Sự cần thiết trong việc xây dựng hướng dẫn quy trình nghiệp vụ cho kiểm toán ngân sách cấp huyện tại kiểm toán nhà nước

TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN  
Söï cAàn thIeát trOng vIeäc xAâY döïng  
höôùng dAãn quY trình nghIeäp vuï chO  
KIeåm tOAùn ngAân SAùch cAáp huYeän  
tAïI KIeåm tOAùn nhAø nöôùc  
S. TRươNG HẢI YẾN*  
S. HOÀNG CẩM Tú*  
gân sách địa phương (NSĐP) là bộ phận quan trọng của ngân sách nhà nước (NSNN) do  
các nhiệm vụ thu, chi ngân sách và các chính sách, chế độ của Nhà nước hầu hết được tổ  
chức triển khai thực hiện tại các địa phương. eo quy định hiện hành của Luật NSNN,  
N
NSĐP gồm ngân sách của các cấp chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã), trong đó  
ngân sách cấp huyện đóng vai trò quan trọng trong quản lý điều hành nguồn thu, nhiệm vụ chi của NSĐP.  
Xuất phát từ thực tế trên, việc kiểm toán NSĐP huyện là một phần không thể thiếu trong cuộc kiểm toán  
NSĐP của KTNN.  
Từ khóa: Ngân sách nha nươc, ngân sách cấp huyện, quy trình kiểm toán ngân sách cấp huyện.  
e need for the development of professional guidelines for district level budget auditing by SAV  
Local budgets are an important part of the state budget due to the state budgets revenue and expenditure  
tasks as well as the policies and regimes of the State are implemented locally. According to the current  
regulations of the State Budget Law, local budgets (provincial, district, commune) are the budget of local  
governments, with which district budget plays an important role in the management of revenue sources and  
expenditure tasks of local budget. Based on this fact, district level budget auditing is an integral part of the  
SAVs audit work.  
keywords: State budget, district budget, district budget auditing process.  
1. Sự cần thiết phải xây dựng hương dẫn riêng  
cho kiểm toán ngân sách cấp huyện  
sách trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc  
trung ương. Tăng quy mô mẫu kiểm toán về tổng  
thể và tại các đầu mối trên để đạt yêu cầu xác nhận  
tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính,  
báo cáo quyết toán ngân sách; đánh giá việc tuân  
thủ pháp luật, tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu  
quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài  
sản nhà nước theo quy định của Luật KTNN.  
Việc thực hiện kiểm toán ngân sách của các tỉnh,  
thành phố trực thuộc trung ương có ý nghĩa đặc  
biệt quan trọng trong hoạt động kiểm toán hàng  
năm của Kiểm toán nhà nước (KTNN). Điều này  
đã được khẳng định trong Chiến lược phát triển  
KTNN đến năm 2020 đã được Ủy ban ường vụ  
Quốc hội phê chun tại Nghị quyết số 927/2010/  
UBTVQH12 ngày 19/4/2010 “Phấn đấu đến năm  
2015 cơ bản tiến hành kiểm toán thường xuyên  
hàng năm các đơn vị dự toán cấp I trực thuộc ngân  
Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020 đòi  
hỏi phải đổi mới hoạt động kiểm toán của Ngành,  
đặt ra yêu cầu cấp bách trong việc xây dựng và đổi  
mới phương pháp kiểm toán, nhất là phương pháp  
*Phó Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành Ia; Phó trưởng phòng Vụ Tổng hợp  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
Số 131 - tháng 9/2018 47  
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN  
kiểm toán đối với kiểm toán báo cáo quyết toán  
ngân sách địa phương hướng đến chuyên nghiệp  
hóa hoạt động kiểm toán, nhằm giảm thiểu thời  
gian kiểm toán, tăng cường đầu mối địa phương  
được kiểm toán.  
(1) VKHKT của cuộc kiểm toán:  
- Cơ bản KHKT NSĐP địa phương của từng  
cuộc kiểm toán, trong đó có KHKT ngân sách cấp  
huyện đã bám sát hướng dẫn và định hướng của  
ngành tại các văn bản của Tổng Kiểm toán nhà  
nước về hướng dẫn nội dung, mục tiêu, phương án  
tổ chức kiểm toán từng năm.  
Trong những năm qua, KTNN cũng đã từng  
bước hoàn thiện quy trình, chun mực và các văn  
bản hướng dẫn nghiệp vụ kiểm toán. Tuy nhiên,  
việc hướng dẫn mới chỉ dừng ở các chun mực  
và các quy trình kiểm toán mang tính tổng quát  
về hoạt động kiểm toán mà chưa đưa ra được các  
hướng dẫn chi tiết, cụ thể cho từng nội dung công  
việc cần thực hiện kiểm toán, nhất là đối với kiểm  
toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo quyết toán  
NSĐP do các KTNN khu vực thực hiện. Việc thực  
hiện kiểm toán tại các cấp ngân sách, trong đó có  
ngân sách cấp huyện chủ yếu mang tính chủ quan,  
tự phát của kiểm toán viên, không đầy đủ và thiếu  
tính thống nhất.  
- Hầu hết các KTNN khu vực đã tổ chức thu  
thập thông tin cơ bản về công tác quản lý, điều  
hành và sử dụng tài chính, tài sản công; việc tổ  
chức đánh giá về hệ thống kiểm soát nội bộ, tình  
hình thanh tra, kiểm toán đối với đơn vị được kiểm  
toán đầy đủ hơn những năm trước. Trong đó, một  
số ít KHKT đã thu thập được thông tin cần thiết  
cho việc xác định trọng tâm, nội dung kiểm toán cả  
đối với ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp huyện;  
bởi vậy, việc đánh giá rủi ro, xác định trọng tâm  
kiểm toán bước đầu đã bám sát thông tin thu thập  
và mục tiêu của cuộc kiểm toán. Việc xác định mục  
tiêu kiểm toán chung cơ bản đã bám sát hướng dẫn  
của KTNN tại các công văn hướng dẫn hàng năm  
của KTNN.  
2. ực trạng kiểm toán ngân sách cấp huyện  
trong những năm gần đây  
Qua nghiên cứu các KHKT NSĐP trong các  
năm từ 2015-2017 cho thấy những kết quả đạt được  
trong kiểm toán ngân sách cấp huyện như sau:  
- Nhìn chung, nội dung kiểm toán tại ngân  
sách cấp huyện của các KHKT đã bám sát mục tiêu  
48 Số 131 - tháng 9/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
kiểm toán và thông tin thu thập được. KHKT đã  
xác định được phạm vi, giới hạn và đối tượng kiểm  
toán tại ngân sách cấp huyện phù hợp với mục tiêu,  
nội dung kiểm toán và định hướng chung của cuộc  
kiểm toán; bố trí nhân sự, thời gian kiểm toán cho  
các đơn vị, đầu mối kiểm toán chi tiết cơ bản phù  
hợp với mục tiêu, nội dung, trọng yếu kiểm toán  
đã xác định.  
các thông tin cần thiết, chủ yếu cho việc kiểm toán  
tổng hợp tại ngân sách cấp huyện thường chưa thu  
thập đầy đủ như:  
+ Số liệu và tình hình sử dụng nguồn tăng thu;  
thông tin về việc quản lý và sử dụng các chương  
trình mục tiêu quốc gia của ngân sách cấp huyện.  
+ Tình hình quản lý, mua sắm, thanh lý tài sản;  
quản lý đất đai tại cấp huyện.  
(2) Về kết quả kiểm toán  
+ Các khoản thu, chi chưa đưa vào cân đối ngân  
sách; số liệu quyết toán thu, chi ngân sách; các lưu  
ý về tình hình quyết toán ngân sách của các huyện.  
- Nhìn chung các cuộc kiểm toán đã tập trung  
thực hiện và đạt được một số mục tiêu đã xác định  
tại KHKT, cụ thể:  
+ ông tin về số liệu bổ sung cân đối, bổ sung  
có mục tiêu từ ngân sách cấp tỉnh.  
+ Đánh giá việc tuân thủ pháp luật; tính kinh  
tế, hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân  
sách, tiền và tài sản nhà nước tại các huyện được  
kiểm toán. Một số BCKT đã xác nhận được tính  
đúng đắn, trung thực, hợp lý của báo cáo quyết  
toán ngân sách cấp huyện.  
+ ông tin về số liệu nợ đọng XDCB thời điểm  
cuối năm liền kề niên độ được kiểm toán để làm cơ  
sở đánh giá tình hình bố trí vốn đầu tư để thanh  
toán nợ đọng cho các dự án hoàn thành và nợ đọng  
khối lượng hoàn thành; thông tin về kế hoạch vốn  
(bố trí cho các dự án khởi công mới, chuyển tiếp,  
hoàn thành), điều chỉnh vốn đầu tư của ngân sách  
huyện; tình hình thực hiện vốn đầu tư của ngân  
sách cấp huyện.  
+ Chỉ ra một số sai phạm để kiến nghị với đơn  
vị được kiểm toán chấn chỉnh công tác quản lý tài  
chính - kế toán, hoạt động của đơn vị và biện pháp  
khắc phục những tồn tại được phát hiện thông qua  
kiểm toán.  
+ Chưa thu thập đầy đủ về thông tin về tình  
hình thanh tra, kiểm tra tại các huyện.  
+ Phát hiện một số hành vi lãng phí và sai phạm  
trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản  
nhà nước tại các đơn vị sử dụng ngân sách, cấp  
ngân sách; xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá  
nhân, kiến nghị xử lý vi phạm theo quy định của  
pháp luật.  
- Nhiều KHKT còn thu thập thiếu các thông  
tin về các đơn vị, đầu mối chọn kiểm toán như:  
ông tin về các dự án đầu tư chọn kiểm toán tại  
ngân sách cấp huyện (số lượng dự án, tên dự án,  
tình hình thanh tra, kiểm toán, thông tin về tình  
hình thực hiện vốn đầu tư). Đặc biệt là hầu hết các  
KHKT không có thông tin về các xã, các đơn vị dự  
toán, đơn vị sự nghiệp thuộc cấp huyện dự kiến  
chọn kiểm toán. Do đó, việc chọn đầu mối, đơn  
vị kiểm toán thường không đảm bảo tiêu chí chọn  
trên cơ sở thông tin thu thập mà thường chọn ngẫu  
nhiên hoặc theo tiêu chí số lớn.  
- Một số BCKT đã có phát hiện kiểm toán về  
việc quản lý, đất đai, khai thác tài nguyên khoáng  
sản tại các huyện được kiểm toán... Trên cơ sở đó,  
BCKT đã đưa ra nhiều kiến nghị đối với UBND  
tỉnh, các đơn vị được kiểm toán để chấn chỉnh,  
khắc phục những hạn chế, sai sót trong quản lý, sử  
dụng tài chính tài sản công.  
Bên cạnh đó, quá trình thực hiện kiểm toán  
ngân sách cấp huyện trong cuộc kiểm toán ngân  
sách địa phương còn một số hạn chế sau:  
- u thập thông tin chưa chính xác: Một số  
KHKT thu thập chưa chính xác tên hoặc các thông  
tin về các ban quản lý dự án đầu tư; tên các dự án  
đầu tư; tên của các đơn vị kiểm toán khác dẫn đến  
trong quá trình thực hiện kiểm toán phải bổ sung,  
điều chỉnh phạm vi kiểm toán. Ngoài ra, một số  
(1) Vkhảo sát và thu thập thông tin  
- Tại KHKT của cuộc kiểm toán NSĐP, các thông  
tin về ngân sách cấp huyện thường mờ nhạt, sơ sài;  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
Số 131 - tháng 9/2018 49  
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN  
trên cơ sở phân tích thông tin thu thập nên dẫn đến  
còn chung chung hoặc dàn trải.  
KHKT thu thập chưa chính xác thông tin về tài  
chính, ngân sách của địa phương dẫn đến việc xác  
định trọng tâm, nội dung kiểm toán chưa chính xác.  
ực tiễn cho thấy nhiều Đoàn kiểm toán thu thập  
thông tin về tiến độ, khối lượng hoàn thành của Dự  
án đầu tư tại ngân sách cấp huyện chưa chính xác  
nên thực tế triển khai kiểm toán phải điều chỉnh  
nhiều do dự án chưa có khối lượng nghiệm thu  
hoặc khối lượng nghiệm thu thấp.  
- Chưa tập trung cho việc kiểm toán xác nhận  
quyết toán ngân sách huyện; chưa xác định trọng  
yếu, trọng tâm kiểm toán tại mỗi đơn vị được kiểm  
toán của ngân sách cấp huyện; xác định rủi ro kiểm  
toán tại nhiều KHKT còn chưa phù hợp; còn nhầm  
lẫn giữa rủi ro và nội dung, trọng yếu kiểm toán...  
- Việc xác định trọng tâm, mục tiêu, nội dung  
kiểm toán trong KHKT của một số cuộc kiểm toán  
chủ yếu dựa vào hướng dẫn chung của ngành, dẫn  
đến nhiều trọng tâm, nội dung kiểm toán không  
phù hợp với thực tế, không phát sinh ở ngân sách  
cấp huyện (như vay nợ chính quyền địa phương,  
ứng trước ngân sách trung ương, sử dụng quỹ tích  
lũy trả nợ...).  
Ngoài ra, do công tác lập KHKT năm chưa tốt  
nên chưa có đầy đủ thông tin để lập KHKT chi tiết  
của các tổ kiểm toán tại cấp huyện theo quy định  
của Ngành. Việc lập KHKT chi tiết trước khi ban  
hành quyết định kiểm toán thường chỉ là hình thức  
thủ tục và sau khi triển khai kiểm toán, các tổ mới  
điều chỉnh và có KHKT chính thức gửi lại Vụ Chế  
độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán; trưởng đoàn  
kiểm toán... theo quy định, trong đó, hầu hết các  
thông tin trên KHKT phải điều chỉnh như: Trọng  
tâm, nội dung kiểm toán, phạm vi, giới hạn kiểm  
toán, thời gian kiểm toán (thời điểm triển khai và  
thời gian thực hiện của tổ kiểm toán tại ngân sách  
cấp huyện); số lượng kiểm toán viên bố trí cho mỗi  
tổ kiểm toán, đoàn kiểm toán.  
(3) Về mục tiêu kiểm toán  
Do kiểm toán ngân sách cấp huyện được lồng  
ghép trong ngân sách địa phương các tỉnh thành  
phố nên mục tiêu kiểm toán của ngân sách cấp  
huyện được thể hiện (nằm trong) mục tiêu chung  
của cuộc kiểm toán. Tuy nhiên, tại một số KHKT  
có phạm vi và đặc thù riêng (kiểm toán theo chủ  
đề) được triển khai kiểm toán tại ngân sách cấp  
huyện, các đoàn cũng chưa xác định mục tiêu kiểm  
toán cụ thể có liên quan.  
(2) Vxác định trọng tâm, trọng yếu và rủi ro  
kiểm toán  
- Do thiếu thông tin của ngân sách cấp huyện  
nên hầu hết các cuộc kiểm toán không tập trung  
nghiên cứu, phân tích thông tin thu thập để xác  
định trọng tâm kiểm toán cho ngân sách cấp  
huyện. Vấn đề này gần như bị lãng quên, các đoàn  
kiểm toán chỉ tập trung xác định trọng tâm kiểm  
toán cho ngân sách cấp tỉnh. Đặc biệt là các trọng  
tâm trong kiểm toán việc lập, giao dự toán đầu  
năm, điều chỉnh trong năm, nhất là công tác lập,  
thm định và phê duyệt chủ trương đầu tư, bố trí  
kế hoạch vốn đầu tư và việc sử dụng nguồn của  
ngân sách cấp huyện hay việc điều hành ngân sách  
huyện trong điều kiện hụt thu.  
(4) Vnội dung kiểm toán  
- Do chưa có hướng dẫn riêng cho ngân sách  
cấp huyện nên tại các KHKT việc trình bày nội  
dung kiểm toán tại ngân sách cấp huyện còn chưa  
thống nhất, như: có KHKT không trình bày riêng  
nội dung kiểm toán tại ngân sách cấp huyện mà  
chỉ nêu chung theo nguyên tắc “Đoàn kiểm toán  
sẽ bám sát Đề cương kiểm toán Ngân sách địa  
phương năm 2015 để thực hiện. Những nội dung  
không phát sinh sẽ được trình bày trong kế hoạch  
kiểm toán chi tiết” hoặc có KHKT trình bày các nội  
dung kiểm toán tại cấp huyện nhưng các nội dung  
kiểm toán không đầy đủ khi kiểm toán tại các đơn  
vị kiểm toán tổng hợp và đơn vị kiểm toán chi tiết.  
- Phần trình bày trọng tâm kiểm toán đối với  
kiểm toán tổng hợp của ngân sách cấp huyện được  
các đoàn xác định trên cơ sở các nội dung kiểm  
toán tổng hợp của ngân sách cấp tỉnh mà không  
- Chưa quan tâm thực hiện kiểm toán để xác  
nhận quyết toán ngân sách địa phương nói chung  
50 Số 131 - tháng 9/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
và ngân sách cấp huyện nói riêng. Do đó, KHKT  
chưa trình bày các nội dung kiểm toán tương ứng  
để xác nhận quyết toán ngân sách cấp huyện.  
- Xác định nội dung kiểm toán chưa phù hợp  
với thông tin thu thập hoặc xác định nội dung kiểm  
toán nhưng không có thông tin.  
- Xác định thiếu nội dung kiểm toán tương ứng  
với các trọng tâm kiểm toán đã xác định hoặc trọng  
tâm kiểm toán cần bổ sung theo ý kiến thm định  
của các Vtham mưu, nhất là đối với các chuyên  
đề, chủ đề kiểm toán tại ngân sách cấp huyện.  
(5) Về phạm vi kiểm toán  
- Việc lựa chọn đầu mối, đơn vị kiểm toán tại  
cấp huyện của hầu hết các KHKT còn chưa cụ thể;  
chưa dựa trên cơ sở yêu cầu, mục tiêu, trọng yếu,  
nội dung của cuộc kiểm toán tại cấp huyện. Tại  
KHKT của đoàn kiểm toán chỉ xác định:  
- Một số nội dung kiểm toán chưa được cụ thể  
hóa nhất là các nội dung kiểm toán tổng hợp tại  
ngân sách cấp huyện, nội dung trình bày còn quá  
ngắn gọn, sơ sài và chưa hướng dẫn cụ thể các  
bước để thực hiện nội dung kiểm toán tổng hợp.  
Nội dung kiểm toán xác định còn chung chung nên  
chưa giúp cho các tổ kiểm toán, các kiểm toán viên,  
nhất là kiểm toán viên mới vào nghề định hướng,  
triển khai trong quá trình thực hiện kiểm toán.  
+ Số lượng đơn vị dự toán cấp huyện, số lượng  
xã mà Đoàn kiểm toán dự kiến sẽ chọn kiểm toán  
chi tiết.  
+ Số lượng mẫu chọn (trong khoảng nào đó)  
các dự án kiểm toán chi tiết (từ năm 2016 trở về  
trước) hoặc danh mục các dự án kiểm toán chi tiết  
(đối với năm 2017).  
Bên cạnh đó, một số KHKT của Đoàn kiểm  
toán cũng không nêu số lượng mẫu chọn cụ thể để  
kiểm toán chi tiết các đơn vị dự toán và các xã mà  
chỉ xác định chung chung “chọn một số đơn vị dự  
toán cấp huyện và một số xã để kiểm toán chi tiết”  
và trình bày theo nguyên tắc “Việc lựa chọn kiểm  
toán chi tiết tại các huyện, Kiểm toán trưởng quyết  
định trên cơ sở đề nghị của Trưởng đoàn kiểm  
- Chưa xác định nội dung kiểm toán cụ thể cho  
mỗi đơn vị, đầu mối được kiểm toán tại huyện. Một  
số KHKT không xác định đầy đủ nội dung kiểm  
toán của chuyên đề, chủ đề trong cuộc kiểm toán  
mà phạm vi kiểm toán được xác định là kiểm toán  
tại các huyện. Tại các Ban quản lý dự án cấp huyện,  
hầu hết các KHKT không xác định nội dung kiểm  
toán tổng hợp.  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
Số 131 - tháng 9/2018 51  
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN  
toán, báo cáo Lãnh đạo Kiểm toán nhà nước phụ  
trách và chịu trách nhiệm trước Tổng Kiểm toán  
nhà nước về quyết định của mình theo hướng dẫn  
của KTNN.  
- Còn tình trạng phân công công việc cho các  
kiểm toán viên chưa hợp lý, còn chồng chéo, chưa  
phù hợp với năng lực, sở trường...  
(7) Về kết quả kiểm toán  
Ngoài ra, nhiều đoàn kiểm toán không kiểm  
toán chi tiết mà chỉ xác định đối chiếu tại các đơn  
vị này khi kiểm toán tại ngân sách cấp huyện.  
- Kết quả kiểm toán ngân sách cấp huyện trình  
bày tại BCKT của Đoàn kiểm toán khá mờ nhạt,  
còn sơ sài, chưa đầy đủ, cụ thể, thiếu những nhận  
định sâu sắc hoặc kết quả kiểm toán không có tính  
xâu chuỗi, liên kết nên đánh giá, nhận xét từ kết quả  
kiểm toán chưa khái quát được những ưu điểm và  
hạn chế trong điều hành ngân sách của các huyện  
thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được  
kiểm toán.  
- Tại các KHKT chi tiết của Tkiểm toán, việc  
lựa chọn đơn vị, đầu mối kiểm toán tại huyện cũng  
chưa có tiêu chí, cụ thể, rõ ràng. ông thường, việc  
lựa chọn đơn vị kiểm toán theo phương pháp chọn  
mẫu luân phiên, số lớn thường căn cứ vào quy mô  
kinh phí sử dụng (đối với đơn vị dự toán và các xã)  
mà chưa lượng hóa được tính chất, mức độ phức  
tạp của loại hình hoạt động, quản lý để xây dựng  
tiêu chí cho việc lựa chọn đơn vị, đầu mối kiểm  
toán hoặc lựa chọn các đơn vị chưa được kiểm toán  
những năm gần đây.  
- Các phát hiện kiểm toán của các tổ kiểm toán  
tại huyện nhiều khi còn mang tính đơn lẻ, chưa đi  
sâu đánh giá cùng một vấn đề dẫn đến các phát  
hiện kiểm toán trình bày trên BCKT còn dàn trải  
hoặc vụn vặt, thiếu khái quát.  
- Một số tổ kiểm toán còn kiểm toán chi phí  
quyết toán các dự án đầu tư tại Phòng Tài chính  
- Kế hoạch trong khi về cơ sở pháp luật, việc thực  
hiện kiểm toán chi phí quyết toán các dự án đầu tư  
tại Phòng Tài chính - Kế hoạch còn vướng mắc và  
KTNN chưa có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.  
- Một số đánh giá, nhận xét tại BCKT thiếu bằng  
chứng, hoặc bằng chứng không cụ thể, không rõ  
ràng nên thiếu tính thuyết phục. Nhiều kiến nghị  
kiểm toán còn vụn vặt hoặc thiếu cơ sở do không  
đầy đủ bằng chứng.  
Nguyên nhân của những hạn chế:  
(6) Vbố trí nhân sự và thời gian kiểm toán  
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân như:  
Chất lượng kiểm toán viên, chất lượng quản lý, chỉ  
đạo hoạt động kiểm toán, chất lượng hiệu quả hoạt  
động kiểm soát chất lượng kiểm toán, hệ thống văn  
bản quy phạm pháp luật... Trong giới hạn nghiên  
cứu của bài viết, tác giả đưa ra một số nguyên nhân  
chủ yếu sau:  
- Cho đến nay, hầu hết các đoàn kiểm toán chưa  
tập trung bố trí nhân sự để kiểm toán tại các cơ  
quan quản lý tài chính tổng hợp của huyện trong  
khi đây là nội dung kiểm toán quan trọng khi kiểm  
toán ngân sách cấp huyện. Bên cạnh đó, nhiều  
đoàn kiểm toán chưa bố trí thời gian, nhân sự thỏa  
đáng cho kiểm toán xác nhận quyết toán ngân sách  
huyện mà chủ yếu dành nhiều thời gian, nhân lực  
cho kiểm toán tại các đầu mối, đơn vị kiểm toán  
chi tiết (một số Đoàn kiểm toán còn tập trung bố  
trí nhân lực và thời gian chủ yếu cho kiểm toán chi  
tiết các dự án đầu tư).  
(1) Vchỉ đạo, lãnh đạo trong xây dựng KHKT:  
Việc xây dựng KHKT của một số đoàn kiểm toán  
còn mang tính hình thức, chưa thật sự coi KHKT là  
tiền đề quan trọng không thể thiếu của cuộc kiểm  
toán, nhất là việc xây dựng KHKT chi tiết. Một vài  
Lãnh đạo Đoàn kiểm toán, lãnh đạo KTNN khu  
vực chưa quan tâm, coi trọng đúng mức đối với  
công tác xây dựng KHKT của Đoàn kiểm toán nói  
chung và KHKT chi tiết của tổ kiểm toán nói riêng  
nên dẫn đến thiếu sự chỉ đạo, điều hành kịp thời  
hoặc chưa đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi đối với các  
- Bố trí nhân sự không phù hợp với khối lượng  
công việc, phạm vi kiểm toán của tổ kiểm toán,  
đặc biệt khi có các chủ đề kiểm toán lồng ghép tại  
huyện mà bố trí chủ yếu trên cơ sở nhân sự hiện có  
của các tổ, đoàn kiểm toán.  
52 Số 131 - tháng 9/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
kiểm toán viên trực tiếp thực hiện công tác khảo  
sát, thu thập thông tin và xây dựng KHKT trong  
việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng KHKT; còn  
thiếu kiên quyết trong chỉ đạo hoàn thiện, chỉnh  
sửa KHKT.  
quả kiểm toán cả về số lượng và chất lượng trong  
thời gian qua, nhất là việc bố trí thời gian, nhân  
sự không thỏa đáng (do cùng lúc triển khai nhiều  
đoàn kiểm toán, trong điều kiện nhân sự của phần  
lớn các KTNN khu vực còn hạn chế nên nhân sự  
bố trí để thực hiện kiểm toán tổng hợp của nhiều  
đoàn kiểm toán còn khá mỏng và chưa đảm bảo  
về chất lượng) là một trong những nguyên nhân  
chính dẫn đến các nội dung kiểm toán tổng hợp  
tại các cơ quan trên không được thực hiện đầy đủ  
hoặc không đảm bảo chất lượng, một số phát hiện  
kiểm toán không được xem xét một cách thấu đáo.  
(2) Chưa dành thời gian thỏa đáng cho việc  
khảo sát, thu thập thông tin và lập KHKT dẫn đến  
thông tin thu thập không đầy đủ, thiếu kỹ càng;  
không có đủ thời gian cho việc nghiên cứu thông  
tin, đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm toán. ời gian  
khảo sát, thu thập thông tin và lập KHKT của các  
cuộc kiểm toán thường từ 7 đến 20 ngày; thời gian  
kiểm toán thường từ 60 đến 90 ngày tùy quy mô  
và nhân sự của cuộc kiểm toán. Trong khi trên thế  
giới, hầu hết các nước dành thời gian chủ yếu cho  
công tác xây dựng KHKT, thời gian dành cho công  
tác kiểm toán không nhiều. Các KTNN khu vực  
chưa có bộ phận chuyên trách về công tác kế hoạch  
kiểm toán, lực lượng cán bộ kiểm toán viên lập  
KHKT thiếu chuyên nghiệp, trình độ, năng lực còn  
hạn chế chưa đồng đều; kỹ năng phân tích, tổng  
hợp đánh giá các thông tin thu thập chưa cao. Việc  
lập KHKT chi tiết cho các tổ kiểm toán ngân sách  
cấp huyện thường giao cho Đoàn khảo sát hoặc  
các tổ trưởng dự kiến thực hiện. Trường hợp giao  
cho đoàn khảo sát thực hiện thì thường dẫn đến  
KHKT chi tiết còn sơ sài, hình thức, bố trí nhân sự  
không phù hợp với năng lực và tính chất công việc  
được giao; lựa chọn các đơn vị, đầu mối kiểm toán  
chưa kỹ càng, không phù hợp với mục tiêu, trọng  
tâm của cuộc kiểm toán. Trường hợp giao cho các  
tổ trưởng tổ kiểm toán dự kiến thì KHKT chi tiết  
lập thường không thống nhất giữa các tổ; xác định  
trọng tâm, nội dung, phạm vi kiểm toán không dựa  
trên cơ sở thông tin đã thu thập; nội dung kiểm  
toán không thống nhất, không đầy đủ theo yêu  
cầu. Nhìn chung, với cả 2 trường hợp trên thì việc  
xác định trọng yếu, trọng tâm, nội dung kiểm toán  
thường mang tính kế thừa của các cuộc kiểm toán  
thực hiện trước, thiếu tính sáng tạo trong điều kiện  
cụ thể của cuộc kiểm toán.  
(3) Chưa có hướng dẫn riêng cho kiểm toán  
ngân sách cấp huyện, nhất là việc thực hiện kiểm  
toán các nội dung tại các cơ quan tổng hợp của  
huyện dẫn đến các tổ kiểm toán không thực hiện  
đầy đủ các nội dung kiểm toán theo yêu cầu. Việc  
chỉ xác định đối chiếu tại các đơn vị dự toán và  
các xã của nhiều đoàn kiểm toán nhưng không  
xác định đúng trọng tâm cần đi sâu đã phần nào  
làm hạn chế chất lượng kiểm toán ngân sách cấp  
huyện do không có điều kiện đi sâu kiểm toán  
nhiều nội dung.  
(4) Ngoài ra, do việc kiểm toán ngân sách cấp  
huyện chưa được chú trọng, thực hiện trong cuộc  
kiểm toán ngân sách địa phương mà tập trung  
chủ yếu là kiểm toán tại ngân sách cấp tỉnh nên  
phần nhiều dung lượng của BCKT được trình  
bày cho kết quả kiểm toán ngân sách cấp tỉnh mà  
ít đề cập đến kết quả kiểm toán của ngân sách  
cấp huyện.  
3. Giải pháp  
Một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục hạn  
chế, nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán  
trong thực hiện kiểm toán ngân sách cấp huyện của  
các KTNN khu vực cụ thể như sau:  
(1) Xây dựng hướng dẫn riêng cho kiểm toán  
ngân sách cấp huyện nhất là việc thực hiện kiểm  
toán các nội dung tại các cơ quan tổng hợp của  
huyện, trong đó chỉ rõ tài liệu cần thu thập, nội  
dung, thủ tục kiểm toán mà kiểm toán viên cần  
thực hiện tại từng đơn vị thuộc cấp huyện (Phòng  
Tài chính - Kế hoạch; Chi cục uế; Ban quản lý dự  
Những hạn chế trong khâu xây dựng KHKT của  
đoàn kiểm toán nói chung và KHKT chi tiết nói  
riêng như đã nêu trên đã ảnh hưởng nhiều đến kết  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
Số 131 - tháng 9/2018 53  
pdf 7 trang yennguyen 19/04/2022 2760
Bạn đang xem tài liệu "Sự cần thiết trong việc xây dựng hướng dẫn quy trình nghiệp vụ cho kiểm toán ngân sách cấp huyện tại kiểm toán nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfsu_can_thiet_trong_viec_xay_dung_huong_dan_quy_trinh_nghiep.pdf