Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Trịnh Hồng Hạnh
Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng
Ngày nhận: 04/03/2021
Ngày nhận bản sửa: 14/04/2021
Ngày duyệt đăng: 19/05/2021
Tóm tắt: Kế toán giá trị hợp lý trong ngân hàng là thực sự cần thiết bởi đối tượng
kế toán ngân hàng chủ yếu là các công cụ tài chính mà giá trị của chúng thường
xuyên biến động theo giá thị trường. Các ngân hàng cần công bố thông tin về các
đối tượng kế toán theo nguyên tắc giá trị hợp lý thay vì nguyên tắc giá gốc để phản
ánh đúng giá trị thực của chúng, đảm bảo cho các thông tin được cung cấp một
cách trung thực, hợp lí, minh bạch hơn, giúp cho những người sử dụng thông tin có
hiệu quả hơn. Cùng với xu hướng hội nhập kế toán quốc tế, việc áp dụng kế toán giá
trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam là một xu
thế tất yếu. Dựa trên tổng quan nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng
kế toán giá trị hợp lý, bài viết xây dựng mô hình nghiên cứu, khảo sát thực tế, phân
tích thống kê cho kết quả xác định 05 nhóm nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng kế
Resolution for applying fair value accounting according to international standards at
Vietnamese commercial banks
Abstract: Fair value (FV) accounting in banks is really necessary because the object of banking
accounting is mainly financial instruments whose values fluctuate according to market prices. Banks
need to disclose information about the accounting objects on the principle of fair value instead of the
original price principle to accurately reflect their true value, ensuring that the information is provided
in an honest and reasonable manner, more transparently, to help people use information more
effectively. Along with the trend of international accounting integration, the application of standardized
accounting according to international standards at Vietnamese commercial banks is an inevitable
trend. Based on a research overview of factors affecting the application of FV accounting, the article
builds research models, actual surveys, and through that statistical analysis results have identified 5
groups of factors affects the application of FV accounting of Vietnamese commercial banks, including:
perceptions of the benefits and disadvantages of FV, legal environment, professional environment,
business environment and economic environment. This is the basis for proposing solutions to apply
international standard FV accounting at Vietnamese commercial banks in the coming time.
Keywords: international accounting standards, fair value accounting, commercial bank.
Hanh Hong Trinh
Email: hanhth@hvnh.edu.vn
Faculty of Banking, Banking Academy of Vietnam
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 228- Tháng 5. 2021
© Học viện Ngân hàng
38
ISSN 1859 - 011X
TRỊNH HỒNG HẠNH
toán giá trị hợp lý của các ngân hàng thương mại Việt Nam bao gồm: cảm nhận về
lợi ích và bất lợi của giá trị hợp lý, môi trường pháp luật, môi trường nghề nghiệp,
môi trường kinh doanh và môi trường kinh tế. Đây là cơ sở đề xuất giải pháp áp
dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại các ngân hàng thương mại
Việt Nam trong thời gian tới.
Từ khóa: chuẩn mực kế toán quốc tế, kế toán giá trị hợp lý, ngân hàng thương mại.
1. Giới thiệu
Việt Nam (VAS) thì họ cũng lập thêm
BCTC theo IFRS. Tuy nhiên BCTC theo
IFRS không được các ngân hàng công bố
rộng rãi.
Kế toán giá trị hợp lý (GTHL) đã được thực
hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới với việc
áp dụng chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc
tế (IFRS) về GTHL theo những cách thức
khác nhau, nhằm phát huy những lợi ích của
nó đối với các quốc gia, các cơ quan quản
lý cũng như các nhà đầu tư. Ở Việt Nam,
kế toán GTHL bước đầu đã được áp dụng,
và lần đầu tiên Luật Kế toán (sửa đổi) số
88/2015/QH13 được Quốc hội thông qua
ngày 20/11/2015 đã quy định về GTHL,
thể hiện xu hướng và sự cần thiết của vấn
đề này. Việc áp dụng kế toán GTHL tại các
ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam
cũng đã bước đầu được thực hiện thông qua
hướng dẫn chế độ kế toán của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam (NHNN), tuy nhiên so
với chuẩn mực kế toán quốc tế thì vẫn còn
nhiều hạn chế. Mặc dù chưa phải là một
yêu cầu bắt buộc theo luật và quy định của
Việt Nam, tuy nhiên, một số NHTM thuộc
top đầu đã và đang thực hiện lập báo cáo
tài chính (BCTC) theo IFRS (trong đó có
sử dụng GTHL để công bố thông tin về tài
sản, nợ phải trả của ngân hàng) do nhu cầu
tự thân như: họ cần nộp BCTC được lập
theo IFRS cho Ngân hàng Thế giới (WB),
các tổ chức tài chính quốc tế, hay nhà đầu
tư nước ngoài để được vay vốn, hoặc để
phục vụ cho mục đích xếp hạng tín nhiệm.
Nhiều ngân hàng cũng muốn quản trị rủi
ro tốt hơn, theo thông lệ quốc tế, nên ngoài
việc lập BCTC theo Chuẩn mực Kế toán
Theo khảo sát của tác giả, tính đến năm
2019 mới có khoảng 20% ngân hàng đã và
đang lập BCTC theo IFRS, trong đó chủ
yếu là các ngân hàng thuộc nhóm 10 ngân
hàng được NHNN lựa chọn thực hiện thí
điểm Basel 2 như: VCB, BIDV, Vietinbank,
Sacombank, VIB, MB, Techcombank, VP
Bank, Maritimebank, ACB… Hầu hết các
ngân hàng mới chỉ lập BCTC theo IFRS
trên cơ sở chuyển đổi BCTC theo VAS
sang và có sự hỗ trợ chuyển đổi thủ công
của công ty kiểm toán. Ở phương diện nào
đó, khi các nhà đầu tư nước ngoài tiếp xúc
thì đây cũng là sự hạn chế bởi nhà đầu tư
mong muốn các ngân hàng có BCTC theo
chuẩn quốc tế do chính ngân hàng thực
hiện chế độ kế toán theo chuẩn quốc tế, chứ
không phải đơn thuần là công tác chuyển
đổi BCTC vào cuối năm. Hơn nữa việc
chuyển đổi các khoản mục của BCTC theo
VAS sang IFRS chủ yếu là thực hiện các
bút toán phân loại lại, điều chỉnh giá trị các
khoản mục theo đúng phương pháp kế toán
quy định ở các chuẩn mực kế toán quốc
tế, chưa sử dụng GTHL trong đánh giá sự
suy giảm giá trị của tài sản, việc đánh giá
lại GTHL của các khoản mục tài sản và nợ
phải trả chưa được thực hiện đầy đủ theo
đúng chuẩn mực quốc tế.
Mặc dù số lượng các ngân hàng tự nguyện
áp dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực
Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
39
Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam
quốc tế còn ít, song điều đó cũng thể hiện
các ngân hàng đã dần nhận thấy việc áp
dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc
tế là cần thiết. Vì vậy vấn đề Bài viết đặt ra
và giải quyết là cần đưa ra giải pháp nhằm
áp dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực
quốc tế tại các NHTM Việt Nam trong thời
gian tới, trên cơ sở xác định các nhân tố và
mức độ ảnh hưởng của chúng đến việc áp
dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc
tế tại các NHTM Việt Nam.
mức độ phát triển của nghề kế toán. Sự phát
triển của nghề kế toán là một khái niệm
rộng. Nó có thể được đo bằng nhiều cách,
trong đó, các chỉ số quan trọng là: Sự hiện
diện và tầm quan trọng của các hiệp hội
nghề nghiệp (Askary, 2006), mức độ đầy
đủ của của các chứng chỉ kế toán (Chen và
cộng sự, 2002; Spathis và Geograkopoulou,
2007; và Lundqvist và cộng sự, 2008), và
sự sự ủng hộ pháp luật và điều lệ quy tắc
(Ashraf và Ghani, 2005).
c. Môi trường kinh doanh
2. Tổng quan nghiên cứu các nhân tố
ảnh hưởng đến việc áp dụng các chuẩn
mực kế toán quốc tế
Môi trường kinh doanh xác định mức độ,
hình thức và nội dung thông tin cần thiết
và do đó giúp định hình các quy tắc và thực
tiễn khung BCTC. Hung và Subramanyam
(2007), Floropoulos (2006) chỉ ra một số
yếu tố đáng chú ý trong môi trường kinh
doanh: Đặc điểm của công ty; Mức độ phát
triển thị trường vốn; và Loại hệ thống tài
chính hiện tại.
Các nghiên cứu trên thế giới cũng đề cập
đến các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp
dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế nói
chung và kế toán GTHL nói riêng. Nhìn
chung, phần lớn các nhân tố này có liên
quan đến các yếu tố môi trường, bao gồm
những nhân tố sau:
d. Môi trường kinh tế
Nhiều nghiên cứu đều khẳng định môi
trường kinh tế có ảnh hưởng quan trọng
đến các khung BCTC. Môi trường kinh tế
cung cấp các cấu trúc xác định thông tin
cần được báo cáo. Các yếu tố kinh tế chính
ảnh hưởng đến sự phát triển của các khung
BCTC là: Cổ phần hoá (Ashraf và Ghani,
2005); Mở cửa kinh tế (Irvine và Lucas,
2006 và Irvine, 2008); Giai đoạn phát triển
kinh tế (Archambault và Archambault,
2003); và Thương mại quốc tế (Irvine,
2008).
a. Môi trường pháp lý và thuế
Môi trường pháp lý và thuế có ảnh hưởng
trực tiếp đến cách thức quản lý kế toán.
Chand và Patel (2008) khẳng định rằng các
chuẩn mực và thực hành kế toán hiện hành
được thiết lập theo truyền thống. Chúng có
ảnh hưởng quan trọng đến quá trình hội tụ
với chuẩn mực BCTC quốc tế. Lundqvist
và các cộng sự (2008) bổ sung thêm rằng
các phương pháp kế toán hiện hành có thể
dẫn đến áp dụng sai các chuẩn mực.
Môi trường thuế cũng có tác động đến
khung BCTC. Francis và các cộng sự
(2002) chỉ ra rằng: ở các nước Anglo-
Saxon (như Anh) chính sách kế toán có thể
bị ảnh hưởng trong một số lĩnh vực nhất
định bởi thuế; ở các nước châu Âu lục địa
(như Đức), có một liên kết ràng buộc toàn
diện giữa thuế và các quy tắc kế toán.
b. Môi trường nghề nghiệp
e. Môi trường quốc tế
Môi trường quốc tế có thể đóng góp rất
nhiều trong việc định hình các đặc điểm của
khung BCTC, đặc biệt là ở các nước đang
phát triển. Kế toán ở một quốc gia cụ thể
có thể được phát triển là kết quả của sự gia
nhập của đất nước vào cộng đồng quốc tế.
Chand và Patel (2008) nhận thấy rằng sự
hiện diện của các công ty kế toán quốc tế là
một trong những thuộc tính ảnh hưởng đến
Chất lượng của BCTC bị ảnh hưởng bởi
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021
40
TRỊNH HỒNG HẠNH
sự hội tụ với IFRS. Trong bối cảnh tương
tự, Irvine và Lucas (2006) và Irvine (2008)
cho rằng việc áp dụng IFRS của UAE được
lấy cảm hứng từ các công ty kế toán quốc
tế. Joshi và Ramadhan (2002) và Joshi và
các cộng sự (2008) cũng xác nhận điều này
cho Bahrain.
giải pháp phù hợp, khả thi nhằm áp dụng
kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc tế tại
các NHTM Việt Nam trong thời gian tới .
3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
3.1. Phương pháp nghiên cứu
f. Yếu tố văn hoá - tâm lý
Một số lượng đáng kể các nghiên cứu đã
đề cập đến mối quan hệ giữa khung BCTC
và môi trường văn hóa. Các nghiên cứu
được biết đến rộng rãi nhất là bởi Hofstede
(1980, 1983, và 1984) và Gray (1988).
Hai tác giả đã đề xuất các mô hình liên
kết giá trị văn hóa với khung BCTC của
một quốc gia. Perera và Baydoun (2007)
tuyên bố rằng ngành kế toán của Indonesia
nhiều khả năng xếp hạng cao trên cả khía
cạnh thận trọng và bí mật, dựa trên mức độ
chuyên nghiệp thấp và khoảng cách quyền
lực lớn ở Indonesia. Điều này dẫn đến mức
độ minh bạch thấp trong các BCTC.
Các nghiên cứu trong nước về GTHL chủ
yếu là những nghiên cứu về sự ủng hộ áp
dụng GTHL tại các doanh nghiệp, có thể
kể đến là các nghiên cứu của các tiến sĩ,
các nhà khoa học Việt Nam như: Nguyễn
Thế Lộc (2010), Mai Ngọc Anh (2010),
Lê Hoàng Phúc (2012), Hà Thị Ngọc Hà
(2016) và một số các nghiên cứu khác. Các
nghiên cứu đưa ra những vấn đề khác nhau
trong việc áp dụng GTHL, nhưng đều có sự
đồng thuận về quan điểm ủng hộ áp dụng
GTHL trong kế toán tại các doanh nghiệp
Việt Nam.
Nghiên cứu định lượng được thực hiện
thông qua phương pháp khảo sát bằng
bảng hỏi về việc áp dụng kế toán GTHL
tại các NHTM Việt Nam. Các dữ liệu thu
thập được phân tích đánh giá độ tin cậy của
thang đo, kiểm định mô hình và giả thuyết
nghiên cứu. Phương pháp hồi quy đa biến
được sử dụng để kiểm định các giả thuyết
với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 22.
a. Biến số nghiên cứu và thiết kế phiếu
khảo sát
Từ tổng quan nghiên cứu về các nhân tố
ảnh hưởng đến việc áp dụng kế toán GTHL,
tác giả đề xuất mô hình với các giả thuyết
nghiên cứu như sau:
H11: Yếu tố Chính sách - pháp luật có tác
động đến mức độ sử dụng kế toán GTHL
tại các ngân hàng (PL)
H21: Yếu tố Môi trường nghề nghiệp có tác
động đến mức độ sử dụng kế toán GTHL
tại các ngân hàng (NN)
H31: Yếu tố Môi trường kinh doanh có tác
động đến mức độ sử dụng kế toán GTHL
tại các ngân hàng (KD)
H41: Yếu tố Môi trường kinh tế - quốc tế
có tác động đến mức độ sử dụng kế toán
GTHL tại các ngân hàng (KT)
Bài viết này nghiên cứu các nhân tố ảnh
hưởng đến việc áp dụng kế toán GTHL tại
các NHTM Việt Nam, xây dựng mô hình
nghiên cứu, lấy phiếu khảo sát thực tế và
kiểm định bằng công cụ thống kê SPSS để
xác định các nhân tố và mức độ ảnh hưởng
của các nhân tố đến việc áp dụng kế toán
GTHL theo chuẩn mực quốc tế tại các
ngân hàng. Trên cơ sở đó đề xuất những
H51: Yếu tố Văn hóa - tâm lý có tác động
đến mức độ sử dụng kế toán GTHL tại các
ngân hàng (TL)
Trong đó do yếu tố tâm lý được chia ra
làm hai nhóm được kỳ vọng có tác động
đến mức độ áp dụng GTHL tại các ngân
hàng ngược chiều nhau, nhóm 5a1 là các
yếu tố liên quan đến cảm nhận lợi ích của
GTHL (TLI) và nhóm 5b1 là các yếu tố liên
Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
41
Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam
quan đến cảm nhận những bất lợi cũng như
những khó khăn khi triển khai kế toán theo
GTHL (TLB). Từ các giả thuyết đặt ra, ta
có phương trình hồi quy bội như sau:
HL = α + β1*PL + β2*NN + β3*KD + β4*KT
+ β5*TLI + β6*TLB + ε
Xử lý dữ liệu bao gồm thống kê mô tả dữ
liệu thu thập và Phân tích dữ liệu qua các
bước: (1) Đánh giá độ tin cậy của thang đo
bằng hệ số Cronbach Alpha để loại bỏ các
câu hỏi không phù hợp và hạn chế các câu
nhiễu trong quá trình nghiên cứu và đánh
giá độ tin cậy của thang đo; (2) Kiểm định
giá trị của biến bằng phương pháp phân
tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory
Factors Analysis) và (3) Phân tích tương
quan, hồi quy đa biến để kiểm tra mối quan
hệ tuyến tính giữa các biến và mô hình hoá
mối quan hệ nhân quả giữa các nhân tố
khác nhau đối với mức độ áp dụng GTHL
tại các ngân hàng thông qua mô hình hồi
quy bội. Trong đó biến phụ thuộc là mức
độ áp dụng GTHL, còn biến độc lập là các
nhân tố có thể ảnh hưởng đến mức độ áp
dụng GTHL. Mô hình hồi quy được chạy
bằng phần mềm SPSS 22 theo phương
pháp Enter.
Để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu,
tác giả đã cùng các cộng sự xây dựng bảng
câu hỏi để khảo sát tại các ngân hàng. Tất
cả các biến được đo bằng cách sử dụng các
câu phát biểu dưới dạng Likert với thang
điểm đánh giá là 5 (từ “1 = Hoàn toàn
không đồng ý” cho đến “5 = Hoàn toàn
đồng ý”), trừ một số câu hỏi về những vấn
đề khác. Thang đo cũng được gửi đến một
số chuyên gia trong lĩnh vực kế toán ngân
hàng đọc trước, trả lời và bổ sung. Các câu
hỏi sau khi được chỉnh sửa, bổ sung hoàn
thiện nhằm khảo sát mức độ sử dụng kế
toán GTHL tại các ngân hàng thể hiện tại
Bảng 1.
b. Phương pháp đánh giá độ tin cậy của
thang đo
3.2. Dữ liệu nghiên cứu
Sau khi nhận được phản hồi, tác giả tiến
hành làm sạch thông tin, lọc bảng câu hỏi
và mã hóa những thông tin cần thiết trong
bảng câu hỏi, nhập và phân tích dữ liệu
bằng phần mềm SPSS 22.
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ các
đối tượng khảo sát là nhân viên kế toán và
trưởng, phó phòng, phụ trách hoạt động kế
toán tại các ngân hàng theo phương pháp
Bảng 1. Câu hỏi khảo sát các biến trong mô hình nghiên cứu đề xuất
Câu hỏi khảo sát
Biến phụ thuộc: HL thể hiện mức độ sử dụng kế toán GTHL tại các ngân hàng
Ký hiệu
HL1
HL2
Lãnh đạo cấp cao đã nhận thức về GTHL
Lãnh đạo cấp cao mong muốn chuyển hẳn sang GTHL.
Ngân hàng đã sử dụng GTHL trong các hoạt động.
Liệt kê những hoạt động sử dụng GTHL………………………………..
HL3
HL4
HL5
HL6
Ngân hàng đã có hướng dẫn phương pháp định giá theo GTHL.
Ngân hàng sử dụng kỹ thuật định giá theo IFRS.
Ngân hàng sử dụng năm kỹ thuật định giá theo tiêu chuẩn thẩm định giá.
Ngân hàng sử dụng phương pháp khác.
Tên phương pháp khác:………………………………………………….
HL7
HL8
Tóm lại, ngân hàng có thể sử dụng GTHL trong giai đoạn hiện nay.
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021
42
TRỊNH HỒNG HẠNH
Ký hiệu
Câu hỏi khảo sát
Các biến độc lập
Yếu tố chính sách-pháp luật (PL)
PL1
PL2
Chưa có Quyết định quy định GTHL là cơ sở định giá trong kế toán
Chưa có chuẩn mực kế toán Việt Nam về đo lường GTHL
Một số chuẩn mực kế toán hiện tại của Việt Nam có đề cập đến GTHL nhưng
chưa rõ ràng, đầy đủ.
PL3
PL4
PL5
NHNN chưa yêu cầu bắt buộc sử dụng GTHL đối với các NHTM
Quy định về thuế của Việt Nam không khuyến khích ghi nhận theo GTHL.
Yếu tố Môi trường nghề nghiệp (NN)
Các tổ chức kiểm toán chưa có vai trò trong việc tư vấn cho các NH áp dụng kế
toán GTHL.
NN1
Chương trình giảng dạy ngành kế toán tại các trường đại học đề cập rất ít đến
GTHL.
NN2
NN3
Các NH vẫn coi trọng nguyên tắc kế toán theo giá gốc.
Số lượng kế toán viên chuyên nghiệp có trình độ (am hiểu về chuẩn mực kế toán
NN4
quốc tế nói chung và về kế toán GTHL nói riêng) tại các NH Việt Nam còn rất hạn
chế.
Yếu tố Môi trường kinh doanh (KD)
Sở giao dịch chứng khoán chưa có lộ trình yêu cầu các tổ chức báo cáo theo
IFRS và sử dụng GTHL.
Nhà đầu tư (kể cả nhà đầu tư chiến lược) không có nhu cầu về việc ngân hàng
nên báo cáo theo GTHL.
KD1
KD2
KD3
KD4
Thị trường hàng hóa, công cụ tài chính ở Việt Nam chưa phát triển.
Việt Nam chưa có các tổ chức định giá độc lập hoạt động.
Yếu tố Môi trường kinh tế-quốc tế (KT)
Ngân hàng không bị áp lực phải công bố báo cáo theo IFRS và sử dụng GTHL để
thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Các tổ chức quốc tế (WTO, WB, IFM…) không gây áp lực yêu cầu ngân hàng lập
báo cáo theo IFRS và sử dụng GTHL.
Các ngân hàng/công ty đa quốc gia không kỳ vọng ngân hàng lập báo cáo theo
IFRS và sử dụng GTHL.
KT1
KT2
KT3
Cảm nhận về những lợi ích của Giá trị hợp lý (TLI)
TLI1
TLI2
TLI3
BCTC minh bạch, thông tin thích hợp, dễ so sánh
Giúp cơ quan quản lý nắm được giá trị thực tế của NH
Tiếp cận thị trường vốn quốc tế dễ dàng hơn
Cảm nhận về những bất lợi của Giá trị hợp lý (TLB)
TLB1
TLB2
TLB3
Sử dụng GTHL không cải thiện được chất lượng báo cáo.
Cập nhật quy trình kế toán GTHL khó khăn, phức tạp
Lợi ích mang lại từ việc báo cáo theo GTHL không tương xứng với chi phí
Không có sự đồng thuận về GTHL từ người làm kế toán, nhà quản lý đến đối
tượng sử dụng.
TLB4
Nguồn: Tác giả xây dựng từ tổng quan nghiên cứu và chỉnh sửa sau góp ý của các chuyên gia
Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
43
Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam
chọn mẫu thuận tiện không xét đến hình
thức sở hữu, quy mô của các ngân hàng,
trong khoảng thời gian từ tháng 10/2019-
12/2019.
Phương pháp khảo sát được thực hiện bằng
việc gửi phiếu khảo sát qua Email, sử dụng
bảng câu hỏi thiết kế trên Google form và
thu hồi phiếu qua bảng tổng hợp tự động
của Google.
sát làm kế toán viên chiếm tỷ trọng lớn
nhất (61%), 17% người trả lời khảo sát là
trưởng phòng (hoặc phụ trách hoạt động)
kế toán, còn lại 22% là đối tượng khác; đa
số có trình độ đại học (74,5%) và sau đại
học (23%).
b. Đánh giá độ tin cậy của thang đo
Kết quả kiểm định dựa trên hệ số Cronbach’
Alpha cho thấy nhóm biến Cảm nhận bất
lợi của GTHL không đảm bảo đạt yêu cầu
về giá trị đo lường nên biến này bị loại ra.
Các biến còn lại đều có hệ số Cronbach
Alpha của nhóm > 0,7 nên đều đạt yêu cầu
được giữ lại phân tích trong bước tiếp theo.
Kiểm định giá trị của các biến thông qua
phân tích nhân tố khám phá EFA, kết quả
cho thấy các biến đo lường đều có giá trị
Factor Loadings > 0,45. Các thang đo được
chiết xuất thành sáu nhóm tương ứng với
6 nhóm yếu tố lựa chọn ban đầu. Các chỉ
báo đo lường giải thích khá tốt cho các khái
niệm nghiên cứu. Trừ biến TLB1 bị loại từ
trước, các biến còn lại đều đạt yêu cầu và
phù hợp để đưa vào phân tích tiếp theo.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Kết quả nghiên cứu
a. Thống kê mô tả số liệu
Trên cơ sở gửi bảng câu hỏi tới các đối
tượng khảo sát, kết quả thu về được 165
phiếu trả lời. Sau khi rà soát các phiếu trả
lời, loại bỏ các phiếu trả lời có khả năng
là đánh giá không nghiêm túc, còn lại 157
phiếu trả lời hợp lệ, chiếm tỷ lệ 95,15%
được sử dụng cho nghiên cứu chính.
Bảng 2 tóm tắt mô tả mẫu nghiên cứu.
Trong số 157 câu trả lời, người được khảo
Bảng 2. Mô tả mẫu nghiên cứu
Số lượng
Tỷ lệ phần trăm
Vị trí công việc
Kế toán viên
96
26
35
61%
17%
22%
Trưởng phòng/ Phụ trách hoạt động kế toán
Khác
Bằng cấp
Trung cấp/Cao đẳng
Đại học
4
117
36
0
2,5%
74,5%
23%
Sau đại học
Bằng cấp/chứng chỉ kế toán quốc tế
Số năm kinh nghiệm
Dưới 3 năm
0%
62
55
40
39,5%
35%
Trên 3 năm- 10 năm
Trên 10 năm
25,5%
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các phiếu khảo sát
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021
44
TRỊNH HỒNG HẠNH
Thực hiện các thao tác tương tự đối với
biến phụ thuộc HL cũng cho kết quả đáng
tin cậy tương tự và tiếp tục được sử dụng
trong phân tích tương quan và phân tích hồi
quy nhằm kiểm định giả thuyết đặt ra.
c. Phân tích hệ số tương quan
Bảng 4 trình bày ma trận tương quan giữa
các biến. Kết quả (theo giá trị sig.) tương
quan Pearson giữa các biến độc lập PL,
NN, KD, KT, TLI, TLB với biến phụ thuộc
HL đều nhỏ hơn 0,05. Như vậy các biến
độc lập đều thích hợp để đưa vào mô hình
phân tích hồi quy bội về các nhân tố tác
động đến mức độ sử dụng GTHL. Theo
các tiêu chuẩn về dấu hiệu của hiện tượng
đa cộng tuyến thì có thể thấy rằng các hệ số
tương quan đều nhỏ hơn 0,7 nên khả năng có
đa cộng tuyến là thấp.
Từ Bảng 5 cho thấy, các giả thiết H11,
H21, H31, H41, H5a1, H5b1 đều được
chấp nhận vì giá trị ý nghĩa của thống kê t
đều nhỏ hơn 0,05.
Phương trình hồi quy cụ thể như sau:
HL = 4,279 – 0,207PL – 0,193NN –
0,148KD – 0,146 KT + 0,345 TLI – 0,278
TLB (1)
4.2. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Phương trình (1) cho thấy ảnh hưởng của
biến độc lập tới biến phụ thuộc, hệ số
tương quan của các biến đều có dấu như
kỳ vọng ban đầu đặt ra, cho thấy các yếu tố
bao gồm Chính sách-pháp luật, Môi trường
nghề nghiệp, Môi trường kinh doanh, Môi
trường kinh tế- quốc tế, Cảm nhận về bất
lợi của GTHL đang cản trở, trong khi Cảm
nhận về lợi ích của GTHL có tác động
thúc đẩy việc sử dụng GTHL tại các ngân
hàng Việt Nam. Trong các biến, biến Cảm
nhận về lợi ích của GTHL có hệ số hồi quy
lớn nhất (0,345), thể hiện là yếu tố có ảnh
hưởng lớn nhất đến mức độ sử dụng GTHL.
Đây cũng là yếu tố đang tạo ra động lực lớn
nhất với việc sử dụng GTHL tại các NHTM
Việt Nam. Các yếu tố còn lại hiện tại đều ít
nhiều cản trở hoặc là làm cho việc sử dụng
GTHL cũng như quá trình hội tụ với IFRS
của Việt Nam còn diễn ra chậm chạp. Về
d. Kết quả phân tích hồi quy bội về các
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ sử dụng giá
trị hợp lý
Kết quả mô hình hồi quy được tóm tắt trong
Bảng 5. Về sự phù hợp của mô hình: Kiểm
định F với hệ số sig.= .000 < 0,05 cho thấy
mô hình hồi quy là phù hợp. Khả năng giải
thích của mô hình nghiên cứu là 53,8% (R2
= 0,538). Điều này có nghĩa là các biến độc
lập giải thích được 53,8% sự biến động của
biến phụ thuộc (mức độ sử dụng GTHL),
còn lại là do các biến ngoài mô hình và các
sai số ngẫu nhiên.
Bảng 3. Kết quả đánh giá độ tin cậy thang đo qua Cronbach Alpha
Các nhân tố
Môi trường chính sách- pháp luật (PL)
Cronbach Alpha
0,911
Môi trường nghề nghiệp (NN)
0,933
Môi trường kinh doanh (KD)
0,820
Môi trường kinh tế- quốc tế (KT)
0,913
Yếu tố tâm lý- văn hóa 1 (Lợi ích của báo cáo theo GTHL- TLI))
Yếu tố tâm lý- văn hóa 2 (Bất lợi khi chuyển sang báo cáo theo GTHL- TLB)
Mức độ sử dụng giá trị hợp lý tại ngân hàng (HL)
0,930
0,729
0,906
Nguồn: Tổng hợp kết quả trên phần mềm SPSS
Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
45
Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam
Bảng 4. Kết quả phân tích tương quan Pearson
HL
PL
NN
KD
KT
TLI
TLB
HL
PL
1
-.345**
-.339**
-.531**
-.373**
.446**
-.410**
1
NN
KD
KT
.205**
.375**
.302**
-.032
-.042
1
.384**
.344**
.088
1
.420**
-.304**
.233**
1
TLI
TLB
-.038
.083
1
.097
-.220**
1
* Correlation is significant at the 0,05 level (2-tailed)
** Correlation is significant at the 0,01 level (2-tailed)
Nguồn: Tổng hợp kết quả trên phần mềm SPSS
Bảng 5. Bảng tóm tắt kết quả mô hình hồi quy
Unstandardized
Coefficients
Standardized
Coefficients
Collinearity Statistics
Tolerance VIF
Model
t
Sig.
B
Std. Error Beta
(Constant) 4.279
.271
.040
.036
.057
.040
.036
.045
15.771 .000
PL
-.134
-.111
-.116
-.091
.205
-.207
-.193
-.148
-.146
.345
-3.360
-3.058
-2.051
-2.297
5.663
.001
.003
.042
.023
.000
.000
.814
.771
.591
.763
.830
.903
1.229
1.296
1.692
1.311
1.204
1.107
NN
KD
KT
TLI
TLB
-.212
-.278
-4.752
Dependent
Variable
R2
Adjusted
R2
Durbin-
Watson
F
HL
0.538
0.519
1.535
29.095
0.000
Sig
Nguồn: Tổng hợp kết quả trên phần mềm SPSS
thứ tự mức độ ảnh hưởng giảm dần, nhóm
Cảm nhận về bất lợi của GTHL (trong đó
điển hình nhất là nỗi lo về quy trình cập
nhật GTHL khó khăn, phức tạp), tiếp theo
là nhóm Môi trường pháp luật và nhóm Môi
trường nghề nghiệp lần lượt xếp tiếp theo
với các mức ảnh hưởng trung bình. Hai
nhóm biến thuộc Môi trường kinh doanh
và Môi trường kinh tế đứng cuối cùng với
các tác động yếu hơn.
5. Đề xuất giải pháp áp dụng kế toán giá
trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021
46
TRỊNH HỒNG HẠNH
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực nghiệm
về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng
kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc tế tại
các NHTM Việt Nam, các giải pháp nhằm
thúc đẩy việc áp dụng kế toán GTHL theo
chuẩn mực quốc tế tại các NHTM Việt
Nam được đề xuất theo thứ tự mức độ ảnh
hưởng (cản trở) của các nhân tố.
Tuy nhiên, hệ thống các CMKT Việt Nam
hiện nay chưa có đầy đủ các chuẩn mực
tương đương với chuẩn mực BCTC quốc tế
(IFRS). Việc đo lường và trình bày về công
cụ tài chính, GTHL và giảm giá tài sản là
những lĩnh vực còn thiếu trong chuẩn mực
kế toán Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực
ngân hàng - tài chính với đối tượng kế toán
chủ yếu là các công cụ tài chính với giá trị
thường xuyên biến động thì đây là những
CMKT rất cơ bản cần thiết phải có. Hơn
nữa các chuẩn mực hiện tại cũng có một số
khác biệt so với các CMKT quốc tế tương
đương do chưa được cập nhật bởi từ khi
ban hành đến nay chưa có sự điều chỉnh
nào trong khi chuẩn mực quốc tế thường
xuyên có sự điều chỉnh.
Với Luật Kế toán sửa đổi, bổ sung số
88/2015/QH13, một trong các nội dung
quan trọng được bổ sung đó là qui định các
nguyên tắc kế toán liên quan đến GTHL.
Các qui định về GTHL được đề cập trong
Điều số 3, số 6 và số 28 trong Luật Kế toán
năm 2015. Tuy nhiên, trong Điều 6 Khoản
1 lại có qui định: “Giá trị tài sản và nợ phải
trả được ghi nhận ban đầu theo giá gốc” là
không tương thích với qui định của IFRS
(IFRS qui định tài sản tài chính và nợ phải
trả tài chính khi ghi nhận ban đầu được xác
định theo GTHL).
Do vậy, để có đầy đủ cơ sở pháp lý cho
việc áp dụng kế toán GTHL tại các NHTM
Việt Nam thì cần phải nghiên cứu chỉnh
sửa, bổ sung các văn bản từ cấp cao nhất
là Luật Kế toán cho đến các chuẩn mực kế
toán và thông tư hướng dẫn theo hướng
tiếp cận với hệ thống chuẩn mực quốc tế.
Cụ thể là: sửa đổi nguyên tắc giá gốc trong
Luật Kế toán số 88/2015/QH13 theo hướng
không quy định cụ thể trong Luật vì đã có
quy định trong Chuẩn mực chung, tức là
chỉ cần quy định “các nguyên tắc kế toán
áp dụng phải tuân thủ theo quy định của
Chuẩn mực chung”; nghiên cứu ban hành
5.1. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức
của các ngân hàng thương mại về việc áp
dụng kế toán giá trị hợp lý
Thứ nhất, các NHTM Việt Nam cần xác định
việc áp dụng IFRS và GTHL là một xu thế
mà các ngân hàng cần phải hướng tới. Lợi
ích mà IFRS mang lại cho các ngân hàng sẽ
vượt xa những chi phí trước mắt mà ngân
hàng phải bỏ ra.
Thứ hai, các NHTM Việt Nam cần mạnh
dạn nghiên cứu vận dụng GTHL, đặc biệt
là khối ngân hàng niêm yết; Chủ động minh
bạch thông tin tài chính, tiếp cận thu hút
vốn nước ngoài; Thể hiện phương pháp xác
định GTHL một cách rõ ràng trên Thuyết
minh BCTC.
Thứ ba, các NHTM phải thay đổi quan điểm
lập BCTC: BCTC phải hướng tới mục tiêu
đáp ứng nhu cầu thông tin của cổ đông, đặt
lợi ích của cổ đông lên trên hết và đáp ứng
nhu cầu của các nhà đầu tư, đối tác, đặc biệt
là các đối tác nước ngoài.
Thứ tư, chủ động nâng cao trình độ chuyên
môn về kế toán, về thị trường cho cả người
quản lý ngân hàng, quản lý tài chính cũng
như nhân viên kế toán.
5.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ sở
pháp lý cho việc áp dụng kế toán giá trị
hợp lý theo chuẩn mực quốc tế
Ở Việt Nam, tính đến nay Bộ Tài chính đã
ban hành 26 chuẩn mực kế toán (CMKT)
theo 5 đợt từ năm 2001 đến năm 2005.
Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
47
Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam
các chuẩn mực kế toán về GTHL và công
cụ tài chính theo lộ trình phù hợp; rà soát
chỉnh sửa, cập nhật đối với các chuẩn mực
kế toán hiện có về GTHL cho phù hợp với
chuẩn mực quốc tế và ban hành các thông
tư hướng dẫn cụ thể việc đo lường công cụ
tài chính, đối tượng kế toán chủ yếu của
ngân hàng.
hành, phát triển hội.
Thứ hai, cần nâng cao trình độ hiểu biết
của người làm nghề kế toán về GTHL.
Trong đó quan trọng là các trường đại học,
tổ chức đào tạo kế toán cần đi đầu trong
việc bắt kịp xu hướng phát triển của GTHL
để nghiên cứu đưa vào chương trình giảng
dạy cho sinh viên; các doanh nghiệp nói
chung và NHTM cần tạo điều kiện cho
nhân viên kế toán học tập nâng cao trình
độ, có chế độ đãi ngộ phù hợp với những
người có trình độ chuyên môn cao; phát
huy năng lực tự nghiên cứu của người làm
kế toán Việt Nam, đây được xem là giải
pháp đơn giản nhưng hữu hiệu nhất.
Tất cả những công việc trên cần có một cơ
quan chịu trách nhiệm thực hiện, do vậy
cần thành lập Ủy ban Chuẩn mực kế toán
Việt Nam với nòng cốt là thành viên của
Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam, Hội
Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam và các
chuyên gia đầu ngành ở các trường đại học,
duy trì hoạt động thường xuyên và liên tục,
chịu sự giám sát của Hội đồng quốc gia về
kế toán, Vụ chế độ kế toán - Bộ Tài chính.
Ủy ban này có vai trò soạn thảo, ban hành
CMKT và các hướng dẫn, tham gia giám
định và xử lý các tranh chấp về kế toán.
Điều này có ý nghĩa quyết định trong việc
cập nhật hệ thống CMKT Việt Nam theo
kịp sự phát triển của nền kinh tế và quốc tế,
tăng cường sự bình đẳng trước các quy tắc
nghề nghiệp giữa cơ quan quản lý nhà nước,
doanh nghiệp và người làm nghề, tăng tính
độc lập xét đoán trong các ước tính kế toán
đặc biệt là đo lường theo GTHL của doanh
nghiệp và người làm nghề.
5.4. Nhóm giải pháp cải thiện môi trường
kinh doanh
Để cải thiện môi trường kinh doanh, Chính
phủ cần có chiến lược để từng bước hoàn
thiện hệ thống thị trường hoạt động; xây
dựng thị trường hàng hoá và thị trường tài
chính theo hướng ngày càng minh bạch để
đáp ứng nhu cầu tìm kiếm dữ liệu tham
chiếu để đo lường GTHL.
Một là, hoàn thiện các điều kiện hoạt động
của các sàn giao dịch hàng hóa cho các mặt
hàng mà người dân và doanh nghiệp có nhu
cầu mua bán hợp pháp nhằm mở rộng các
mặt hàng được phép giao dịch trên sàn.
Hai là, hoàn thiện và phát triển thị trường
tài chính theo chiều sâu.
5.3. Nhóm giải pháp về môi trường nghề
nghiệp - kế toán
Ba là, ứng dụng sâu rộng công nghệ thông tin
vào việc quản lý điều hành giá cả thị trường,
xây dựng các sàn giao dịch trực tuyến.
Thứ nhất, cần nâng cao vai trò của các tổ
chức, hội nghề nghiệp kế toán. Theo đó, cần
có các giải pháp gia tăng vai trò quản lý,
đào tạo bồi dưỡng chuyên môn cho người
làm nghề kế toán; Giao quyền tổ chức thi
và cấp chứng chỉ hành nghề cho hội nghề
nghiệp; nâng cao uy tín hội nghề nghiệp; và
đẩy mạnh hoạt động giao lưu trao đổi quốc
tế với các hội nghề nghiệp ở các quốc gia
trên thế giới để học tập kinh nghiệm điều
5.5. Nhóm giải pháp tạo sức ép buộc các
ngân hàng thương mại áp dụng kế toán
giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế
Đối với các NHTM Việt Nam hiện nay,
việc áp dụng tự nguyện kế toán GTHL còn
chưa phổ biến, một trong những nguyên
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021
48
TRỊNH HỒNG HẠNH
nhân được các chuyên gia chỉ ra là do Chính
phủ chưa định hướng mạnh mẽ cho việc áp
dụng IFRS; Các NHTM Việt Nam đa phần
nhỏ, chưa chú trọng vào thu hút vốn trên thị
trường quốc tế. Do vậy cần phải thực hiện
những giải pháp sau để tạo sức ép, buộc các
NHTM áp dụng kế toán GTHL theo chuẩn
mực quốc tế:
Thứ nhất, Chính phủ cần công bố chính
thức trên phương diện quốc tế, đưa ra cam
kết cụ thể để đưa Việt Nam vào danh sách
các quốc gia và vùng lãnh thổ áp dụng
IFRS. Đồng thời, cần có sự điều hành chỉ
đạo của Chính phủ trong việc tuyên truyền
quảng bá cho việc áp dụng IFRS. Phải xác
định việc hoà hợp hay hội tụ với kế toán
quốc tế không phải là việc riêng của Bộ Tài
chính mà cần có sự vào cuộc của các Bộ,
Ban ngành có liên quan.
thấy, các nhân tố cản trở hoặc là làm cho
việc sử dụng GTHL cũng như quá trình hội
tụ với IFRS của Việt Nam còn diễn ra chậm
chạp sắp xếp theo thứ tự từ mạnh đến yếu
bao gồm: cảm nhận về bất lợi của GTHL,
môi trường pháp luật, môi trường nghề
nghiệp, môi trường kinh doanh và môi
trường kinh tế; Nhân tố đang tạo ra động
lực lớn nhất cho việc sử dụng GTHL tại
các NHTM Việt Nam cũng là nhân tố có
ảnh hưởng lớn nhất đến mức độ sử dụng
GTHL là Cảm nhận về lợi ích của GTHL.
Trên cơ sở mức độ ảnh hưởng mạnh yếu
của các nhân tố đó, bài viết đã đưa ra các
nhóm giải pháp tương ứng nhằm áp dụng
kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc tế tại
các NHTM Việt Nam trong thời gian tới.
Tuy nhiên, nghiên cứu này còn có hạn chế
là việc thu thập thông tin từ các NHTM
Việt Nam chưa phân biệt được theo quy mô
ngân hàng. Điều này cũng có ảnh hưởng
đến việc nhận thức, nhu cầu và khả năng áp
dụng kế toán GTHL theo chuẩn mực quốc
tế. Hơn nữa, mô hình nghiên cứu mới chỉ
dừng lại ở việc xem xét ảnh hưởng của các
nhân tố (biến độc lập) đến việc áp dụng kế
toán GTHL tại các NHTM Việt Nam (biến
phụ thuộc). Trong thực tế thì các mối quan
hệ sẽ phức tạp hơn, những biến độc lập sẽ
có những mối quan hệ, có ảnh hưởng lẫn
nhau và còn chịu ảnh hưởng bởi cơ chế thực
thi pháp luật. Do vậy, kết quả nghiên cứu
mang tính chất là những phác thảo ban đầu,
cho cái nhìn cơ bản về mô hình các nhân tố
ảnh hưởng đến áp dụng kế toán GTHL tại
các NHTM Việt Nam ■
Thứ hai, Bộ Tài chính cần sớm quyết định
và tuyên bố lộ trình cũng như lựa chọn mô
hình áp dụng IFRS phù hợp với Việt Nam.
Việc tuyên bố lộ trình là cần thiết để có
mục tiêu hành động rõ ràng.
6. Kết luận
Bài viết đã tổng hợp các tổng quan nghiên
cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp
dụng kế toán GTHL để xây dựng mô hình
nghiên cứu, lấy phiếu khảo sát thực tế và
kiểm định bằng công cụ thống kê SPSS để
xác định các nhân tố và mức độ ảnh hưởng
của các nhân tố đến việc áp dụng kế toán
GTHL theo chuẩn mực quốc tế của các
NHTM Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho
Tài liệu tham khảo
Archambault, J. J., and Archambault, M. E. (2003), A multinational test of determinants of corporate disclosure, The
International Journal of Accounting, 38, 173–194.
Ashraf, J., and Ghani, W. I. (2005), Accounting development in Pakistan, The International Journal of Accounting, 40,
175–201.
Askary, S. (2006), Accounting professionalism – a cultural perspective of developing countries, Managerial Auditing
Journal, 21(1), 102-111.
Bộ Tài chính (2008), 26 CMKT Việt Nam (2001-2006), Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê.
Số 228- Tháng 5. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
49
Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam
Chand, P., and Patel, C. (2008), Convergence and harmonization of accounting standards in the South Pacific region,
Advances in Accounting, incorporating Advances in International Accounting, 24, 83–92.
Chen, S., Sun, Z., and Wang, Y. (2002), Evidence from China on whether harmonized accounting standards harmonize
accounting practices, Accounting Horizons, 16(3), 183-197.
Dương Thị Thảo (2013), Một số giải pháp hoàn thiện các qui định về sử dụng giá trị hợp lý trong chế độ kế toán DN
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính.
Floropoulos, I. (2006), IFRS- First time users: some empirical evidence from Greek companies, SPOUDAI, 56(3), 39-
70.
Francis, J., Schipper, K. & Vincent, L. (2002), Earnings announcements and competing information, Journal of
Accounting and Economics, 33, 313-342
Gray, S. J. (1988), Towards a theory of cultural influence on the development of accounting systems internationally,
Abacus, 24, 1-15.
Hà Thị Ngọc Hà (2016), Cập nhật chuẩn mực kế toán Việt Nam phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế với việc góp
org.vn/.
Hair, J.F. Jr., Anderson, R.E., Tatham, R.L., & Black, W.C. (1998), Multivariate Data Analysis, (5th Edition), Upper
Saddle River, NJ: Prentice Hall.
Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008). Phân tích Dữ liệu nghiên cứu với SPSS, NXB Đại học Kinh tế TP
HCM.
Hofstede G. (1980), Culture’s consequences: international differences in work-related values, Bevarly HILLS, CA:
Sage.
Hofstede G. (1983), The cultural relativity of organizational practices and theories, Journal of International Business
Studies, 14(2), 75-89.
Hofstede G. (1984), Cultural Dimensions in Management and Planning, Asian and Pacific Journal of Management,
83-84.
Hung, M,. and Subramanyam, K. R. (2007), Financial statement effects of adopting international accounting standards:
the case of Germany, Review of Accounting Studies, 12(4), 623-657.
IFRS 13- Fair Value Measurement; IFRS 9 Financial Instruments ; IAS 32 Financial Instruments: Presentation; IAS
Irvine, H. (2008), The global institutionalization of financial reporting: the case of the United Arab Emirates,
Accounting Forum, 32, 125–142.
Irvine, H. J., and Lucas, N. (2006), The rational and impact of the adoption of International Financial Reporting
Standards: the case of the United Arab Emirates, 18th Asian-Pacific Conference on International Accounting
Issues, 1-22.
Joshi, P. L., and Ramadhan, S. (2002), The adoption of international accounting standards by small and closely held
companies: evidence from Bahrain, The International Journal of Accounting, 37, 429-440.
Lê Hoàng Phúc (2012), Thực trạng và định hướng sử dụng giá trị hợp lý trong kế toán Việt Nam, Tạp chí kiểm toán, Số
1.
Lundqvist, P., Marton, J., Pettersson, A. K., and Rehnberg, P. (2008), IFRS -implementation in listed companies-
identification of factors leading to inconsistent application, Conference paper, School of Business, Economics and
Law, Gothenburg University.
Mai Ngọc Anh (2011), Có nên sử dụng giá trị hợp lý là cơ sở tính giá duy nhất trong
kế toán tài chính, Tạp chí Nghiên cứu khoa học Kiểm toán, số tháng 3.
Nguyễn Thế Lộc, 2010, Tính thích hợp và đáng tin cậy của giá trị hợp lý trong hệ thống chuẩn mực BCTC quốc tế. Tạp
chí Phát triển & Hội nhập, số 3.
Perera, H., and Baydoun, N. (2007), Convergence with International Financial Reporting Standards: the case of
Indonesia, Advances in International Accounting, 20, 201–224.
Spathis, C., and Geograkopoulou E. (2007), The adoption of IFRS in South Eastern Europe: the case of Greece. Int. J.
Financial Services Management, 2(1/2), 50-63.
Quốc hội, 2015, Luật kế toán Việt Nam.
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 228- Tháng 5. 2021
50
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp áp dụng kế toán giá trị hợp lý theo chuẩn mực quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- giai_phap_ap_dung_ke_toan_gia_tri_hop_ly_theo_chuan_muc_quoc.pdf