỘ PHẬN NGỰC CÔN TRÙNG  
1.2.1. Cấu tạo chung  
Ngực là phần thứ 2 của cơ thể côn trùng, gồm 3 đốt là đốt ngực trước, đốt ngực giữa, đốt  
ngực sau. Mỗi đốt ngực đều có một đôi chân mang tên tương ứng là đôi chân ngực trước, đôi  
chân ngực giữa và đôi chân ngực sau (hoặc đôi chân ngực thứ nhất, thứ hai, thứ ba). Ở phần lớn  
côn trùng trưởng thành, đốt ngực giữa và đốt ngực sau mang 2 đôi cánh, theo thứ tự là đôi cánh  
trước và đôi cánh sau. Với cấu tạo này, bộ phận ngực côn trùng được gọi là trung tâm của sự  
vận động. Là chỗ dựa của chân và cánh, bộ phận ngực côn trùng rất phát triển, da hoá cứng  
vững chắc làm chỗ bám cho các cơ thịt to khoẻ bên trong.  
Ngực côn trùng phần lớn có dạng khối hộp nên mỗi đốt có thể chia làm 4 mặt là mặt lưng,  
mặt bụng và hai mặt bên. Các mặt này đều hoá cứng tạo nên các mảnh cứng mang tên tương  
ứng là mảnh lưng (tergum), mảnh bụng (sternum) và hai mảnh bên (pleurum) của mỗi đốt ngực  
(hình 1.7).  
Hình 1.7. Cấu tạo ngực côn trùng  
1.2.2. Các phần phụ ngực của côn trùng  
a. Chân ngực  
Chân ngực là cơ quan vận động chính của côn trùng. Mang đặc điểm của ngành chân đốt,  
chân ngực côn trùng chia đốt điển hình gồm 5 đốt là:  
Hình 1.8. Cấu tạo cơ bản chân ngực côn trùng  
- Đốt chậu (coxa): là đốt đầu tiên nối với ngực, đốt thường ngắn thô có hình trụ, hình cầu  
hoặc hình chóp ngược.  
- Đốt chuyển (trochanter): là đốt ngắn nhỏ thường có 2 mấu  
12  
- Đốt đùi (femur): là đốt to lớn hơn các đốt khác và bên trong có rất nhiều cơ thịt.  
- Đốt ống hay đốt chầy (tibia): là đốt nhỏ dài mảnh hai bên thường có hai hàng gai và cuối  
đốt có thể có cựa cử động được  
- Đốt bàn chân (tarsis): có từ 2 - 5 đốt nhỏ tuỳ loài. Đốt cuối bàn thường có móng vuốt.  
Ở động vật, chức năng chính của chân là vận động, xong ở lớp côn trùng để thích nghi với  
môi trường sống vốn rất đa dạng, với những phương thức sinh sống khác nhau, chân côn trùng đã  
có hàng loạt biến đổi về cấu tạo để ngoài chức năng chính là vận động, chúng có thể thực hiện  
một số chức năng đặc biệt khác. Kết quả đó hình thành nên một số kiểu chân sau đây (hình 1.9).  
- Chân bò: Đây là kiểu chân phổ biến ở côn trùng với đặc điểm các đốt chân có cấu tạo  
đồng đều, thon gọn như chân bọ rùa, bọ xít, xén tóc...  
- Chân chạy: Tương tự như kiểu chân bò nhưng các đốt dài mảnh hơn giúp côn trùng chạy  
nhanh. Điển hìnhh là chân các loài kiến, chân bọ chân chạy, hổ trùng.  
- Chân nhảy: Như đôi chân sau của dế mèn, châu chấu với đặc điểm đốt đùi to khoẻ, đốt  
ống dài mặt sau có nhiều gai, cựa. Ngoài chức năng bật nhảy đi xa, chân nhảy còn là vũ khí tự  
vệ rất lợi hại của côn trùng.  
Hình 1..9. Các kiểu chân của côn trùng  
1. Chân chạy (Chân giữa họ Hổ trùng Calosoma maximowiczi Morawitz);2,3. Chân giác  
bám (Chân trước Niềng niễng Cybister japonicus Sharp); 4. Chân chải phấn hoa (Chân  
trước Ong mật Apis mellifica Linn.); 5. Chân bắt mồi (Chân trước Bọ ngựa Hierodula  
patellifera Servile); 6. Chân đào bới(Chân trước Ve sầu non);7. Chân đào bới (Chân trước  
Dế dũi Gryllotalpa unispina Saussure); 8. Chân kẹp leo (Chân Rận bò Trichodectes bovis  
Linn.); 9. Chân bơi (Chân sau Niềng niễng);  
- Chân bơi: Đây là kiểu chân của một số loài côn trùng sống dưới nước và bơi khoẻ như  
niềng niễng, bọ xít bơi ngửa. Đốt ống và đốt bàn chân của đôi chân sau thường dài, dẹp, 2 mép  
bên có 2 hàng lông dài có thể cử động được. Khi bơi, 2 hàng lông này dương ra khiến đôi chân  
sau có hình dáng đôi mái chèo quạt nước.  
13  
- Chân đào bới: Điển hình là đôi chân trước của Dế dũi và bọ hung ăn phân. Với cấu tạo  
chắc khoẻ, đốt ống phình rộng như lưỡi xẻng có thêm hàng răng cứng ở mép ngoài, kiểu chân  
này giúp côn trùng đào hang trong đất dễ dàng.  
- Chân bắt mồi: Điển hình là đôi chân trước của Bọ ngựa. Đặc điểm của kiểu chân này là  
đốt chậu rất dài, vươn ra phía trước để mở rộng tầm hoạt động của chân. Đốt đùi rất phát triển,  
có rãnh lõm ở mặt dưới và 2 hàng gai sắc nhọn ở 2 bên mép rãnh.  
- Chân kẹp leo: Là kiểu chân rất đặc biệt chỉ thấy ở nhóm chấy rận. Ở kiểu chân này, bàn  
chân chỉ có 1 đốt và mút cuối có một móng cong lớn. Khi móng gập lại, hợp với mấu nhọn cuối  
đốt ống tạo nên một vòng khuyên ôm lấy sợi lông, tóc của vật chủ để di chuyển dễ dàng và  
chắc chắn.  
- Châm giác bám: Là kiểu chân trước của niềng niễng đực. Các đốt bàn chân phình to xếp  
sít nhau, mặt dưới hơi lõm tạo thành một giác bám để có thể bám chắc vào mặt lưng trơn nhẵn  
của con cái khi ghép đôi.  
- Chân lấy phấn: Đây là kiểu chân đặc trưng của nhóm ong chuyên lấy phấn hoa như ong  
mật, ong bầu. Đốt ống chân sau phình rộng về phía cuối song dẹp và lõm ở giữa, xung quanh  
bờ có lông dài tạo thành "giỏ" chứa phấn hoa. Đốt gốc của đốt bàn chân cũng phình to, dẹp  
phẳng mặt trong có nhiều lông cứng xếp thành hàng ngang như một bàn chải, có tác dụng chải  
gom phấn hoa dính trên bề mặt cơ thể ong.  
b. Cánh côn trùng  
* Cấu tạo và chức năng của cánh côn trùng  
Côn trùng là động vật không xương sống duy nhất có cánh và là sinh vật biết bay sớm nhất  
trong lịch sử tiến hoá của giới động vật, cách đây hơn 350 triệu năm. Nhờ có cánh, côn trùng có  
nhiều lợi thế khi di chuyển, phát tán mở rộng địa bàn phân bố của chúng, dễ dàng tìm kiếm  
được thức ăn, đối tượng ghép đôi cũng như trốn tránh kẻ thù.  
- Về cấu tạo khái quát, cánh côn trùng gồm 2 lớp da mỏng cấu tạo tương tự như một chiếc  
quạt giấy tuy mỏng nhưng khá vững chắc đồng thời có thể xoẻ ra, xếp lại dễ dàng. Cánh côn  
trùng nói chung có hình tam giác, có 3 cạnh và 3 góc (hình 1.10). Cạnh phía trước gọi là mép  
trước cánh, cạnh phía ngoài gọi là mép ngoài cánh và cánh phía sau (hay phía trong) gọi là mép  
sau cánh.  
Hình 1.10. Cu tạo cơ bản ca cánh  
1. Mép trước cánh; 2. Mép ngoài cánh; 3. Mép sau cánh; 4. Góc vai; 5.  
Góc đỉnh; 6. Góc mông; 7. Nếp gp mông; 8. Nếp gấp đuôi; 9. Nếp gp  
gc; 10. Nếp gp cánh;11. Khu chính cánh; 12. Khu mông; 13. Khu  
* Các kiểu biến đổi của cánh côn trùng  
Cánh côn trùng có nhiều chức năng khác nhau do đó cấu tạo này có nhiều biến đổi theo  
phương thức thích nghi của từng loài. Sự biến đổi phổ biến nhất là ở chất cánh, do đó phân  
14  
thành 4 kiểu cánh sau:  
- Cánh mạch: là kiểu cánh có cấu tạo gồm nhiều gân ngang như ở bộ chuồn chuồn, bộ cánh mạch.  
- Cách màng: là kiểu cánh có cấu tạo ít gân ngang, hệ gân cánh thưa như ở bộ cánh mgàng,  
bộ cánh vảy, bộ hai cánh.  
- Cánh hoá cứng: là kiểu cánh mà cấu trúc của đôi cánh trước trở nên chắc hơn, đôi khi hoá  
sừng rất cứng. Khi không bay đôi cánh này úp lên phía trên đôi cánh sau như ở bộ gián, bộ  
cánh thẳng, bộ cánh cứng.  
- Cánh nửa cứng nửa màng là kiểu cánh mà gốc cánh trước có cấu trúc chắc, cứng và phần  
ngọn là cánh màng như ở bộ cánh nửa.  
1.2.3. Ứng dụng trong phân loại  
Chân và cánh đều là một trong những tiêu chuẩn để phân biệt các bộ họ côn trùng trong  
phân loại. Đó là một đặc trưng giúp ta nhận biết chúng trong tự nhiên.  
1.3. BỘ PHẬN BỤNG CÔN TRÙNG  
1.3.1. Cấu tạo chung  
Bụng là phần thứ 3 của cơ thể côn trùng. Bụng gồm nhiều đốt nhưng không mang cơ quan  
vận động, chứa phần lớn các bộ máy bên trong, chủ yếu là tiêu hoá và sinh sản vì vậy bụng  
được xem là trung tâm của trao đổi chất và sinh sản. Số đốt bụng ở côn trùng nhiều nhất là  
khoảng 10 - 11 đốt song thực tế có thể ít hơn như ở ruồi nhà chỉ còn 5 đốt, ở bộ cánh đều còn 8  
- 9 đốt do một số đốt đó thoái hoá, kết hợp với nhau hoặc biến đổi thành ống đẻ trứng (hình  
1.11).  
Do không mang cơ quan vận động nên hình thái các đốt bụng không có biến đổi đáng kể.  
Riêng ở bộ Cánh màng, các đốt bụng phía trước của ong và kiến thường thắt nhỏ lại thành hình  
cuống.  
Hình 1.11. Cu to chung bng côn trùng  
1. Mảnh lưng của bng; 2. Mnh bên ca bng; 3. Mnh bng ca bng; 4. Lỗ  
thở;5. Lông đuôi; 6. Mảnh trên hu môn; 8. Mnh bên hu môn  
.
1.3.2. Các phần phụ của bụng côn trùng  
Bụng côn tng không mang cơ quan vận động, chỉ có 2 loại phần phụ là cơ quan sinh  
dục ngoài và lông đuôi.  
a. Cơ quan sinh dục ngoài  
Ở lớp côn trùng, bộ máy sinh sản kể cả cơ quan sinh dục ngoài do khá hoàn chỉnh và  
phân biệt rõ ràng giữa hai giới tính đực và cái. Ở cá thể cái, lỗ sinh dục phần nhiều ở đốt bụng  
thứ 8 hoặc thứ 9, còn với con đực phần lớn ở giữa đốt bụng thứ 9 và thứ 10. Cơ quan sinh dục  
ngoài của côn trùng chính là phần phụ của các đốt bụng này biến đổi mà thành.  
15  
* con cái: Cơ quan sinh dục ngoài có khi biến đổi thành ống đẻ trứng. Đó là một cấu  
tạo do 3 đôi máng đẻ trứng bó sát vào nhau mà thành. Theo thứ tự từ trước ra sau, 3 đôi máng  
đẻ trứng có tên gọi là đôi máng đẻ trứng thứ 1, thứ 2 và thứ 3, hoặc đôi máng đẻ trứng dưới,  
giữa và trên (hình 1.12) cấu tạo do 3 đôi máng đẻ trứng bó sát vào nhau mà thành. Theo thứ tự  
từ trước ra sau, 3 đôi máng đẻ trứng có tên gọi là đôi máng đẻ trứng thứ 1, thứ 2 và thứ 3, hoặc  
đôi máng đẻ trứng dưới, giữa và trên.  
Hình 1.12. Cơ quan sinh dc ngoài ca con cái  
I-X: Các đốt bng từ 1 đến 10; XI. Phiến trên hu môn; XI. Phiến bên hu môn  
(tc mảnh lưng và mảnh bng của đốt bụng 11); 1. Lông đuôi; 2. Hậu môn; 3.  
Lsinh dc;4, 5. Phiến đẻ trứng; 6, 7, 8. Máng đẻ trứng dưới, gia và trên  
ng đẻ trứng ở côn trùng vừa là công cụ khoan vừa là máng dẫn trứng vào nơi chúng cần  
đẻ vì vậy cấu tạo này cũng thay đổi khá nhiều tuỳ theo loài côn trùng.  
Ví dụ: để có thể khoan sâu và đẻ trứng vào trong đất, ống đẻ trứng của châu chấu do 2 đôi  
máng thứ 1 và thứ 3 tạo nên có dạng 1 mũi khoan tù rất cứng. Còn với ve sầu, rầy xanh chúng  
lại có ống đẻ trứng hình búp đa sắc nhọn do 2 đôi máng thứ 1 và thứ 2 tạo nên, còn đôi máng  
thứ 3 làm thành vỏ bọc bên ngoài để có thể chọc sâu và đẻ trứng vào mô cây.  
* Ở con đực có cấu tạo phức tạp hơn, gồm có dương cụ là cơ quan để giao phối và lá giữ  
ấm dương cụ để giữ chắc bộ phận sinh dục cái khi ghép đôi do chúng thường phải di chuyển để  
trốn tránh kẻ thù săn bắt (Hình 1.13).  
Hình 1.13. Cơ quan sinh dc ngoài ca con đực  
A. Nhìn tmt bên; B. Nhìn từ phía sau VIII, IX, X. Các đốt bụng 8,9,10; 1. Lông đuôi;  
2. Mnh trên hu môn; 3. Hu môn;4. Mnh bên hu môn; 5. Lsinh dục đực; 6. Thân  
dương cụ; 7. Gốc dương cụ;8. Lá bên dương cụ; 9. Lá giâm c; 10. ng phóng tinh; 11.  
Mảnh lưng đốt bng th9; 12. Mnh bụng đốt bng th10; 13. Xoang sinh dc  
b. Lông đuôi  
Là đôi phần phụ của đốt bụng thứ 11 được mọc từ mảnh trên hoặc mảnh bên hậu môn.  
Lông đuôi côn trùng dài, mảnh và chia đốt như ở bọn phù du, nhậy sách, hoặc thô ngắn, không  
16  
chia đốt như ở châu chấu. Lông đuôi côn trùng có chức năng chính là cảm giác, song cũng có  
loài mang chức năng khác như chức năng tự vệ (hình 1.14)  
H
ì
nh 1.14. Mt sdn  
g
l
ôn  
g
đ
uô  
i
côn  
t
rùn  
g
A. Dng gọng kìm (lông đuôi bộ Dermaptera); B. Dng sợi (lông đuôi nhậy sách  
Ctenolepisma); C. Dng phiến (lông đuôi Gián Blatta); D. Dạng mấu (lông đuôi châu  
chấu) 1. Lông đuôi; 2. Bphn sinh dc ngoài; 3. Phiến lưng kéo dài thành lông đuôi giả  
Khác với pha trưởng thành, bphn bng ca pha sâu non mang nhiều đôi chân để vn  
đng. Những đôi chân này được gi là chân bng. Sâu non bcánh vẩy thường có 5 đôi chân  
bng ở các đốt bng 3, 5, 6 và ở đốt cui cùng th10. họ Ong ăn lá có 6 đôi, riêng họ ong  
Xyelidae có tới 10 đôi. Nói chung chân bụng sâu non có cu tạo khá thô sơ. Như chân bụng sâu  
non cánh vy chỉ có 3 đốt là đốt chu phụ, đốt chậu và đốt bàn chân. Ngoài chân bng nói trên,  
mt số nhóm côn trùng như sâu non phù du và sâu non bộ Cánh rộng hai bên đt bng t1-7  
hoc 1-8 có mang khí qun dng hình lá hoc hình chùm lông, hoc sâu non mui Chhng có  
các đôi huyết mang.  
CÂU HỎI ÔN TẬP  
1. Ý nghĩa sinh học thực tiễn của việc nghiên cứu Hình thái học côn trùng?  
2. Nêu đặc điểm tổng quát và chức năng sinh học của 3 phần cơ thể côn trùng?  
3. Sự biến đổi về cấu tạo bộ phận miệng côn trùng nói lên điều gì về chiều hướng tiến  
hóa của lớp động vật?  
4. Những đặc điểm hình thái nào được dùng nhiều, đặc điểm nào có độ tin cậy cao nhất  
trong công việc phân loại côn trùng?  
17  
Chương 2. PHÂN LOẠI CÔN TRÙNG  
2.1. HỆ THỐNG VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN LOẠI CÔN TRÙNG  
Theo lý thuyết tiến hoá của Darwins, sự đa dạng của các loại sinh vật ngày nay đều bắt  
nguồn từ một số tổ tiên đơn giản và là kết quả của một quá trình tiến hoá lâu dài theo nhiều  
hướng để thích nghi với các hoàn cảnh sống khác nhau. Điều này có nghĩa trong thế giới côn  
trùng muôn hình muôn vẻ với khoảng 1 triệu loài mà con người biết được cho đến nay tồn tại  
một mối quan hệ huyết thống ở các cấp độ khác nhau. Việc nghiên cứu mối quan hệ họ hàng  
trong lớp côn trùng được xem là phần kiến thức cơ bản không thể thiếu trong mọi nghiên cứu  
về lớp động vật này.  
Mục đích nghiên cứu ở đây không chỉ nhằm tái hiện con đường phát sinh, tiến hoá để sắp xếp  
phả hệ của lớp động vật hết sức đa dạng này mà quan trọng hơn, những nhà côn trùng học ứng  
dụng có thể căn cứ vào đó để xác định vị trí phân loại, tức chủng loại của đối tượng nghiên cứu.  
Tuân theo quy tắc chung về phân loại động vật, hệ thống phân loại côn trùng cũng được  
phân thành các cấp cơ bản theo thứ tự từ lớn đến nhỏ thứ tự như sau:  
Giới - Kingdom  
Ngành - Phylum  
Lớp - Class  
Bộ - Order  
Họ - Family  
Tộc - Tribe  
Giống - Genus  
Loài - Species  
Tuy nhiên trong thực tiễn, để đáp ứng yêu cầu của công tác phân loại đầy đủ và chi tiết  
hơn, đôi khi người ta còn chia thêm cấp phụ hàm ý hẹp hơn (với tiếp đầu ngữ: Sub) cho một số  
cấp phân loại cơ bản như lớp phụ (Subclass), bộ phụ (Suborder), họ phụ (Subfamily), giống  
phụ (Subgenus) hoặc gộp thành cấp tổng hàm ý rộng hơn (với tiếp đầu ngữ Super) cho một số  
cấp phân loại cơ bản như tổng bộ (Superorder), tổng họ (Superfamily) v.v...  
Trong phân loại động vật nói chung và côn trùng nói riêng, loài được xem là đơn vị phân  
loại cơ bản. Tuy nhiên trong quá trình tiến hoá, để thích nghi với những điều kiện sống chuyên  
biệt, bản thân loài côn trùng đó có một số biến đổi về di truyền, hình thành nên một số đơn vị  
hẹp hơn như loài phụ (Subspecies) hoặc dạng sinh học (biotype).  
Cũng giống như mọi loài sinh vật khác, mỗi loài côn trùng sau khi được định loại đều  
mang một tên khoa học bằng tiếng Latinh theo nguyên tắc đặt tên kép do Linneaus đề xuất từ  
năm 1758.  
Gọi là tên kép vì mỗi tên khoa học bao giờ cũng gồm hai từ, từ trước chỉ tên giống, từ sau  
chỉ tên loài và một thành tố thứ ba là tên của tác giả đó định loại, đặt tên cho loài đó.  
Ví dụ tên khoa học của loài sâu xanh bướm trắng hại cải là Pieris rapae Linneaus. Như đã thấy:  
- Tên khoa học của một loài côn trùng được trình bày bằng chữ nghiêng và chỉ viết hoa  
chữ đầu tên giống,  
- Tên tác giả in chữ đứng và cũng viết hoa chữ đầu.  
18  
- Với các loài phụ, tên khoa học của chúng còn thêm từ thứ ba là tên của loài phụ, ví dụ tên  
loài phụ Nhật Bản của loài ong mật ấn Độ (Apis indica sub sp. Japonica). Riêng với những đối  
tượng côn trùng chưa xác định được tên loài thì tên khoa học của chúng chỉ có tên giống còn  
tên loài tạm thời thay bằng hai chữ sp. (viết tắt của từ loài - species). Ví dụ giống bọ xít muỗi  
Helopelthis hại chè ở miền Bắc nước ta, trước đây do chưa xác định được tên loài nên đối  
tượng này có tên khoa học là Helopelthis sp.  
Ví dụ về vị trí phân loại và tên khoa học của loài rệp bông:  
Giới động vật  
Kingdom (ANIMALIA)  
Phylum (ARTHROPODA)  
Class (INSECTA)  
Ngành chân đốt  
Lớp côn trùng  
Lớp phụ côn trùng có cánh  
Bộ Cánh đều  
Subclass (TERYGOTA)  
Order (HOMOPTERA)  
Suborder (STERNORRHYNCHA)  
Superfamily (APHIDOIDEA)  
Family (APHIDIDAE)  
Tribe (APHIDINI)  
Bộ phụ vòi ở ngực  
Tổng họ Rệp muội  
Họ Rệp muội  
Tộc Rệp muội  
Giống Rệp Aphis  
Loài Rệp bông  
Genus (Aphis)  
Species (Aphis gossypii Glover)  
2.2. KHÁI QUÁT CÁC BỘ, HỌ CÔN TRÙNG CHỦ YẾU TRONG NÔNG NGHIỆP  
Trong số 31 bộ côn trùng nêu trên, có 8 bộ gồm: Bộ Cánh thẳng, bộ Cánh tơ, bộ Cánh đều,  
bộ Cánh nửa cứng, bộ Cánh cứng, bộ Cánh vẩy, bộ Cánh màng và bộ Hai cánh có liên quan  
nhiều đến sản xuất nông nghiệp cả về mặt có hại cũng như có ích. Sau đây là đặc điểm khái  
quát của 8 bộ côn trùng chủ yếu này.  
2.2.1. Bộ Cánh thẳng (ORTHOPTERA)  
Bộ này trên thế giới có khoảng 20.000 loài ở Việt Nam đã phát hiện được 200 loài thường  
gặp ở 4 họ hại cây trồng.  
- Họ châu chấu Acrididae như: châu chấu lúa Oxya velox, Châu chấu voi Chondracrio  
rosea De Geer, Châu chấu đàn Locusta migratori Moyen.  
- Họ dế mèn Gryllidae như dế mèn hại rau đậu Gryllus testaceus.  
- Họ dễ dũi Gryllotalpidae  
- Họ sát sành Tettgonidae như sát sành xanh hại cây ăn quả Holocchlorajaponica  
* Đặc điểm : Kích thước trung bình - lớn. Râu đầu hình sợi chỉ chia nhiều đốt nhỏ. Miệng  
kiểu gặm nhai phát triển. Cánh trước hẹp dài, chất da tương đối dày; cánh sau chất màng và có  
khu mông cánh rộng, khi không bay, cánh sau xếp như quạt phía dưới cánh trước. Có một số  
loài cánh ngắn hoặc hoàn toàn không có cánh. Đốt đùi chân sau nở nang, thích hợp cho việc  
nhẩy, hoặc chân trước thích hợp cho việc đào bới. Con đực thường có thể phát ra tiếng kêu  
bằng cách hoặc là do hai cánh cọ xát nhau (Họ Dế mèn, Sát sành) hoặc do đốtt đùi chân sau cọ  
xát với cánh (một bộ phận của họ Châu chấu).  
Phần lớn côn trùng trong bộ này sống trên cạn nhưng có một số loài ưa ẩm và có tính ăn  
rộng, điển hình như Châu chấu voi (Chondracris rosea rosea Degeer) có thể ăn hại lúa, mía,  
19  
các cây họ hoà thảo khác, cây họ đậu, họ bìm bìm, họ cam quýt. Tất cả côn trùng bộ cánh thẳng  
thuộc nhóm biến thái không hoàn toàn.  
2.2.2. Bộ Cánh tơ (THYSANOPTERA)  
* Đặc điểm: Bộ này có khoảng 2.500 loài, gồm những loài cơ thể nhỏ hoặc rất nhỏ, mình  
dài, mảnh và hơi dẹp, mắt kép phát triển lồi lên rõ, mắt, miệng dũa hút, cánh hẹp dài mọc đầy  
lông dài tựa lông chim. Tính ăn thay đổi, có loài ký sinh, có loài rũa hút dịch cây, một số loài là  
i giới truyền bệnh cho cây trồng, sinh sản đơn tính hoặc lưỡng tĩnh, đẻ trứng hoặc có thể đẻ  
con, đẻ trứng vào mô cây hoặc đẻ từng quả rất bé (mắt thường khó thấy), biến thái không hoàn  
toàn. Bộ này có thể chia nhiều họ. Trong tập bài giảng này chỉ đề cập một số họ chủ yếu  
thường gặp là.  
- Họ Bọ trĩ vằn (AEOLOTHRIPIDAE) như loài bọ trĩ vằn Aeolothip fasciatus  
- Họ Bọ trĩ thường (THRIPIDAE) như loài bọ trĩ hại lúa Thrips oryzae  
- Họ Bọ trĩ ống (PHLOEOTHRIPIDAE) như bọ trĩ ống hại lúa Haplaeothrips aculeatus Fabr  
2.2.3. Bộ Cánh đều (Cánh giống) (HOMOPTERA)  
* Đặc điểm: Bộ này gồm có khoảng trên 16.000 loài, phân bố rất rộng nhất là ở những  
vùng nhiệt đới và cả ôn đới. Các loài côn trùng ở trong bộ này phần nhiều có kích thước bé  
nhỏ. Miệng kiểu chích hút. Có 2 đôi cánh bằng chất màng hoặc chất da trong mờ. Cánh sau nhỏ  
hơn cánh trước. Có loài cánh sau biến thành dạng chùy thăng bằng, chỉ còn 1 đôi cánh trước  
(rệp sáp đực). Hai đôi cánh khi không hoạt động xếp trên lưng tựa hình mái nhà. Cũng có một  
số loài không có cánh như rệp sáp, rệp muội. Ba đôi chân tương tự nhau, có loài chân trước  
biến thành kiểu đào bới, chân sau kiểu chân nhảy, thuộc nhóm biến thái không hoàn toàn (Trừ  
một số ít như các loài rệp sáp, biến thoái quá độ). Phương thức sinh sản tương đối phức tạp,  
gồm nhiều kiểu. Có loài sinh sản hữu tính đẻ trứng hoặc sinh sản đơn tính đẻ trứng hoặc đẻ ra  
con, sức sinh sản rất mạnh. Phần nhiều các loài côn trùng Bộ cánh đều sống trên cạn, chích hút  
nhựa của các bộ phận cây như hoa, lá, chồi, búp, cành, thân non... có nhiều loài như rệp muội,  
rệp sáp, bọ rầy là môi giới truyền bệnh virus cho cây trồng, đồng thời bài tiết mật tạo môi  
trường cho một số loài nấm muội đen phát triển. Bộ cánh đều được chia làm 2 bộ phụ với các  
tổng họ như sau:  
- Bộ phụ vòi ở ngực STERNORRHYNCHA (gồm các tổng họ Rệp):  
+ Tổng họ Rệp chổng cánh PSYLLOIDEA  
+ Tổng họ Rệp phấn ALEUROIDEA  
+ Tổng họ Rệp muội APHIDOIDEA  
+ Tổng họ Rệp sáp COCCOIDEA  
- Bộ phụ vòi ở đầu AUCHENORRHYNCHA (gồm các tổng họ Rầy, Ve):  
+ Tổng họ Rầy CICADELLOIDEA  
+ Tổng họ Ve sầu CICADOIDEA  
+ Tổng họ Ve bọt CERCOPOIDEA  
+ Tổng họ Ve bướm FULGOROIDEA  
2.3.4. Bộ Cánh nửa cứng (HEMIPTERA = HETEROPTERA)  
(Gồm phần lớn những loài tiết mùi hôi, thường gọi là bọ xít)  
* Đặc điểm: Bộ này có khoảng 20.000 loài. Kích thước cơ thể nhỏ hoặc trung bình. Miệng  
kiểu chích hút, vòi chia đốt nằm ở phía trước đầu giữa 2 đốt chậu chân trước. Có 2 đôi cánh,  
20  
bình thường khi không hoạt động thì xếp bằng trên lưng. Một nửa cánh trước về phía gốc bằng  
chất sừng hoặc da tương đối cứng, nửa phía ngoài bằng chất màng, một số ít loài cánh thoái  
hoá hoặc không. Chân phần nhiều có dạng chân bò, một ít loài có chân bơi. Phần lớn côn trùng  
của bộ này về phía mặt bụng của ngực gần đốt chậu chân sau có đôi lỗ tuyến hôi. Côn trùng bộ  
này thuộc về nhóm biến thái không hoàn toàn. Phần lớn sống trên cạn, có loài sống dưới nước,  
trên mặt nước. Những loài sống trên cạn có thể sinh sống trên cây hoặc dưới vỏ cây hoặc dưới  
thảm lá cây rụng hoặc trong đất. Chúng dùng vòi chích hút dịch cây gây thiệt hại trực tiếp đồng  
thời có thể truyền bệnh cho cây trồng. Tính ăn của côn trùng bộ cánh nửa cứng khá đa dạng, có  
loài ăn thực vật, có loài ký sinh động vật bậc cao như chim và động vật có vú hoặc bắt ăn các  
loài côn trùng khác. Một số loài trong bộ này có bộ phận phát ra tiếng kêu bằng cách cọ giữa  
răng dưới gốc cánh với gai ở đốt ngực sau. Bộ này có tới 40 họ, rất đa dạng về chủng loại,  
ngoài một số họ có liên quan nhiều đến nông nghiệp trình bày dưới đây còn có họ là côn trùng  
ký sinh trên người như họ Rệp giường (Cimicidae).  
- Họ Bọ xít năm cạnh (PENTATOMIDAE)  
- Họ Bọ xít tròn (PLATASPIDIAE = COPTOSOMATIDAE)  
- Họ Bọ xít mai (SCUTELLERIDAE)  
- Họ Bọ xít dài (COREIDAE)  
- Họ Bọ xít đỏ (PYRRHOCORIDAE)  
- Họ Bọ xít mù (MIRIDAE = CAPSIDAE)  
- Họ Bọ xít bắt mồi (REDUVIIDAE)  
2.2.5. Bộ Cánh cứng (COLEOPTERA)  
Bộ Cánh cứng là một bộ lớn nhất trong giới động vật có khoảng 250.000 loài, bao gồm  
nhiều loài có ích và nhiều loài có hại, phân bố khá rộng rãi.  
* Đặc điểm: Kích thước cơ thể biến động lớn. Có loài nhỏ bé 0,5 mm như côn trùng trong  
họ bộ Cánh cứng hình cầu (Corylophidae), có loài lớn tới 155 mm (như nhiều loài trong họ Bọ  
hung (Scarabaeidae), họ Xén tóc (Cerambycidae). Ngoài đôi cánh cứng điển hình, vỏ cơ thể  
của chúng phần lớn cũng hoá cứng. Miệng kiểu gặm nhai. Mắt kép hình tròn, bầu dục hoặc  
hình quả thận. Thường không có mắt đơn. Râu đầu có 10-11 đốt (ít khi quá 11 đốt). Râu đầu có  
nhiều biến dạng. Mảnh lưng ngực trước rộng. Bàn chân có từ 3 - 5 đốt. Cánh trước bằng chất  
sừng hoặc chất da cứng che phủ cơ thể thành một dạng mai cứng. Cánh sau chất màng (có một  
số loài cánh trước ngắn hoặc không có). Bộ này thuộc biến thái hoàn toàn, có tính ăn phức tạp:  
có thể ăn thịt, ăn chất mục nát, ăn phân, có loài ăn cây trồng hoặc bắt mồi ăn thịt. Dưới đây là  
một số họ chủ yếu thường gặp:  
- Họ Chân chạy (CARABIDAE)  
- Họ Hổ trùng (CICINDELIDAE)  
- Họ Cánh cộc (STAPHILINIDAE)  
- Họ Bổ củi (ELATERIDAE)  
- Họ Mọt đầu dài (BOSTRYCHIDAE)  
- Họ Mọt mỏ ngắn (IPIDAE)  
- Họ Mọt đậu (BRUCHIDAE = LARIIDAE)  
- Họ Vòi voi (CURCULIONIDAE)  
- Họ Chân bò giả (TENEBRIONIDAE)  
21  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 115 trang yennguyen 320021
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tập bài giảng Bảo vệ thực vật đại cương - Nguyễn Thị Tần", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftap_bai_giang_bao_ve_thuc_vat_dai_cuong_nguyen_thi_tan.pdf