Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Trịnh Hồng Hạnh  
Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng  
Ngày nhận: 04/03/2021  
Ngày nhận bản sửa: 14/04/2021  
Ngày duyệt đăng: 19/05/2021  
Tóm tắt: Kế toán giá trị hợp lý trong ngân hàng là thực sự cần thiết bởi đối tượng  
kế toán ngân hàng chủ yếu là các công cụ tài chính mà giá trị của chúng thường  
xuyên biến động theo giá thị trường. Các ngân hàng cần công bố thông tin về các  
đối tượng kế toán theo nguyên tắc giá trị hợp lý thay vì nguyên tắc giá gốc để phản  
ánh đúng giá trị thực của chúng, đảm bảo cho các thông tin được cung cấp một  
cách trung thực, hợp lí, minh bạch hơn, giúp cho những người sử dụng thông tin có  
hiệu quả hơn. Cùng với xu hướng hội nhập kế toán quốc tế, việc áp dụng kế toán giá  
trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam là một xu  
thế tất yếu. Dựa trên tổng quan nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng  
kế toán giá trị hợp lý, bài viết xây dựng mô hình nghiên cứu, khảo sát thực tế, phân  
tích thống kê cho kết quả xác định 05 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng kế  
Resolution for applying fair value accounting according to international standards at  
Vietnamese commercial banks  
Abstract: Fair value (FV) accounting in banks is really necessary because the object of banking  
accounting is mainly financial instruments whose values fluctuate according to market prices. Banks  
need to disclose information about the accounting objects on the principle of fair value instead of the  
original price principle to accurately reflect their true value, ensuring that the information is provided  
in an honest and reasonable manner, more transparently, to help people use information more  
effectively. Along with the trend of international accounting integration, the application of standardized  
accounting according to international standards at Vietnamese commercial banks is an inevitable  
trend. Based on a research overview of factors affecting the application of FV accounting, the article  
builds research models, actual surveys, and through that statistical analysis results have identified 5  
groups of factors affects the application of FV accounting of Vietnamese commercial banks, including:  
perceptions of the benefits and disadvantages of FV, legal environment, professional environment,  
business environment and economic environment. This is the basis for proposing solutions to apply  
international standard FV accounting at Vietnamese commercial banks in the coming time.  
Keywords: international accounting standards, fair value accounting, commercial bank.  
Hanh Hong Trinh  
Email: hanhth@hvnh.edu.vn  
Faculty of Banking, Banking Academy of Vietnam  
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng  
Số 228- Tháng 5. 2021  
© Học viện Ngân hàng  
38  
ISSN 1859 - 011X  
TRỊNH HỒNG HẠNH  
toán giá trị hợp lý của các ngân hàng thương mại Việt Nam bao gồm: cảm nhận về  
lợi ích và bất lợi của giá trị hợp lý, môi trường pháp luật, môi trường nghề nghiệp,  
môi trường kinh doanh và môi trường kinh tế. Đây là cơ sở đề xuất giải pháp áp  
dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại các ngân hàng thương mại  
Việt Nam trong thời gian tới.  
Từ khóa: chuẩn mực kế toán quốc tế, kế toán giá trị hợp lý, ngân hàng thương mại.  
1. Giới thiệu  
Việt Nam (VAS) thì họ cũng lập thêm  
BCTC theo IFRS. Tuy nhiên BCTC theo  
IFRS không được các ngân hàng công bố  
rộng rãi.  
Kế toán giá trị hợp lý (GTHL) đã được thực  
hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới với việc  
áp dụng chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc  
tế (IFRS) về GTHL theo những cách thức  
khác nhau, nhằm phát huy những lợi ích của  
nó đối với các quốc gia, các cơ quan quản  
lý cũng như các nhà đầu tư. Ở Việt Nam,  
kế toán GTHL bước đầu đã được áp dụng,  
và lần đầu tiên Luật Kế toán (sửa đổi) số  
88/2015/QH13 được Quốc hội thông qua  
ngày 20/11/2015 đã quy định về GTHL,  
thể hiện xu hướng và sự cần thiết của vấn  
đề này. Việc áp dụng kế toán GTHL tại các  
ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam  
cũng đã bước đầu được thực hiện thông qua  
hướng dẫn chế độ kế toán của Ngân hàng  
Nhà nước Việt Nam (NHNN), tuy nhiên so  
với chuẩn mực kế toán quốc tế thì vẫn còn  
nhiều hạn chế. Mặc dù chưa phải là một  
yêu cầu bắt buộc theo luật và quy định của  
Việt Nam, tuy nhiên, một số NHTM thuộc  
top đầu đã và đang thực hiện lập báo cáo  
tài chính (BCTC) theo IFRS (trong đó có  
sử dụng GTHL để công bố thông tin về tài  
sản, nợ phải trả của ngân hàng) do nhu cầu  
tự thân như: họ cần nộp BCTC được lập  
theo IFRS cho Ngân hàng Thế giới (WB),  
các tổ chức tài chính quốc tế, hay nhà đầu  
tư nước ngoài để được vay vốn, hoặc để  
phục vụ cho mục đích xếp hạng tín nhiệm.  
Nhiều ngân hàng cũng muốn quản trị rủi  
ro tốt hơn, theo thông lệ quốc tế, nên ngoài  
việc lập BCTC theo Chuẩn mực Kế toán  
Theo khảo sát của tác giả, tính đến năm  
2019 mới có khoảng 20% ngân hàng đã và  
đang lập BCTC theo IFRS, trong đó chủ  
yếu là các ngân hàng thuộc nhóm 10 ngân  
hàng được NHNN lựa chọn thực hiện thí  
điểm Basel 2 như: VCB, BIDV, Vietinbank,  
Sacombank, VIB, MB, Techcombank, VP  
Bank, Maritimebank, ACB… Hầu hết các  
ngân hàng mới chỉ lập BCTC theo IFRS  
trên cơ sở chuyển đổi BCTC theo VAS  
sang và có sự hỗ trợ chuyển đổi thủ công  
của công ty kiểm toán. Ở phương diện nào  
đó, khi các nhà đầu tư nước ngoài tiếp xúc  
thì đây cũng là sự hạn chế bởi nhà đầu tư  
mong muốn các ngân hàng có BCTC theo  
chuẩn quốc tế do chính ngân hàng thực  
hiện chế độ kế toán theo chuẩn quốc tế, chứ  
không phải đơn thuần là công tác chuyển  
đổi BCTC vào cuối năm. Hơn nữa việc  
chuyển đổi các khoản mục của BCTC theo  
VAS sang IFRS chủ yếu là thực hiện các  
bút toán phân loại lại, điều chỉnh giá trị các  
khoản mục theo đúng phương pháp kế toán  
quy định ở các chuẩn mực kế toán quốc  
tế, chưa sử dụng GTHL trong đánh giá sự  
suy giảm giá trị của tài sản, việc đánh giá  
lại GTHL của các khoản mục tài sản và nợ  
phải trả chưa được thực hiện đầy đủ theo  
đúng chuẩn mực quốc tế.  
Mặc dù số lượng các ngân hàng tự nguyện  
áp dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực  
Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng  
39  
Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại  
các ngân hàng thương mại Việt Nam  
quốc tế còn ít, song điều đó cũng thể hiện  
các ngân hàng đã dần nhận thấy việc áp  
dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc  
tế là cần thiết. Vì vậy vấn đề Bài viết đặt ra  
và giải quyết là cần đưa ra giải pháp nhằm  
áp dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực  
quốc tế tại các NHTM Việt Nam trong thời  
gian tới, trên cơ sở xác định các nhân tố và  
mức độ ảnh hưởng của chúng đến việc áp  
dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc  
tế tại các NHTM Việt Nam.  
mức độ phát triển của nghề kế toán. Sự phát  
triển của nghề kế toán là một khái niệm  
rộng. Nó có thể được đo bằng nhiều cách,  
trong đó, các chỉ số quan trọng là: Sự hiện  
diện và tầm quan trọng của các hiệp hội  
nghề nghiệp (Askary, 2006), mức độ đầy  
đủ của của các chứng chỉ kế toán (Chen và  
cộng sự, 2002; Spathis và Geograkopoulou,  
2007; và Lundqvist và cộng sự, 2008), và  
sự sự ủng hộ pháp luật và điều lệ quy tắc  
(Ashraf và Ghani, 2005).  
c. Môi trường kinh doanh  
2. Tổng quan nghiên cứu các nhân tố  
ảnh hưởng đến việc áp dụng các chuẩn  
mực kế toán quốc tế  
Môi trường kinh doanh xác định mức độ,  
hình thức và nội dung thông tin cần thiết  
và do đó giúp định hình các quy tắc và thực  
tiễn khung BCTC. Hung và Subramanyam  
(2007), Floropoulos (2006) chỉ ra một số  
yếu tố đáng chú ý trong môi trường kinh  
doanh: Đặc điểm của công ty; Mức độ phát  
triển thị trường vốn; và Loại hệ thống tài  
chính hiện tại.  
Các nghiên cứu trên thế giới cũng đề cập  
đến các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp  
dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế nói  
chung và kế toán GTHL nói riêng. Nhìn  
chung, phần lớn các nhân tố này có liên  
quan đến các yếu tố môi trường, bao gồm  
những nhân tố sau:  
d. Môi trường kinh tế  
Nhiều nghiên cứu đều khẳng định môi  
trường kinh tế có ảnh hưởng quan trọng  
đến các khung BCTC. Môi trường kinh tế  
cung cấp các cấu trúc xác định thông tin  
cần được báo cáo. Các yếu tố kinh tế chính  
ảnh hưởng đến sự phát triển của các khung  
BCTC là: Cổ phần hoá (Ashraf và Ghani,  
2005); Mở cửa kinh tế (Irvine và Lucas,  
2006 và Irvine, 2008); Giai đoạn phát triển  
kinh tế (Archambault và Archambault,  
2003); và Thương mại quốc tế (Irvine,  
2008).  
a. Môi trường pháp lý và thuế  
Môi trường pháp lý và thuế có ảnh hưởng  
trực tiếp đến cách thức quản lý kế toán.  
Chand và Patel (2008) khẳng định rằng các  
chuẩn mực và thực hành kế toán hiện hành  
được thiết lập theo truyền thống. Chúng có  
ảnh hưởng quan trọng đến quá trình hội tụ  
với chuẩn mực BCTC quốc tế. Lundqvist  
và các cộng sự (2008) bổ sung thêm rằng  
các phương pháp kế toán hiện hành có thể  
dẫn đến áp dụng sai các chuẩn mực.  
Môi trường thuế cũng có tác động đến  
khung BCTC. Francis và các cộng sự  
(2002) chỉ ra rằng: ở các nước Anglo-  
Saxon (như Anh) chính sách kế toán có thể  
bị ảnh hưởng trong một số lĩnh vực nhất  
định bởi thuế; ở các nước châu Âu lục địa  
(như Đức), có một liên kết ràng buộc toàn  
diện giữa thuế và các quy tắc kế toán.  
b. Môi trường nghề nghiệp  
e. Môi trường quốc tế  
Môi trường quốc tế có thể đóng góp rất  
nhiều trong việc định hình các đặc điểm của  
khung BCTC, đặc biệt là ở các nước đang  
phát triển. Kế toán ở một quốc gia cụ thể  
có thể được phát triển là kết quả của sự gia  
nhập của đất nước vào cộng đồng quốc tế.  
Chand và Patel (2008) nhận thấy rằng sự  
hiện diện của các công ty kế toán quốc tế là  
một trong những thuộc tính ảnh hưởng đến  
Chất lượng của BCTC bị ảnh hưởng bởi  
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021  
40  
TRỊNH HỒNG HẠNH  
sự hội tụ với IFRS. Trong bối cảnh tương  
tự, Irvine và Lucas (2006) và Irvine (2008)  
cho rằng việc áp dụng IFRS của UAE được  
lấy cảm hứng từ các công ty kế toán quốc  
tế. Joshi và Ramadhan (2002) và Joshi và  
các cộng sự (2008) cũng xác nhận điều này  
cho Bahrain.  
giải pháp phù hợp, khả thi nhằm áp dụng  
kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc tế tại  
các NHTM Việt Nam trong thời gian tới .  
3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu  
3.1. Phương pháp nghiên cứu  
f. Yếu tố văn hoá - tâm lý  
Một số lượng đáng kể các nghiên cứu đã  
đề cập đến mối quan hệ giữa khung BCTC  
và môi trường văn hóa. Các nghiên cứu  
được biết đến rộng rãi nhất là bởi Hofstede  
(1980, 1983, và 1984) và Gray (1988).  
Hai tác giả đã đề xuất các mô hình liên  
kết giá trị văn hóa với khung BCTC của  
một quốc gia. Perera và Baydoun (2007)  
tuyên bố rằng ngành kế toán của Indonesia  
nhiều khả năng xếp hạng cao trên cả khía  
cạnh thận trọng và bí mật, dựa trên mức độ  
chuyên nghiệp thấp và khoảng cách quyền  
lực lớn ở Indonesia. Điều này dẫn đến mức  
độ minh bạch thấp trong các BCTC.  
Các nghiên cứu trong nước về GTHL chủ  
yếu là những nghiên cứu về sự ủng hộ áp  
dụng GTHL tại các doanh nghiệp, có thể  
kể đến là các nghiên cứu của các tiến sĩ,  
các nhà khoa học Việt Nam như: Nguyễn  
Thế Lộc (2010), Mai Ngọc Anh (2010),  
Lê Hoàng Phúc (2012), Hà Thị Ngọc Hà  
(2016) và một số các nghiên cứu khác. Các  
nghiên cứu đưa ra những vấn đề khác nhau  
trong việc áp dụng GTHL, nhưng đều có sự  
đồng thuận về quan điểm ủng hộ áp dụng  
GTHL trong kế toán tại các doanh nghiệp  
Việt Nam.  
Nghiên cứu định lượng được thực hiện  
thông qua phương pháp khảo sát bằng  
bảng hỏi về việc áp dụng kế toán GTHL  
tại các NHTM Việt Nam. Các dữ liệu thu  
thập được phân tích đánh giá độ tin cậy của  
thang đo, kiểm định mô hình và giả thuyết  
nghiên cứu. Phương pháp hồi quy đa biến  
được sử dụng để kiểm định các giả thuyết  
với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 22.  
a. Biến số nghiên cứu và thiết kế phiếu  
khảo sát  
Từ tổng quan nghiên cứu về các nhân tố  
ảnh hưởng đến việc áp dụng kế toán GTHL,  
tác giả đề xuất mô hình với các giả thuyết  
nghiên cứu như sau:  
H11: Yếu tố Chính sách - pháp luật có tác  
động đến mức độ sử dụng kế toán GTHL  
tại các ngân hàng (PL)  
H21: Yếu tố Môi trường nghề nghiệp có tác  
động đến mức độ sử dụng kế toán GTHL  
tại các ngân hàng (NN)  
H31: Yếu tố Môi trường kinh doanh có tác  
động đến mức độ sử dụng kế toán GTHL  
tại các ngân hàng (KD)  
H41: Yếu tố Môi trường kinh tế - quốc tế  
có tác động đến mức độ sử dụng kế toán  
GTHL tại các ngân hàng (KT)  
Bài viết này nghiên cứu các nhân tố ảnh  
hưởng đến việc áp dụng kế toán GTHL tại  
các NHTM Việt Nam, xây dựng mô hình  
nghiên cứu, lấy phiếu khảo sát thực tế và  
kiểm định bằng công cụ thống kê SPSS để  
xác định các nhân tố và mức độ ảnh hưởng  
của các nhân tố đến việc áp dụng kế toán  
GTHL theo chuẩn mực quốc tế tại các  
ngân hàng. Trên cơ sở đó đề xuất những  
H51: Yếu tố Văn hóa - tâm lý có tác động  
đến mức độ sử dụng kế toán GTHL tại các  
ngân hàng (TL)  
Trong đó do yếu tố tâm lý được chia ra  
làm hai nhóm được kỳ vọng có tác động  
đến mức độ áp dụng GTHL tại các ngân  
hàng ngược chiều nhau, nhóm 5a1 là các  
yếu tố liên quan đến cảm nhận lợi ích của  
GTHL (TLI) và nhóm 5b1 là các yếu tố liên  
Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng  
41  
Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại  
các ngân hàng thương mại Việt Nam  
quan đến cảm nhận những bất lợi cũng như  
những khó khăn khi triển khai kế toán theo  
GTHL (TLB). Từ các giả thuyết đặt ra, ta  
có phương trình hồi quy bội như sau:  
HL = α + β1*PL + β2*NN + β3*KD + β4*KT  
+ β5*TLI + β6*TLB + ε  
Xử lý dữ liệu bao gồm thống kê mô tả dữ  
liệu thu thập và Phân tích dữ liệu qua các  
bước: (1) Đánh giá độ tin cậy của thang đo  
bằng hệ số Cronbach Alpha để loại bỏ các  
câu hỏi không phù hợp và hạn chế các câu  
nhiễu trong quá trình nghiên cứu và đánh  
giá độ tin cậy của thang đo; (2) Kiểm định  
giá trị của biến bằng phương pháp phân  
tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory  
Factors Analysis) và (3) Phân tích tương  
quan, hồi quy đa biến để kiểm tra mối quan  
hệ tuyến tính giữa các biến và mô hình hoá  
mối quan hệ nhân quả giữa các nhân tố  
khác nhau đối với mức độ áp dụng GTHL  
tại các ngân hàng thông qua mô hình hồi  
quy bội. Trong đó biến phụ thuộc là mức  
độ áp dụng GTHL, còn biến độc lập là các  
nhân tố có thể ảnh hưởng đến mức độ áp  
dụng GTHL. Mô hình hồi quy được chạy  
bằng phần mềm SPSS 22 theo phương  
pháp Enter.  
Để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu,  
tác giả đã cùng các cộng sự xây dựng bảng  
câu hỏi để khảo sát tại các ngân hàng. Tất  
cả các biến được đo bằng cách sử dụng các  
câu phát biểu dưới dạng Likert với thang  
điểm đánh giá là 5 (từ “1 = Hoàn toàn  
không đồng ý” cho đến “5 = Hoàn toàn  
đồng ý”), trừ một số câu hỏi về những vấn  
đề khác. Thang đo cũng được gửi đến một  
số chuyên gia trong lĩnh vực kế toán ngân  
hàng đọc trước, trả lời và bổ sung. Các câu  
hỏi sau khi được chỉnh sửa, bổ sung hoàn  
thiện nhằm khảo sát mức độ sử dụng kế  
toán GTHL tại các ngân hàng thể hiện tại  
Bảng 1.  
b. Phương pháp đánh giá độ tin cậy của  
thang đo  
3.2. Dữ liệu nghiên cứu  
Sau khi nhận được phản hồi, tác giả tiến  
hành làm sạch thông tin, lọc bảng câu hỏi  
và mã hóa những thông tin cần thiết trong  
bảng câu hỏi, nhập và phân tích dữ liệu  
bằng phần mềm SPSS 22.  
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ các  
đối tượng khảo sát là nhân viên kế toán và  
trưởng, phó phòng, phụ trách hoạt động kế  
toán tại các ngân hàng theo phương pháp  
Bảng 1. Câu hỏi khảo sát các biến trong mô hình nghiên cứu đề xuất  
Câu hỏi khảo sát  
Biến phụ thuộc: HL thể hiện mức độ sử dụng kế toán GTHL tại các ngân hàng  
Ký hiệu  
HL1  
HL2  
Lãnh đạo cấp cao đã nhận thức về GTHL  
Lãnh đạo cấp cao mong muốn chuyển hẳn sang GTHL.  
Ngân hàng đã sử dụng GTHL trong các hoạt động.  
Liệt kê những hoạt động sử dụng GTHL………………………………..  
HL3  
HL4  
HL5  
HL6  
Ngân hàng đã có hướng dẫn phương pháp định giá theo GTHL.  
Ngân hàng sử dụng kỹ thuật định giá theo IFRS.  
Ngân hàng sử dụng năm kỹ thuật định giá theo tiêu chuẩn thẩm định giá.  
Ngân hàng sử dụng phương pháp khác.  
Tên phương pháp khác:………………………………………………….  
HL7  
HL8  
Tóm lại, ngân hàng có thể sử dụng GTHL trong giai đoạn hiện nay.  
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021  
42  
TRỊNH HỒNG HẠNH  
Ký hiệu  
Câu hỏi khảo sát  
Các biến độc lập  
Yếu tố chính sách-pháp luật (PL)  
PL1  
PL2  
Chưa có Quyết định quy định GTHL là cơ sở định giá trong kế toán  
Chưa có chuẩn mực kế toán Việt Nam về đo lường GTHL  
Một số chuẩn mực kế toán hiện tại của Việt Nam có đề cập đến GTHL nhưng  
chưa rõ ràng, đầy đủ.  
PL3  
PL4  
PL5  
NHNN chưa yêu cầu bắt buộc sử dụng GTHL đối với các NHTM  
Quy định về thuế của Việt Nam không khuyến khích ghi nhận theo GTHL.  
Yếu tố Môi trường nghề nghiệp (NN)  
Các tổ chức kiểm toán chưa có vai trò trong việc tư vấn cho các NH áp dụng kế  
toán GTHL.  
NN1  
Chương trình giảng dạy ngành kế toán tại các trường đại học đề cập rất ít đến  
GTHL.  
NN2  
NN3  
Các NH vẫn coi trọng nguyên tắc kế toán theo giá gốc.  
Số lượng kế toán viên chuyên nghiệp có trình độ (am hiểu về chuẩn mực kế toán  
NN4  
quốc tế nói chung và về kế toán GTHL nói riêng) tại các NH Việt Nam còn rất hạn  
chế.  
Yếu tố Môi trường kinh doanh (KD)  
Sở giao dịch chứng khoán chưa có lộ trình yêu cầu các tổ chức báo cáo theo  
IFRS và sử dụng GTHL.  
Nhà đầu tư (kể cả nhà đầu tư chiến lược) không có nhu cầu về việc ngân hàng  
nên báo cáo theo GTHL.  
KD1  
KD2  
KD3  
KD4  
Thị trường hàng hóa, công cụ tài chính ở Việt Nam chưa phát triển.  
Việt Nam chưa có các tổ chức định giá độc lập hoạt động.  
Yếu tố Môi trường kinh tế-quốc tế (KT)  
Ngân hàng không bị áp lực phải công bố báo cáo theo IFRS và sử dụng GTHL để  
thu hút vốn đầu tư nước ngoài.  
Các tổ chức quốc tế (WTO, WB, IFM…) không gây áp lực yêu cầu ngân hàng lập  
báo cáo theo IFRS và sử dụng GTHL.  
Các ngân hàng/công ty đa quốc gia không kỳ vọng ngân hàng lập báo cáo theo  
IFRS và sử dụng GTHL.  
KT1  
KT2  
KT3  
Cảm nhận về những lợi ích của Giá trị hợp lý (TLI)  
TLI1  
TLI2  
TLI3  
BCTC minh bạch, thông tin thích hợp, dễ so sánh  
Giúp cơ quan quản lý nắm được giá trị thực tế của NH  
Tiếp cận thị trường vốn quốc tế dễ dàng hơn  
Cảm nhận về những bất lợi của Giá trị hợp lý (TLB)  
TLB1  
TLB2  
TLB3  
Sử dụng GTHL không cải thiện được chất lượng báo cáo.  
Cập nhật quy trình kế toán GTHL khó khăn, phức tạp  
Lợi ích mang lại từ việc báo cáo theo GTHL không tương xứng với chi phí  
Không có sự đồng thuận về GTHL từ người làm kế toán, nhà quản lý đến đối  
tượng sử dụng.  
TLB4  
Nguồn: Tác giả xây dựng từ tổng quan nghiên cứu và chỉnh sửa sau góp ý của các chuyên gia  
Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng  
43  
Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại  
các ngân hàng thương mại Việt Nam  
chọn mẫu thuận tiện không xét đến hình  
thức sở hữu, quy mô của các ngân hàng,  
trong khoảng thời gian từ tháng 10/2019-  
12/2019.  
Phương pháp khảo sát được thực hiện bằng  
việc gửi phiếu khảo sát qua Email, sử dụng  
bảng câu hỏi thiết kế trên Google form và  
thu hồi phiếu qua bảng tổng hợp tự động  
của Google.  
sát làm kế toán viên chiếm tỷ trọng lớn  
nhất (61%), 17% người trả lời khảo sát là  
trưởng phòng (hoặc phụ trách hoạt động)  
kế toán, còn lại 22% là đối tượng khác; đa  
số có trình độ đại học (74,5%) và sau đại  
học (23%).  
b. Đánh giá độ tin cậy của thang đo  
Kết quả kiểm định dựa trên hệ số Cronbach’  
Alpha cho thấy nhóm biến Cảm nhận bất  
lợi của GTHL không đảm bảo đạt yêu cầu  
về giá trị đo lường nên biến này bị loại ra.  
Các biến còn lại đều có hệ số Cronbach  
Alpha của nhóm > 0,7 nên đều đạt yêu cầu  
được giữ lại phân tích trong bước tiếp theo.  
Kiểm định giá trị của các biến thông qua  
phân tích nhân tố khám phá EFA, kết quả  
cho thấy các biến đo lường đều có giá trị  
Factor Loadings > 0,45. Các thang đo được  
chiết xuất thành sáu nhóm tương ứng với  
6 nhóm yếu tố lựa chọn ban đầu. Các chỉ  
báo đo lường giải thích khá tốt cho các khái  
niệm nghiên cứu. Trừ biến TLB1 bị loại từ  
trước, các biến còn lại đều đạt yêu cầu và  
phù hợp để đưa vào phân tích tiếp theo.  
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận  
4.1. Kết quả nghiên cứu  
a. Thống kê mô tả số liệu  
Trên cơ sở gửi bảng câu hỏi tới các đối  
tượng khảo sát, kết quả thu về được 165  
phiếu trả lời. Sau khi rà soát các phiếu trả  
lời, loại bỏ các phiếu trả lời có khả năng  
là đánh giá không nghiêm túc, còn lại 157  
phiếu trả lời hợp lệ, chiếm tỷ lệ 95,15%  
được sử dụng cho nghiên cứu chính.  
Bảng 2 tóm tắt mô tả mẫu nghiên cứu.  
Trong số 157 câu trả lời, người được khảo  
Bảng 2. Mô tả mẫu nghiên cứu  
Số lượng  
Tỷ lệ phần trăm  
Vị trí công việc  
Kế toán viên  
96  
26  
35  
61%  
17%  
22%  
Trưởng phòng/ Phụ trách hoạt động kế toán  
Khác  
Bằng cấp  
Trung cấp/Cao đẳng  
Đại học  
4
117  
36  
0
2,5%  
74,5%  
23%  
Sau đại học  
Bằng cấp/chứng chỉ kế toán quốc tế  
Số năm kinh nghiệm  
Dưới 3 năm  
0%  
62  
55  
40  
39,5%  
35%  
Trên 3 năm- 10 năm  
Trên 10 năm  
25,5%  
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các phiếu khảo sát  
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021  
44  
TRỊNH HỒNG HẠNH  
Thực hiện các thao tác tương tự đối với  
biến phụ thuộc HL cũng cho kết quả đáng  
tin cậy tương tự và tiếp tục được sử dụng  
trong phân tích tương quan và phân tích hồi  
quy nhằm kiểm định giả thuyết đặt ra.  
c. Phân tích hệ số tương quan  
Bảng 4 trình bày ma trận tương quan giữa  
các biến. Kết quả (theo giá trị sig.) tương  
quan Pearson giữa các biến độc lập PL,  
NN, KD, KT, TLI, TLB với biến phụ thuộc  
HL đều nhỏ hơn 0,05. Như vậy các biến  
độc lập đều thích hợp để đưa vào mô hình  
phân tích hồi quy bội về các nhân tố tác  
động đến mức độ sử dụng GTHL. Theo  
các tiêu chuẩn về dấu hiệu của hiện tượng  
đa cộng tuyến thì có thể thấy rằng các hệ số  
tương quan đều nhỏ hơn 0,7 nên khả năng có  
đa cộng tuyến là thấp.  
Từ Bảng 5 cho thấy, các giả thiết H11,  
H21, H31, H41, H5a1, H5b1 đều được  
chấp nhận vì giá trị ý nghĩa của thống kê t  
đều nhỏ hơn 0,05.  
Phương trình hồi quy cụ thể như sau:  
HL = 4,279 – 0,207PL – 0,193NN –  
0,148KD – 0,146 KT + 0,345 TLI – 0,278  
TLB (1)  
4.2. Thảo luận kết quả nghiên cứu  
Phương trình (1) cho thấy ảnh hưởng của  
biến độc lập tới biến phụ thuộc, hệ số  
tương quan của các biến đều có dấu như  
kỳ vọng ban đầu đặt ra, cho thấy các yếu tố  
bao gồm Chính sách-pháp luật, Môi trường  
nghề nghiệp, Môi trường kinh doanh, Môi  
trường kinh tế- quốc tế, Cảm nhận về bất  
lợi của GTHL đang cản trở, trong khi Cảm  
nhận về lợi ích của GTHL có tác động  
thúc đẩy việc sử dụng GTHL tại các ngân  
hàng Việt Nam. Trong các biến, biến Cảm  
nhận về lợi ích của GTHL có hệ số hồi quy  
lớn nhất (0,345), thể hiện là yếu tố có ảnh  
hưởng lớn nhất đến mức độ sử dụng GTHL.  
Đây cũng là yếu tố đang tạo ra động lực lớn  
nhất với việc sử dụng GTHL tại các NHTM  
Việt Nam. Các yếu tố còn lại hiện tại đều ít  
nhiều cản trở hoặc là làm cho việc sử dụng  
GTHL cũng như quá trình hội tụ với IFRS  
của Việt Nam còn diễn ra chậm chạp. Về  
d. Kết quả phân tích hồi quy bội về các  
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ sử dụng giá  
trị hợp lý  
Kết quả mô hình hồi quy được tóm tắt trong  
Bảng 5. Về sự phù hợp của mô hình: Kiểm  
định F với hệ số sig.= .000 < 0,05 cho thấy  
mô hình hồi quy là phù hợp. Khả năng giải  
thích của mô hình nghiên cứu là 53,8% (R2  
= 0,538). Điều này có nghĩa là các biến độc  
lập giải thích được 53,8% sự biến động của  
biến phụ thuộc (mức độ sử dụng GTHL),  
còn lại là do các biến ngoài mô hình và các  
sai số ngẫu nhiên.  
Bảng 3. Kết quả đánh giá độ tin cậy thang đo qua Cronbach Alpha  
Các nhân tố  
Môi trường chính sách- pháp luật (PL)  
Cronbach Alpha  
0,911  
Môi trường nghề nghiệp (NN)  
0,933  
Môi trường kinh doanh (KD)  
0,820  
Môi trường kinh tế- quốc tế (KT)  
0,913  
Yếu tố tâm lý- văn hóa 1 (Lợi ích của báo cáo theo GTHL- TLI))  
Yếu tố tâm lý- văn hóa 2 (Bất lợi khi chuyển sang báo cáo theo GTHL- TLB)  
Mức độ sử dụng giá trị hợp lý tại ngân hàng (HL)  
0,930  
0,729  
0,906  
Nguồn: Tổng hợp kết quả trên phần mềm SPSS  
Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng  
45  
Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại  
các ngân hàng thương mại Việt Nam  
Bảng 4. Kết quả phân tích tương quan Pearson  
HL  
PL  
NN  
KD  
KT  
TLI  
TLB  
HL  
PL  
1
-.345**  
-.339**  
-.531**  
-.373**  
.446**  
-.410**  
1
NN  
KD  
KT  
.205**  
.375**  
.302**  
-.032  
-.042  
1
.384**  
.344**  
.088  
1
.420**  
-.304**  
.233**  
1
TLI  
TLB  
-.038  
.083  
1
.097  
-.220**  
1
* Correlation is significant at the 0,05 level (2-tailed)  
** Correlation is significant at the 0,01 level (2-tailed)  
Nguồn: Tổng hợp kết quả trên phần mềm SPSS  
Bảng 5. Bảng tóm tắt kết quả mô hình hồi quy  
Unstandardized  
Coefficients  
Standardized  
Coefficients  
Collinearity Statistics  
Tolerance VIF  
Model  
t
Sig.  
B
Std. Error Beta  
(Constant) 4.279  
.271  
.040  
.036  
.057  
.040  
.036  
.045  
15.771 .000  
PL  
-.134  
-.111  
-.116  
-.091  
.205  
-.207  
-.193  
-.148  
-.146  
.345  
-3.360  
-3.058  
-2.051  
-2.297  
5.663  
.001  
.003  
.042  
.023  
.000  
.000  
.814  
.771  
.591  
.763  
.830  
.903  
1.229  
1.296  
1.692  
1.311  
1.204  
1.107  
NN  
KD  
KT  
TLI  
TLB  
-.212  
-.278  
-4.752  
Dependent  
Variable  
R2  
Adjusted  
R2  
Durbin-  
Watson  
F
HL  
0.538  
0.519  
1.535  
29.095  
0.000  
Sig  
Nguồn: Tổng hợp kết quả trên phần mềm SPSS  
thứ tự mức độ ảnh hưởng giảm dần, nhóm  
Cảm nhận về bất lợi của GTHL (trong đó  
điển hình nhất là nỗi lo về quy trình cập  
nhật GTHL khó khăn, phức tạp), tiếp theo  
là nhóm Môi trường pháp luật và nhóm Môi  
trường nghề nghiệp lần lượt xếp tiếp theo  
với các mức ảnh hưởng trung bình. Hai  
nhóm biến thuộc Môi trường kinh doanh  
và Môi trường kinh tế đứng cuối cùng với  
các tác động yếu hơn.  
5. Đề xuất giải pháp áp dụng kế toán giá  
trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại các  
ngân hàng thương mại Việt Nam  
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021  
46  
TRỊNH HỒNG HẠNH  
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực nghiệm  
về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng  
kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc tế tại  
các NHTM Việt Nam, các giải pháp nhằm  
thúc đẩy việc áp dụng kế toán GTHL theo  
chuẩn mực quốc tế tại các NHTM Việt  
Nam được đề xuất theo thứ tự mức độ ảnh  
hưởng (cản trở) của các nhân tố.  
Tuy nhiên, hệ thống các CMKT Việt Nam  
hiện nay chưa có đầy đủ các chuẩn mực  
tương đương với chuẩn mực BCTC quốc tế  
(IFRS). Việc đo lường và trình bày về công  
cụ tài chính, GTHL và giảm giá tài sản là  
những lĩnh vực còn thiếu trong chuẩn mực  
kế toán Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực  
ngân hàng - tài chính với đối tượng kế toán  
chủ yếu là các công cụ tài chính với giá trị  
thường xuyên biến động thì đây là những  
CMKT rất cơ bản cần thiết phải có. Hơn  
nữa các chuẩn mực hiện tại cũng có một số  
khác biệt so với các CMKT quốc tế tương  
đương do chưa được cập nhật bởi từ khi  
ban hành đến nay chưa có sự điều chỉnh  
nào trong khi chuẩn mực quốc tế thường  
xuyên có sự điều chỉnh.  
Với Luật Kế toán sửa đổi, bổ sung số  
88/2015/QH13, một trong các nội dung  
quan trọng được bổ sung đó là qui định các  
nguyên tắc kế toán liên quan đến GTHL.  
Các qui định về GTHL được đề cập trong  
Điều số 3, số 6 và số 28 trong Luật Kế toán  
năm 2015. Tuy nhiên, trong Điều 6 Khoản  
1 lại có qui định: “Giá trị tài sản và nợ phải  
trả được ghi nhận ban đầu theo giá gốc” là  
không tương thích với qui định của IFRS  
(IFRS qui định tài sản tài chính và nợ phải  
trả tài chính khi ghi nhận ban đầu được xác  
định theo GTHL).  
Do vậy, để có đầy đủ cơ sở pháp lý cho  
việc áp dụng kế toán GTHL tại các NHTM  
Việt Nam thì cần phải nghiên cứu chỉnh  
sửa, bổ sung các văn bản từ cấp cao nhất  
là Luật Kế toán cho đến các chuẩn mực kế  
toán và thông tư hướng dẫn theo hướng  
tiếp cận với hệ thống chuẩn mực quốc tế.  
Cụ thể là: sửa đổi nguyên tắc giá gốc trong  
Luật Kế toán số 88/2015/QH13 theo hướng  
không quy định cụ thể trong Luật vì đã có  
quy định trong Chuẩn mực chung, tức là  
chỉ cần quy định “các nguyên tắc kế toán  
áp dụng phải tuân thủ theo quy định của  
Chuẩn mực chung”; nghiên cứu ban hành  
5.1. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức  
của các ngân hàng thương mại về việc áp  
dụng kế toán giá trị hợp lý  
Thứ nhất, các NHTM Việt Nam cần xác định  
việc áp dụng IFRS và GTHL là một xu thế  
mà các ngân hàng cần phải hướng tới. Lợi  
ích mà IFRS mang lại cho các ngân hàng sẽ  
vượt xa những chi phí trước mắt mà ngân  
hàng phải bỏ ra.  
Thứ hai, các NHTM Việt Nam cần mạnh  
dạn nghiên cứu vận dụng GTHL, đặc biệt  
là khối ngân hàng niêm yết; Chủ động minh  
bạch thông tin tài chính, tiếp cận thu hút  
vốn nước ngoài; Thể hiện phương pháp xác  
định GTHL một cách rõ ràng trên Thuyết  
minh BCTC.  
Thứ ba, các NHTM phải thay đổi quan điểm  
lập BCTC: BCTC phải hướng tới mục tiêu  
đáp ứng nhu cầu thông tin của cổ đông, đặt  
lợi ích của cổ đông lên trên hết và đáp ứng  
nhu cầu của các nhà đầu tư, đối tác, đặc biệt  
là các đối tác nước ngoài.  
Thứ tư, chủ động nâng cao trình độ chuyên  
môn về kế toán, về thị trường cho cả người  
quản lý ngân hàng, quản lý tài chính cũng  
như nhân viên kế toán.  
5.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ sở  
pháp lý cho việc áp dụng kế toán giá trị  
hợp lý theo chuẩn mực quốc tế  
Ở Việt Nam, tính đến nay Bộ Tài chính đã  
ban hành 26 chuẩn mực kế toán (CMKT)  
theo 5 đợt từ năm 2001 đến năm 2005.  
Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng  
47  
Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại  
các ngân hàng thương mại Việt Nam  
các chuẩn mực kế toán về GTHL và công  
cụ tài chính theo lộ trình phù hợp; rà soát  
chỉnh sửa, cập nhật đối với các chuẩn mực  
kế toán hiện có về GTHL cho phù hợp với  
chuẩn mực quốc tế và ban hành các thông  
tư hướng dẫn cụ thể việc đo lường công cụ  
tài chính, đối tượng kế toán chủ yếu của  
ngân hàng.  
hành, phát triển hội.  
Thứ hai, cần nâng cao trình độ hiểu biết  
của người làm nghề kế toán về GTHL.  
Trong đó quan trọng là các trường đại học,  
tổ chức đào tạo kế toán cần đi đầu trong  
việc bắt kịp xu hướng phát triển của GTHL  
để nghiên cứu đưa vào chương trình giảng  
dạy cho sinh viên; các doanh nghiệp nói  
chung và NHTM cần tạo điều kiện cho  
nhân viên kế toán học tập nâng cao trình  
độ, có chế độ đãi ngộ phù hợp với những  
người có trình độ chuyên môn cao; phát  
huy năng lực tự nghiên cứu của người làm  
kế toán Việt Nam, đây được xem là giải  
pháp đơn giản nhưng hữu hiệu nhất.  
Tất cả những công việc trên cần có một cơ  
quan chịu trách nhiệm thực hiện, do vậy  
cần thành lập Ủy ban Chuẩn mực kế toán  
Việt Nam với nòng cốt là thành viên của  
Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam, Hội  
Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam và các  
chuyên gia đầu ngành ở các trường đại học,  
duy trì hoạt động thường xuyên và liên tục,  
chịu sự giám sát của Hội đồng quốc gia về  
kế toán, Vụ chế độ kế toán - Bộ Tài chính.  
Ủy ban này có vai trò soạn thảo, ban hành  
CMKT và các hướng dẫn, tham gia giám  
định và xử lý các tranh chấp về kế toán.  
Điều này có ý nghĩa quyết định trong việc  
cập nhật hệ thống CMKT Việt Nam theo  
kịp sự phát triển của nền kinh tế và quốc tế,  
tăng cường sự bình đẳng trước các quy tắc  
nghề nghiệp giữa cơ quan quản lý nhà nước,  
doanh nghiệp và người làm nghề, tăng tính  
độc lập xét đoán trong các ước tính kế toán  
đặc biệt là đo lường theo GTHL của doanh  
nghiệp và người làm nghề.  
5.4. Nhóm giải pháp cải thiện môi trường  
kinh doanh  
Để cải thiện môi trường kinh doanh, Chính  
phủ cần có chiến lược để từng bước hoàn  
thiện hệ thống thị trường hoạt động; xây  
dựng thị trường hàng hoá và thị trường tài  
chính theo hướng ngày càng minh bạch để  
đáp ứng nhu cầu tìm kiếm dữ liệu tham  
chiếu để đo lường GTHL.  
Một là, hoàn thiện các điều kiện hoạt động  
của các sàn giao dịch hàng hóa cho các mặt  
hàng mà người dân và doanh nghiệp có nhu  
cầu mua bán hợp pháp nhằm mở rộng các  
mặt hàng được phép giao dịch trên sàn.  
Hai là, hoàn thiện và phát triển thị trường  
tài chính theo chiều sâu.  
5.3. Nhóm giải pháp về môi trường nghề  
nghiệp - kế toán  
Ba là, ứng dụng sâu rộng công nghệ thông tin  
vào việc quản lý điều hành giá cả thị trường,  
xây dựng các sàn giao dịch trực tuyến.  
Thứ nhất, cần nâng cao vai trò của các tổ  
chức, hội nghề nghiệp kế toán. Theo đó, cần  
có các giải pháp gia tăng vai trò quản lý,  
đào tạo bồi dưỡng chuyên môn cho người  
làm nghề kế toán; Giao quyền tổ chức thi  
và cấp chứng chỉ hành nghề cho hội nghề  
nghiệp; nâng cao uy tín hội nghề nghiệp; và  
đẩy mạnh hoạt động giao lưu trao đổi quốc  
tế với các hội nghề nghiệp ở các quốc gia  
trên thế giới để học tập kinh nghiệm điều  
5.5. Nhóm giải pháp tạo sức ép buộc các  
ngân hàng thương mại áp dụng kế toán  
giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế  
Đối với các NHTM Việt Nam hiện nay,  
việc áp dụng tự nguyện kế toán GTHL còn  
chưa phổ biến, một trong những nguyên  
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021  
48  
TRỊNH HỒNG HẠNH  
nhân được các chuyên gia chỉ ra là do Chính  
phủ chưa định hướng mạnh mẽ cho việc áp  
dụng IFRS; Các NHTM Việt Nam đa phần  
nhỏ, chưa chú trọng vào thu hút vốn trên thị  
trường quốc tế. Do vậy cần phải thực hiện  
những giải pháp sau để tạo sức ép, buộc các  
NHTM áp dụng kế toán GTHL theo chuẩn  
mực quốc tế:  
Thứ nhất, Chính phủ cần công bố chính  
thức trên phương diện quốc tế, đưa ra cam  
kết cụ thể để đưa Việt Nam vào danh sách  
các quốc gia và vùng lãnh thổ áp dụng  
IFRS. Đồng thời, cần có sự điều hành chỉ  
đạo của Chính phủ trong việc tuyên truyền  
quảng bá cho việc áp dụng IFRS. Phải xác  
định việc hoà hợp hay hội tụ với kế toán  
quốc tế không phải là việc riêng của Bộ Tài  
chính mà cần có sự vào cuộc của các Bộ,  
Ban ngành có liên quan.  
thấy, các nhân tố cản trở hoặc là làm cho  
việc sử dụng GTHL cũng như quá trình hội  
tụ với IFRS của Việt Nam còn diễn ra chậm  
chạp sắp xếp theo thứ tự từ mạnh đến yếu  
bao gồm: cảm nhận về bất lợi của GTHL,  
môi trường pháp luật, môi trường nghề  
nghiệp, môi trường kinh doanh và môi  
trường kinh tế; Nhân tố đang tạo ra động  
lực lớn nhất cho việc sử dụng GTHL tại  
các NHTM Việt Nam cũng là nhân tố có  
ảnh hưởng lớn nhất đến mức độ sử dụng  
GTHL là Cảm nhận về lợi ích của GTHL.  
Trên cơ sở mức độ ảnh hưởng mạnh yếu  
của các nhân tố đó, bài viết đã đưa ra các  
nhóm giải pháp tương ứng nhằm áp dụng  
kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc tế tại  
các NHTM Việt Nam trong thời gian tới.  
Tuy nhiên, nghiên cứu này còn có hạn chế  
là việc thu thập thông tin từ các NHTM  
Việt Nam chưa phân biệt được theo quy mô  
ngân hàng. Điều này cũng có ảnh hưởng  
đến việc nhận thức, nhu cầu và khả năng áp  
dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc  
tế. Hơn nữa, mô hình nghiên cứu mới chỉ  
dừng lại ở việc xem xét ảnh hưởng của các  
nhân tố (biến độc lập) đến việc áp dụng kế  
toán GTHL tại các NHTM Việt Nam (biến  
phụ thuộc). Trong thực tế thì các mối quan  
hệ sẽ phức tạp hơn, những biến độc lập sẽ  
có những mối quan hệ, có ảnh hưởng lẫn  
nhau và còn chịu ảnh hưởng bởi cơ chế thực  
thi pháp luật. Do vậy, kết quả nghiên cứu  
mang tính chất là những phác thảo ban đầu,  
cho cái nhìn cơ bản về mô hình các nhân tố  
ảnh hưởng đến áp dụng kế toán GTHL tại  
các NHTM Việt Nam ■  
Thứ hai, Bộ Tài chính cần sớm quyết định  
và tuyên bố lộ trình cũng như lựa chọn mô  
hình áp dụng IFRS phù hợp với Việt Nam.  
Việc tuyên bố lộ trình là cần thiết để có  
mục tiêu hành động rõ ràng.  
6. Kết luận  
Bài viết đã tổng hợp các tổng quan nghiên  
cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp  
dụng kế toán GTHL để xây dựng mô hình  
nghiên cứu, lấy phiếu khảo sát thực tế và  
kiểm định bằng công cụ thống kê SPSS để  
xác định các nhân tố và mức độ ảnh hưởng  
của các nhân tố đến việc áp dụng kế toán  
GTHL theo chuẩn mực quốc tế của các  
NHTM Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho  
Tài liệu tham khảo  
Archambault, J. J., and Archambault, M. E. (2003), A multinational test of determinants of corporate disclosure, The  
International Journal of Accounting, 38, 173–194.  
Ashraf, J., and Ghani, W. I. (2005), Accounting development in Pakistan, The International Journal of Accounting, 40,  
175–201.  
Askary, S. (2006), Accounting professionalism – a cultural perspective of developing countries, Managerial Auditing  
Journal, 21(1), 102-111.  
Bộ Tài chính (2008), 26 CMKT Việt Nam (2001-2006), Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê.  
Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng  
49  
Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại  
các ngân hàng thương mại Việt Nam  
Chand, P., and Patel, C. (2008), Convergence and harmonization of accounting standards in the South Pacific region,  
Advances in Accounting, incorporating Advances in International Accounting, 24, 83–92.  
Chen, S., Sun, Z., and Wang, Y. (2002), Evidence from China on whether harmonized accounting standards harmonize  
accounting practices, Accounting Horizons, 16(3), 183-197.  
Dương Thị Thảo (2013), Một số giải pháp hoàn thiện các qui định về sử dụng giá trị hợp lý trong chế độ kế toán DN  
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính.  
Floropoulos, I. (2006), IFRS- First time users: some empirical evidence from Greek companies, SPOUDAI, 56(3), 39-  
70.  
Francis, J., Schipper, K. & Vincent, L. (2002), Earnings announcements and competing information, Journal of  
Accounting and Economics, 33, 313-342  
Gray, S. J. (1988), Towards a theory of cultural influence on the development of accounting systems internationally,  
Abacus, 24, 1-15.  
Hà Thị Ngọc Hà (2016), Cập nhật chuẩn mực kế toán Việt Nam phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế với việc góp  
org.vn/.  
Hair, J.F. Jr., Anderson, R.E., Tatham, R.L., & Black, W.C. (1998), Multivariate Data Analysis, (5th Edition), Upper  
Saddle River, NJ: Prentice Hall.  
Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008). Phân tích Dữ liệu nghiên cứu với SPSS, NXB Đại học Kinh tế TP  
HCM.  
Hofstede G. (1980), Culture’s consequences: international differences in work-related values, Bevarly HILLS, CA:  
Sage.  
Hofstede G. (1983), The cultural relativity of organizational practices and theories, Journal of International Business  
Studies, 14(2), 75-89.  
Hofstede G. (1984), Cultural Dimensions in Management and Planning, Asian and Pacific Journal of Management,  
83-84.  
Hung, M,. and Subramanyam, K. R. (2007), Financial statement effects of adopting international accounting standards:  
the case of Germany, Review of Accounting Studies, 12(4), 623-657.  
IFRS 13- Fair Value Measurement; IFRS 9 Financial Instruments ; IAS 32 Financial Instruments: Presentation; IAS  
Irvine, H. (2008), The global institutionalization of financial reporting: the case of the United Arab Emirates,  
Accounting Forum, 32, 125–142.  
Irvine, H. J., and Lucas, N. (2006), The rational and impact of the adoption of International Financial Reporting  
Standards: the case of the United Arab Emirates, 18th Asian-Pacific Conference on International Accounting  
Issues, 1-22.  
Joshi, P. L., and Ramadhan, S. (2002), The adoption of international accounting standards by small and closely held  
companies: evidence from Bahrain, The International Journal of Accounting, 37, 429-440.  
Lê Hoàng Phúc (2012), Thực trạng và định hướng sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán Việt Nam, Tạp chí kiểm toán, Số  
1.  
Lundqvist, P., Marton, J., Pettersson, A. K., and Rehnberg, P. (2008), IFRS -implementation in listed companies-  
identification of factors leading to inconsistent application, Conference paper, School of Business, Economics and  
Law, Gothenburg University.  
Mai Ngọc Anh (2011), Có nên sử dụng giá trị hợp lý là cơ sở tính giá duy nhất trong  
kế toán tài chính, Tạp chí Nghiên cứu khoa học Kiểm toán, số tháng 3.  
Nguyễn Thế Lộc, 2010, Tính thích hợp và đáng tin cậy của giá trị hợp lý trong hệ thống chuẩn mực BCTC quốc tế. Tạp  
chí Phát triển & Hội nhập, số 3.  
Perera, H., and Baydoun, N. (2007), Convergence with International Financial Reporting Standards: the case of  
Indonesia, Advances in International Accounting, 20, 201–224.  
Spathis, C., and Geograkopoulou E. (2007), The adoption of IFRS in South Eastern Europe: the case of Greece. Int. J.  
Financial Services Management, 2(1/2), 50-63.  
Quốc hội, 2015, Luật kế toán Việt Nam.  
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021  
50  
pdf 13 trang yennguyen 18/04/2022 2140
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_ap_dung_ke_toan_gia_tri_hop_ly_theo_chuan_muc_quoc.pdf