Giáo trình Kế toán quản trị - Nghề: Kế toán doanh nghiệp
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH
GIÁO TRÌNH
MÔN HỌC: KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
NGHỀ: KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG
Ban hành kèm theo Quyết định số: / QĐ-… ngày ….. tháng …. năm 2017
của Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình
Ninh Bình, năm 2018
1
TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể
được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và
tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh
doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
2
LỜI NÓI ĐẦU
Kế toán quản trị là môn học chuyên môn của nghề kế toán doanh nghiệp.
Môn học này được học sau các môn học: tài chính, thống kê, kế toán hành chính
sự nghiệp, kế toán doanh nghiệp. Đây là một bộ phận quan trọng của hệ thống
kế toán được hình thành và phát triển thích ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị
trường có cạnh tranh hiện nay. Kế toán quản trị có chức năng cung cấp và xử lý
thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh một cách cụ thể. Là tài liệu cần thiết
đối với cán bộ tài chính kế toán đang thực tế làm việc tại doanh nghiệp.
Giáo trình biên soạn nhằm phục vụ giảng dạy, học tập của giáo viên và sinh
viên chuyên ngành kế toán doanh nghiệp. Giáo trình do tập thể giáo viên tổ kinh
tế biên soạn, đã được hội đồng thẩm định của trường Cao đẳng nghề Cơ giới
Ninh Bình xét duyệt, được viết cô đọng gồm 5 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về kế toán quản trị
-
-
-
Chương 2: Phân loại chi phí và phân tích biến động chi phí
Chương 3: Phân tích mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận và
thông tin thích hợp với quyết định ngắn hạn
-
-
Chương 4: Dự toán sản xuất kinh doanh
Chương 5: Xác định chi phí và định giá sản phẩm
Mặc dù tập thể nhóm biên soạn đã có rất nhiều cố gắng trong quá trình biên
soạn, song không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Nhóm biên soạn rất mong
nhận được những đóng góp ý kiến chân thành của bạn đọc.
Trân trọng cảm ơn!
Nhóm biên soạn
1. Chủ biên : Đào Thị Thủy
2. Đinh Thị Như Quỳnh
3. An Thị Hạnh
3
CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC
KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
Mã môn học: MH29
Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của môn học:
- Vị trí: Môn học Kế toán quản trị được bố trí giảng dạy sau khi học xong
các môn học cơ sở.
- Tính chất: Môn học kế toán quản trị là môn học chuyên môn của nghề.
Mục tiêu của môn học:
- Về kiến thức:
+ Trình bày được khái niệm, mục tiêu và nhiệm vụ của kế toán quản trị trong
doanh nghiệp;
+ Trình bày được các loại chi phí phát sinh trong doanh nghiệp;
+ Trình bày được các phương pháp xác định chi phí và đánh giá sản phẩm.
- Về kỹ năng:
+ Thu thập được các thông tin trong quyết định kinh doanh ngắn hạn;
+ Tính được các chỉ tiêu về chi phí, định giá sản phẩm, quyết định giá bán sản
phẩm;
+ Phân tích và lựa chọn được thông tin cần cung cấp cho đối tượng sử
dụng;
+ Phân tích được các thông tin cho nhà quản lý trong việc lập kế hoạch
điều hành, tổ chức thực hiện kế hoạch và quản lý hoạt động kế toán tài chính
trong nội bộ doanh nghiệp;
+ Vận dụng được các thông tin kinh tế trong việc ra quyết định kinh
doanh ngoài thực tế.
- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Có ý thức học tập nghiêm túc; tuân thủ
chế độ kế toán do Nhà nước ban hành
Nội dung của môn học:
4
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
Giới thiệu:
Chương 1 nhằm trang bị cho người học những kiến thức về vai trò, mục
tiêu, nhiệm vụ của kế toán quản trị, giới thiệu phương pháp hạch toán kế toán để
thực hành ghi chép vào hoạt động chủ yếu trong đơn vị kế toán.
Mục tiêu:
- Trình bày được khái niệm, mục tiêu và nhiệm vụ của kế toán quản trị;
- Phân biệt được sự giống và khác nhau giữa kế toán quản trị kế toán tài
chính và kế toán chi phí;
- Vận dụng được vai trò của kế toán quản trị trong việc thực hiện chức
năng quản lý;
- Lựa chọn và sử dụng các kỹ thuật nghiệp vụ cơ bản về kế toán quản trị,
đo lường kết quả của các mặt hoạt động, các đơn vị, các nhà quản trị và nhân
viên trong tổ chức;
- Trung thực, nghiêm túc trong nghiên cứu
Nội dung chính:
1. Khái niệm, mục tiêu và nhiệm vụ của kế toán quản trị
1.1. Khái niệm của kế toán quản trị
Chức năng của kế toán là cung cấp thông tin về hoạt động của một đơn vị,
một tổ chức. Trong các doanh nghiệp, thông tin kế toán không những cần thiết
cho người ra quyết định quản lý ở bên trong doanh nghiệp mà còn cần thiết cho
các đối tượng ở bên ngoài doanh nghiệp. Do có phạm vi cung cấp, phục vụ
thông tin khác nhau nên kế toán doanh nghiệp được chia thành kế toán tài chính
và kế toán quản trị.
Khác với các thông tin của kế toán tài chính chủ yếu phục vụ cho các đối
tượng bên ngoài doanh nghiệp, kế toán quản trị cung cấp thông tin thoả mãn nhu
cầu của các nhà quản trị doanh nghiệp, là những người mà các quyết định và
hành động của họ ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của doanh nghiệp đó. Kế
toán quản trị không những cung cấp thông tin cho các nhà quản trị cấp cao để ra
quyết định kinh doanh, quyết định đầu tư và sử dụng các nguồn lực mà còn cung
cấp cả các thông tin về các mặt kỹ thuật để các nhà quản lý thừa hành sử dụng
thực thi trách nhiệm của mình.
Xuất phát điểm của kế toán quản trị là kế toán chi phí, nghiên cứu chủ yếu
về quá trình tính toán giá phí sản phẩm như giá phí tiếp liệu, giá phí sản xuất;
5
nhằm đề ra các quyết định cho phù hợp, xác định giá trị hàng tồn kho và kết quả
kinh doanh theo từng hoạt động. Dần dần cùng với sự phát triển của khoa học
quản lý nói chung, khoa học kế toán cũng có những bước phát triển mạnh mẽ,
đặc biệt từ năm 1957 trở lại đây, nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế
giới đã đi sâu nghiên cứu, áp dụng và sử dụng những thông tin kế toán phục vụ
cho yêu cầu quản lý. Sự phát triển mạnh mẽ của kế toán đã đặt ra hướng nghiên
cứu các công cụ kiểm soát và lập kế hoạch, thu nhận và xử lý thông tin phục vụ
cho việc ra quyết định quản trị gọi là kế toán quản trị.
Như vậy, kế toán quản trị là một khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp
thông tin về hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách cụ thể, phục vụ cho các
nhà quản lý trong việc lập kế hoạch, điều hành, tổ chức thực hiện kế hoạch và
quản lý hoạt động kinh tế, tài chính trong nội bộ doanh nghiệp.
Từ đó rút ra bản chất của kế toán quản trị như sau:
- Kế toán quản trị không chỉ thu nhận, xử lý và cung cấp các thông tin về
các nghiệp vụ kinh tế đã thực sự hoàn thành, đã ghi chép hệ thống hoá trong các
sổ kế toán mà còn xử lý và cung cấp các thông tin phục vụ cho việc ra quyết
định quản trị. Để có được các thông tin này, kế toán quản trị phải sử dụng các
phương pháp khoa học để phân tích, xử lý chúng một cách cụ thể, phù hợp với
nhu cầu thông tin của nhà quản trị. Hệ thống hoá các thông tin theo một trình tự
dễ hiểu và giải trình quá trình phân tích theo các chỉ tiêu cụ thể, phục vụ cho
công tác quản trị doanh nghiệp.
- Kế toán quản trị chỉ cung cấp những thông tin về hoạt động kinh tế tài
chính trong phạm vi yêu cầu quản lý nội bộ của một doanh nghiệp. Những thông
tin đó chỉ có ý nghĩa đối với những người, những bộ phận và những nhà điều
hành, quản lý doanh nghiệp, không có ý nghĩa đối với các đối tượng bên ngoài.
Vì vậy người ta nói kế toán quản trị là loại kế toán dành cho những người làm
công tác quản trị, trong khi đó kế toán tài chính không phục vụ trực tiếp mục
đích này.
- Kế toán quản trị là một bộ phận của công tác kế toán nói chung và là một
công cụ quan trọng không thể thiếu được đối với công tác quản lý nội bộ doanh
nghiệp.
1.2. Vai trò của kế toán quản trị
Kế toán quản trị cung cấp những thông tin kế toán cho các nhà quản lý
nhằm đạt được những mục tiêu của tổ chức đã đề ra. Nhà quản lý nhận được
thông tin này dưới hình thức như: báo cáo doanh thu, báo cáo chi phí, báo cáo
6
giá thành, các dự toán, các báo cáo hoạt động hàng tháng. Báo cáo kế toán quản
trị cung cấp thông tin phục vụ cho ba chức năng chủ yếu : hoạch định, kiểm soát
và ra quyết định. Nó cho phép các nhà quản trị sự hiểu biết chính xác và cụ thể
hơn về những vấn đề cần giải quyết. Các nhà quản trị sử dụng thông tin kế toán
quản trị vào mục đích kiểm soát thông qua việc tác động vào việc hình thành
quyết định của các thành viên, buộc các quyết định đó phải phù hợp với mục
tiêu chung của tổ chức.
a) Vai trò của báo cáo kế toán quản trị đối với việc hoạch định.
Việc lập kế hoạch trong một tổ chức liên quan đến hai vấn đề, đó là: xác
định mục tiêu của tổ chức và xây dựng những phương thức để đạt được mục tiêu
đó. Dự toán ngân sách trong kế toán quản trị là một công cụ để kế toán viên giúp
ban quản trị trong quá trình lập kế hoạch và kiểm soát việc thực hiện kế hoạch.
Vì vậy, kế toán quản trị phải trên cơ sở đã ghi chép, tính toán, phân tích chi phí,
doanh thu, lợi nhuận, kết quả từng loại hoạt động, từng sản phẩm, từng ngành
hàng,…lập các bảng dự toán chi phí, doanh thu, lợi nhuận, dự toán vốn …, để
cung cấp thông tin trong việc phác họa dự kiến tương lai nhằm mục đích phát
triển doanh nghiệp.
b) Vai trò của báo cáo kế toán quản trị đối với việc kiểm soát
Để giúp các nhà quản trị thực hiện chức năng kiểm soát, kế toán quản trị
sẽ cung cấp các báo cáo thực hiện, trong đó: so sánh những số liệu thực hiện so
với kế hoạch hoặc dự toán, liệt kê tất cả các sự khác biệt và đánh giá việc thực
hiện. Các báo cáo này có tác dụng như một hệ thống thông tin phản hồi để nhà
quản trị biết được kế hoạch đang thực hiện như thế nào, đồng thời nhận diện các
vấn đề hạn chế cần có sự điều chỉnh, thay đổi nhằm hướng hoạt động của tổ
chức về mụch tiêu xác định.
Vai trò của báo cáo kế toán quản trị phục vụ cho chức năng kiểm soát
biểu hiện qua :
+ Chức năng việc kiểm soát quản lý : thông tin trên báo cáo kế toán quản
trị cũng được dùng để đánh giá kết quản hoạt động của các đơn vị được phân
quyền trong doanh nghiệp như là các đơn vị trực tiếp kinh doanh, các phòng
ban, bộ phận. Các tiêu chuẩn đánh giá kết quả kinh tế cung cấp một sự kết nối
giữa chiến lược của một doanh nghiệp và sự thi hành chiến lược đó bởi các đơn
vị hoạt động riêng lẻ trong doanh nghiệp.
+ Chức năng kiểm soát hoạt động : thông tin trên báo cáo kế toán quản trị
cũng là một trong các phương tiện chính mà qua nó các nhân viên, nhà quản trị
7
nhận được thông tin phản hồi về kết quả của họ, cho phép họ học hỏi từ quá khứ
và cải thiện trong tương lai. Các doanh nghiệp sẽ thành công và thịnh vượng
thông qua việc thiết kế các sản phẩm và dịch vụ đến khách hàng thông qua các
quy trình hoạt động có hiệu quả.
c) Vai trò của báo cáo kế toán quản trị đối với việc ra quyết định
Chức năng ra quyết định đòi hỏi nhà quản trị phải có sự chọn lựa thích
hợp trong nhiều phương án khác nhau được đưa ra. Các quyết định trong một tổ
chức có thể là quyết định chiến lược ảnh hưởng lâu dài đến tổ chức. Tất cả các
quyết định đều có nền tản từ thông tin, và phần lớn thông tin đều do kế toán
quản trị cung cấp nhằm phục vụ chức năng ra quyết định của nhà quản trị. Vì
vậy, kế toán quản trị phải cung cấp thông tin linh hoạt kịp thời và mang tính hệ
thống, trên cơ sở đó phân tích các phương án thiết lập để lựa chọn phương án tối
ưu nhất cho việc ra quyết định. Các thông tin cũng có thể diễn đạt dưới dạng mô
hình toán học, đồ thị, biểu đồ, … để nhà quản trị có thể xử lý nhanh chóng
1.3. Mục tiêu của kế toán quản trị
Mục đích và yêu cầu của kế toán quản trị là phải tính toán được chi phí sản
xuất từng loại sản phẩm, từng ngành hoạt động, từng công tác dịch vụ...., phân
tích được kết quả tiêu thụ từng loại sản phẩm, kết quả cung cấp từng công trình,
dịch vụ để từ đó, tập hợp được các dữ kiện cần thiết để dự kiến phương hướng
phát triển trong tương lai của doanh nghiệp. Ngoài ra, kế toán quản trị còn phải
biết theo dõi thị trường để ổn định một chương trình sản xuất và tiêu thụ hợp lý,
một mặt đáp ứng các nhu cầu do thị trường đòi hỏi, mặt khác tìm các biện pháp
cạnh tranh để tiêu thụ hàng hoá, nghiên cứu các chính sách giá cả, tính toán
được các bước phát triển, mở rộng doanh nghiệp trong từng thời kỳ, từng giai
đoạn theo chiều hướng có lợi.
Như vậy, kế toán quản trị là một phương pháp xử lý các dữ kiện để đạt
được các mục tiêu sau đây:
- Biết được từng thành phần chi phí, tính toán và tổng hợp chi phí sản
xuất, giá thành cho từng loại sản phẩm, từng loại công trình dịch vụ.
- Xây dựng được các khoản dự toán ngân sách cho các mục tiêu hoạt động.
- Kiểm soát thực hiện và giải trình các nguyên nhân chênh lệch giữa chi
phí theo dự toán và thực tế.
- Cung cấp các thông tin cần thiết để có các quyết định kinh doanh hợp lý.
8
2. Kế toán quản trị, kế toán tài chính và kế toán chi phí
2.1. Kế toán quản trị và kế toán tài chính
Kế toán tài chính và kế toán quản trị là hai bộ phận của kế toán doanh
nghiệp, chúng có mối quan hệ chặt chẽ, đồng thời cũng có nhiều điểm khác biệt
nhau.
a. Sự giống nhau giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính
Kế toán tài chính và kế toán quản trị có nhiều điểm giống nhau và là hai
bộ phận không thể tách rời của kế toán doanh nghiệp. Những điểm giống nhau
cơ bản là:
- Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều đề cập đến các sự kiện kinh tế
trong doanh nghiệp và đều quan tâm đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn sở hữu,
doanh thu, chi phí và kết quả hoạt động và quá trình lưu chuyển tiền tệ của
doanh nghiệp. Một bên phản ánh tổng quát và một bên phản ánh chi tiết, tỉ mỉ
của các vấn đề đó.
- Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều dựa trên hệ thống ghi chép ban
đầu của kế toán. Hệ thống ghi chép ban đầu là cơ sở để kế toán tài chính soạn
thảo các báo cáo tài chính định kỳ, cung cấp cho các đối tượng ở bên ngoài. Đối
với kế toán quản trị, hệ thống đó cũng là cơ sở để vận dụng, xử lý nhằm tạo ra
các thông tin thích hợp cho việc ra quyết định của các nhà quản trị. Kế toán
quản trị sử dụng rộng rãi các ghi chép hàng ngày của kế toán tài chính, mặc dù
có triển khai và tăng thêm số liệu cũng như nội dung của các thông tin đó.
- Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều biểu hiện trách nhiệm của
người quản lý. Kế toán tài chính biểu hiện trách nhiệm của người quản lý cao
cấp, còn kế toán quản trị biểu hiện trách nhiệm của các nhà quản lý các cấp trên
trong doanh nghiệp. Nói cách khác, kế toán tài chính hay kế toán quản trị đều là
công cụ quản lý doanh nghiệp.
b. Sự khác nhau giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính
Do có đối tượng sử dụng thông tin khác nhau, mục đích sử dụng thông tin
khác nhau nên giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính có nhiều khác biệt về cơ
bản:
- Về đối tượng sử dụng thông tin:
Đối tượng sử dụng thông tin của kế toán quản trị là các thành viên bên
trong doanh nghiệp: Các chủ sở hữu, Ban giám đốc, quản lý viên, giám sát viên,
các quản đốc... Trong khi đó, thông tin của kế toán tài chính chủ yếu lại cung
cấp cho các đối tượng ở bên ngoài doanh nghiệp như các cổ đông, người cho
9
vay, khách hàng, nhà cung cấp và chính phủ (cơ quan thuế, cơ quan quản lý tài
chính...).
- Về nguyên tắc trình bày và cung cấp thông tin:
Thông tin kế toán tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực và
chế độ hiện hành về kế toán của từng quốc gia, kể cả các nguyên tắc, chuẩn mực
quốc tế về kế toán được các quốc gia công nhận. Trái lại, trong nền kinh tế thị
trường, do yêu cầu phải nhạy bén và nắm bắt nhanh các cơ hội kinh doanh đa
dạng nên thông tin kế toán quản trị cần linh hoạt, nhanh chóng và thích hợp với
từng quyết định cụ thể của người quản lý, không buộc phải tuân thủ các nguyên
tắc,
chuẩn mực kế toán chung. Các quy định của Nhà nước về kế toán quản trị (nếu
có) cũng chỉ mang tính chất hướng dẫn.
- Về tính pháp lý của kế toán:
Kế toán tài chính có tính pháp lệnh, nghĩa là hệ thống sổ, ghi chép, trình
bày và cung cấp thông tin của kế toán tài chính đều phải tuân theo các quy định
thống nhất nếu muốn được thừa nhận. Ngược lại, tổ chức công tác quản trị lại
mang tính nội bộ, thuộc thẩm quyền của từng doanh nghiệp phù hợp với đặc thù
quản lý, yêu cầu quản lý, điều kiện và khả năng quản lý cụ thể của từng doanh
nghiệp.
- Về đặc điểm của thông tin.
Thông tin của kế toán tài chính chủ yếu dưới hình thức giá trị. Còn thông
tin của kế toán quản trị được biểu hiện cả hình thái hiện vật và hình thái giá trị.
Thông tin của kế toán tài chính là thông tin thực hiện về những nghiệp vụ
đã phát sinh, đã xảy ra. Trong khi đó, thông tin của kế toán quản trị chủ yếu đặt
trọng tâm cho tương lai vì phần lớn nhiệm vụ của nhà quản trị là lựa chọn
phương án, đề án cho một sự kiện hoặc một quá trình chưa xảy ra.
Thông tin kế toán tài chính chủ yếu là các thông tin kế toán thuần tuý,
được thu thập từ các chứng từ ban đầu về kế toán. Trong kế toán - quản trị,
thông tin được thu thập nhằm phục vụ cho chức năng ra quyết định của nhà quản
lý và thường không có sẵn, nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu
của kế toán, kế toán quản trị còn phải kết hợp với nhiều ngành khoa học khác
như thống kê, hoạch toán nghiệp vụ, kinh tế học, quản lý để tổng hợp, phân tích
và xử lý thông tin thành dạng có thể sử dụng được.
- Về hình thức báo cáo sử dụng:
10
Báo cáo được sử dụng trong kế toán tài chính là các báo cáo kế toán tổng
hợp (gọi là các Báo cáo tài chính) phản ánh tổng quát về sản nghiệp, kết quả
hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ (gồm Bảng cân đối kế toán; Báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; Thuyết minh báo
cáo tài chính).
Báo cáo của kế toán quản trị đi sâu vào từng bộ phận, từng khâu công
việc của doanh nghiệp (như báo cáo chi phí sản xuất và giá thành, báo cáo nợ
phải trả, báo cáo nhập xuất và tồn kho của hàng tồn kho...).
- Về kỳ báo cáo:
Kỳ báo cáo của kế toán quản trị thường xuyên hơn và ngắn hơn kỳ báo
cáo của kế toán tài chính. Báo cáo của kế toán tài chính được soạn thảo theo
định kỳ, thường là hàng năm, còn báo cáo của kế toán quản trị được soạn thảo
thường xuyên theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp.
2.2. Kế toán chi phí với kế toán quản trị
Giai đoạn đầu của kế toán quản trị được hình thành từ kế toán chi phí giúp
cho việc xác định và kiểm tra chi phí của các nhà quản trị. Song kế toán chi phí
cung cấp cả thông tin kế toán tài chính và kế toán quản trị vì đối tượng sử dụng
thông tin kế toán chi phí bao gồm các cá nhân, tổ chức bên ngoài và các nhà
quản trị bên trong doanh nghiệp.
Về mặt nội dung kế toán chi phí bao gồm hai bước cơ bản:
+ Tập hợp chi phí, tính giá thành, phân tích chênh lệch chi phí trong kỳ để
cung cấp thông tin KTQT và thông tin cho việc lập các báo cáo tài chính;
+ Cân đối chi phí, xử lý điều chỉnh chênh lệch chi phí và giá thành sản
phẩm trong kỳ về chi phí thực tế.
Thông tin kế toán chi phí cung cấp vừa mang tính linh hoạt thường xuyên,
mang tính chuẩn mực và định kỳ. Thông tin kế toán quản trị vừa mang tính linh
hoạt, thường xuyên và hữu ích, không bắt buộc phải tuân theo những chuẩn mực
của chế độ kế toán hiện hành.
Nếu như thông tin kế toán chi phí cung cấp là những thông tin quá khứ
được xử lý từ các tài liệu lịch sử, thông qua việc lập các báo cáo chi phí và giá
thành nhằm kiểm soát chi phí và hạ giá thành, thì thông tin kế toán quản trị cung
cấp bao gồm cả những thông tin quá khứ, và những thông tin dự báo thông qua
việc lập các kế hoạch và dự toán chi phí trên cơ sở các định mức chi phí (bao
gồm cả các định mức về số lượng và định mức về đơn giá) nhằm kiểm soát chi
phí thực tế, đồng thời làm căn cứ cho việc lựa chọn các quyết định về giá bán
11
sản phẩm, quyết định ký kết các hợp đồng, quyết định tiếp tục sản xuất hay thuê
ngoài gia công,…
Như vậy, kế toán quản trị nhấn mạnh đến tính dự báo của thông tin và
trách nhiệm của các nhà quản lý thuộc các cấp quản lý (trong đó tập trung vào
cấp quản trị cấp thấp như các tổ, đội, phân xưởng sản xuất hay bộ phận quản lý
và phục vụ- là nơi trực tiếp phát sinh các chi phí) nhằm gắn trách nhiệm của các
nhà quản trị với chi phí phát sinh thông qua hình thức thông tin chi phí được
cung cấp theo các trung tâm chi phí (nguồn gây ra chi phí); Kế toán chi phí quan
tâm đến các chi phí thực tế phát sinh theo loại chi phí, tổng mức chi phí và chi
tiết theo từng mặt hàng.
Kế toán quản trị trả lời câu hỏi chi phí sẽ là bao nhiêu, thay đổi như thế
nào khi có sự thay đổi về sản lượng sản xuất, ai phải chịu trách nhiệm giải thích
về những thay đổi bất lợi của chi phí và giải pháp cần đưa ra để điều chỉnh, thì
kế toán chi phí trả lời câu hỏi chi phí thực tế đã phát sinh là bao nhiêu, những
chi phí nào được tính vào giá thành sản phẩm, giá thành thực tế của từng đơn vị
sản phẩm.
2.3. Kế toán quản trị với các môn khoa học khác
Do thông tin kế toán quản trị được cung cấp để phục vụ cho chức năng
quản lý, nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán tài chính
thì kế toán quản trị cũng phải kết hợp và sử dụng nội dung của nhiều môn khoa
học khác như: kinh tế học, thống kê kinh tế, tổ chức quản lý doanh nghiệp, quản
trị đầu tư để tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin.
3. Vai trò của kế toán quản trị trong việc thực hiện các chức năng quản lý
3.1. Quá trình quản lý và chức năng quản lý
Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của thông tin kế toán quản trị ngày
càng được mở rộng và khẳng định vị thế phát triển. Lý do cơ bản dẫn đến kế
toán quản trị phát triển là do sự cạnh tranh khốc liệt của cá doanh nghiệp, các
tập đoàn, các quốc gia với nhau. Trong cuộc cạnh tranh đó có sự thành công và
thất bại của các doanh nghiệp, các tập đoàn, nhân tố quan trọng dẫn đến sự
thành công của cá nhà quản trị trên thương trường chính là thông tin kế toán
quản trị.
Mặt khác mô hình tổ chức quản lý cũng thay đổi theo sự phát triển của
công nghệ thông tin và các công cụ phân tích hiện đại thông qua hệ thống máy
tính. Thông tin kinh tế ngày càng hội nhập cao, mang tính chất toàn cầu, do vậy
quá trình thu thập, xử lý thông tin đòi hỏi phải nhanh, chính xác và mang tính
12
chuẩn mực của các thông lệ quốc tế. Trước đòi hỏi khách quan của nền kinh tế,
trình độ của các nhà quản trị ngày càng được nâng cao để đáp ứng và thỏa mãn
các thông tin của nền kinh tế hội nhập và phát triển.
Đó chính là nguyên nhân dẫn đến kế toán quản trị phát triển, do vậy tổ
chức kế toán quản trị trong các doanh nghiệp của nền kinh tế thị trường có thể
coi như một quy luật khách quan vốn có của nền kinh tế. Tính tất yếu khách
quan đó được thể hiện qua những đặc điểm sau:
- Các doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường phải tự chủ tài
chính, được quyền tự do quyết định mọi hoạt động, được giao lưu và hội nhập
quốc tế. Do vậy, tính cạnh tranh của các doanh nghiêp càng mạnh mẽ, để đảm
bảo mọi quyết định đưa ra có độ tin cậy cao cần phải dựa vào hệ thống thông tin
kế toán quản trị.
- Hệ thống kế toán tài chính của các doanh nghiệp thuộc nền kinh tế thị
trường thường phù hợp với các thông lệ quốc tế, đó là nguyên nhân dẫn đến tính
hội nhập cao, dẫn đến kế toán quản trị phát triển và hoàn toàn độc lập với kế
toán tài chính.
3.2. Phương pháp nghiệp vụ của kế toán quản trị
Thông tin mà kế toán quản trị thu thập được thường thông qua nhiều
thước đo khác nhau như hiện vât, giá trị, thời gian, chủng loại, cơ cấu… Để xử
lý những thông tin này phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh, kế toán quản
trị ngoài việc sử dụng các phương pháp truyền thống còn sử dụng những phương
pháp đặc trưng để đảm bảo cho các quyết định kinh doanh tối ưu.
- Các phương pháp truyền thống:
Phương pháp chứng từ. Chứng từ là bằng chứng để ghi nhận thông tin kế
toán quản trị ngay từ ban đầu các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. Chứng
từ ghi nhận thông tin kế toán quản trị về cơ bản tương tự như chứng từ ghi nhận
thông tin kế toán tài chính song có điểm khác biệt vì xuất phát từ mục tiêu của
hai phân hệ thông tin kế toán. Chứng từ của kế toán quản trị thường yêu cầu cao
tính trung thành của nghiệp vụ kinh tế phát sinh, trong khi đó chứng từ của kế
toán tài chính thường ưu tiên tính pháp lý của nghiệp vụ phát sinh.
Phương pháp tài khoản kế toán. Trong kế toán tài chính các tài khoản
được mở nhằm đáp ứng mục tiêu lập báo cáo tài chính các tài khoản được mở
nhằm đáp ứng mục tiêu lập báo cáo tài chính cung cấp thông tin chủ yếu ra bên
ngoài doanh nghiệp. Trong khi đó các tài khoản kế toán quản trị được mở xuất
phát từ nhu cầu của các nhà quản trị nội bộ để theo dõi và điều hành các hoạt
13
động kinh doanh. Ví dụ: Tài khoản doanh thu dưới góc độ kế toán quản trị có
thể được mở theo nhiều tiêu thức khác nhau như sản phẩm, địa điểm, thời gian,
nhóm mặt hàng, thị trường… nhằm phục vụ nhu cầu quản trị của từng cấp.
Trong khi tài khoản doanh thu dưới góc độ kế toán tài chính chủ yếu để lập hệ
thống báo cáo tài chính phục vụ cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp.
Phương pháp tính giá. Trong kế toán quản trị sử dụng nhiều phương pháp
tính giá khác nhau nhằm phản ánh chính xác đối tượng chịu chi phí để đưa ra
quyết định lựa chọn phương án tối ưu. Hiện tại trong các doanh nghiệp vẫn có
sự giao thoa giữa tính giá dưới góc độ kế toán tài chính và tính giá dưới góc độ
kế toán quản trị. Tính giá dưới góc độ kế toán tài chính thường hướng tới xác
định giá thực tế hàng tồn kho, chi phí cho mục tiêu quyết toán thuế thu nhập
doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài quan tâm cho các hoạt động kinh
doanh đã xảy ra, song tính giá dưới góc độ kế toán quản trị thường hướng tới
xác định chính xác đối tượng chịu chi phí phục vụ cho việc ra quyết định tối ưu
cho những phương án tương lai.
- Phương pháp tổng hợp cân đối kế toán. Trong kế toán quản trị hệ thống
báo cáo kế toán rất đa dạng và phong phú xuất phát từ đặc điểm kinh doanh của
các doanh nghiệp khác nhau và nhu cầu quản trị của từng cấp. Trong khi đó hệ
thống báo cáo kế toán tài chính thường thống nhất về hình thức và các chỉ tiêu
báo cáo.
Như ta đã biết kế toán quản trị là một bộ phận cấu thành của hệ thống
thông tin kế toán nói chung trong các doanh nghiệp, do vậy ngoài các phương
pháp sử dụng chung của kế toán như: Phương pháp chứng từ, phương pháp tài
khoản, phương pháp tính giá và phương pháp tổng hợp cân đối kế toán đã trình
bày, còn sử dụng một số phương pháp đặc thù để làm sáng tỏ thông tin kế toán
quản trị phục vụ nhu cầu quản lý.
- Các phương pháp đặc trưng của kế toán quản trị:
Phương pháp phân loại chi phí. Kế toán quản trị nghiên cứu nhiều tiêu
thức phân loại chi phí khác nhau nhằm tạo lập các thông tin thích hợp cho việc
ra quyết định ứng xử loại chi phí nhằm giảm thấp chi phí cho doanh nghiệp. Các
tiêu thức phân loại chi phí khác nhau sẽ được ứng dụng trong việc lập các báo
cáo kết quả kinh doanh và phân tích chi phí nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao
nhất. Các tiêu thức phân loại chi phí giúp cho các nhà quản trị hiểu được bản
chất của các yếu tố chi phí phát sinh trong doanh nghiệp, từ đó có các biện pháp
kiểm soát và ra quyết định thích hợp.
14
Phương pháp tách chi phí hỗn hợp thành biến phí và định phí giúp cho các
nhà quản trị dự đoán mức chi phí xảy ra, đồng thời để kiểm soát các khoản chi
phí phát sinh.
Phương pháp thiết kế thông tin dưới dạng so sánh. Thông tin muốn có ý
nghĩa thì phải có các tiêu chuẩn để so sánh từ các số liệu thu thập được. Kế toán
quản trị cần xây dựng những tiêu chuẩn so sánh khoa học để các thông tin sau
khi xử lý có độ tin cậy cao. Thông tin so sánh trong kế toán quản trị thường
được thiết kế dưới dạng bảng, biểu đồ, đồ thị, phương trình, hàm số… Ví dụ: kế
toán quản trị phải cung cấp các thông tin thực hiện để so sánh với các kế hoạch,
định mức hoặc dự toán chi phí… để từ đó đưa ra các phương án lựa chọn.
Dạng phương trình rất thuận tiện cho việc tính và dự toán một số quá trình
sản xuất chưa xảy ra nhằm để phân tích dự toán chi phí sản xuất. Ví dụ: Phân
tích chi phí hỗn hợp theo phương pháp cực đại, cực tiểu và phương pháp bình
phương bé nhất.
Trình bày các thông tin dưới dạng đồ thị, mô hình.
Phương pháp này cũng được kế toán quản trị sử dụng khá thông dụng.
Đồ thị là cách thể hiện dễ thấy nhất và chính xác nhất cho thấy được mối
quan hệ và xu hướng biến động của các thông tin do kế toán quản trị cung cấp
và xử lý. Từ đó các nhà quản trị thấy ngay được xu hướng biến động của từng
bộ phận mà đưa ra các thông tin ứng xử ngay từng hoạt động.
3.3. Tổ chức hệ thống bộ máy kế toán quản trị
Để phục vụ nhu cầu thông tin của các nhà quản trị trong việc đưa ra quyết
định điều hành mọi hoạt động kinh doanh trong các tổ chức hoạt động. Nội dung
tổ chức kế toán quản trị đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tổng thể của
doanh nghiệp. Tổ chức kế toán quản trị có thể theo chức năng thông tin kế toán
hoặc chu trình việc kế toán cụ thể trong các mô hình tổ chức kết hợp hay tách
biệt với kế toán tài chính.
* Tổ chức kế toán quản trị và kế toán tài chính theo mô hình kết hợp.
Theo mô hình này các chuyên gia kế toán đồng thời đảm nhiệm hai nhiệm vụ:
thu thập và xử lý thông tin kế toán tài chính và kế toán quản trị. Mô hình này có
ưu điẻm là kết hợp chặt chẽ thông tin kế toán tài chính và kế toán quản trị, tiết
kiệm chi phí, thu nhận thông tin nhanh. Song có hạn chế là chưa chuyên môn
hóa hai loại kế toán theo công nghệ hiện đại. Các công việc của kết toán được
thực hiện cho mỗi phần hành kế toán thường cụ thể hóa như sau:
15
- Căn cứ vào chứng từ ban đầu để ghi vào các sổ kế toán tài chính và kế
toán quản trị.
- Cuối kỳ hoặc theo yêu cầu của nhà quản trị kế toán tiến hành lập các báo
cáo kế toán: Báo cáo kế toán tài chính và báo cáo kế toán quản trị.
- Phân tích, đánh giá kết quả thu được so với dự toán, định mức đã xây
dựng.
- Xử lý thông tin, cung cấp kịp thời để phục vụ ra quyết định cho mọi đối
tượng.
* Tổ chức kế toán quản trị và kế toán tài chính theo mô hình tách biệt.
Theo mô hình này các chuyên gia kế toán quản trị độc lập với chuyên gia kế
toán tài chính. Mô hình này thường được vận dụng ở các doanh nghiệp có quy
mô lớn, số lượng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh với tần suất nhiều, kinh doanh
đa ngành, đa nghề. Mô hình này có ưu điểm là tách biệt thông tin kế toán tài
chính độc lập so với kế toán quản trị theo hướng cả hai đều có thể hiện đại hóa.
Song có hạn chế là chưa khái quát được thông tin của hai phân hệ với nhau. Các
công việc cụ thể của kế toán quản trị được cụ thể hóa như sau:
- Lập dự toán, định mức chi phí, ngân sách cho các bộ phận và toàn doanh
nghiệp.
- Căn cứ vào chứng từ ban đầu, hướng dẫn… để ghi vào các sổ kế toán
quản trị theo nhu cầu của các nhà quản trị.
- Tiến hành lập các báo cáo kế toán quản trị theo yêu cầu của nhà quản lý
và thực tế các doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá kết quả thu được so với các dự toán, định mức đã
xây dựng để đưa ra các thông tin thích hợp.
- Thu nhận thông tin thích hợp để phục vụ ra quyết định kinh doanh tối ưu
16
CHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI CHI PHÍ
VÀ PHÂN TÍCH BIẾN ĐỘNG CHI PHÍ
Giới thiệu:
Chương 2 nhằm trang bị cho người học những kiến thức về chi phí, cách
ứng xử chi phí trong hệ thống quản lý, các báo cáo về mô hình ứng xử chi phí và
báo cáo về cách ứng xử chi phí.
Mục tiêu:
- Trình bày được khái niệm về chi phí;
- Phân loại được chi phí sản xuất và lập được các báo cáo về mô hình ứng xử
chi phí;
- Tính được từng loại chi phí và lập được các báo cáo về cách ứng xử chi
phí;
- Vận dụng được cách ứng xử chi phí trong hệ thống quản lý;
- Trung thực, nghiêm túc trong nghiên cứu.
Nội dung chính:
1.
1.1. Khái niệm
Chi phí kinh doanh được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, tùy
Khái niệm và đặc điểm
theo mục đích và quan điểm của các nhà khoa học. Khi đưa ra khái niệm về chi
phí cũng được xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau. Mỗi khái niệm đều có một
cách nhìn nhận riêng, song đều quy về những điểm chung nhất trong hoạt động
của một tổ chức kinh tế.
17
- Theo quan điểm của các nhà Kinh tế Chính trị thì chi phí kinh doanh đó
là sự tiêu hao về lao động sống và lao động vật hóa của doanh nghiệp trong một
thời kỳ nhất định. Lao động sống đó là chi phí về nhân công trong hoạt động sản
xuất kinh doanh. Lao động vật hóa đó là chi phí về khấu hao các tài sản cố định,
nguyên vật liệu… Tất cả các khoản chi phí đó đều tạo ra giá thành sản phẩm,
dịch vụ của một kỳ hoạt động để đổi lấy kết quả thu về nhằm thỏa mãn các mục
tiêu khác nhau.
- Theo quan điểm của các Nhà Quản trị thì chi phí kinh doanh đó là sự
mất đi của nguyên vật liệu, tiền công, dịch vụ mua ngoài và các khoản chi phí
khác để tạo ra các kết quả của một tổ chức hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu
của thị trường. Trong nền kinh tế thị trường các nhà quản trị thường quan tâm
tới nhu cầu của khách hàng để sản xuất các sản phẩm, dịch vụ với chất lượng
cao và chi phí thấp, nhằm tối đa hóa các mục tiêu lợi nhuận.
- Dưới góc độ của kế toán tài chính, chi phí được coi là những khoản phí
tổn phát sinh gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ hạch
toán. Theo kế toán tài chính có những khoản chi phí phát sinh của kỳ này nhưng
không được tính vào chi phí trong kỳ để xác định kết quả hoặc ngược lại có
những khoản chi phí chưa phát sinh của kỳ này nhưng được tính vào chi phí
trong kỳ để xác định.
- Dưới góc độ của kế toán quản trị chi phí được coi là những khoản phí
tổn thực tế gắn liền với các phương án, sản phẩm, dịch vụ. Chi phí kinh doanh
theo quan điểm của kế toán quản trị bao giờ cũng mang tính cụ thể nhằm để xem
xét hiệu quả của bộ phận như thế nào, đó chính là cơ sở để đưa ra quyết định
đầu tư, chọn phương án tối ưu.
Như vậy có nhiều quan điểm và cách nhìn nhận khác nhau về chi phí,
song đều có điểm chung nhất đó là sự tiêu hao của các yếu tố sản xuất, các
nguồn lực tài chính sau một kỳ hoạt động để tạo ra các kết quả thu về.
Vậy, chi phí kinh doanh đó chính là sự tiêu hao các yếu tố sản xuất, các
nguồn lực trong một tổ chức hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu đã xác
định. Bản chất của chi phí đó là sự mất đi của các nguồn lực để đổi lấy các kết
quả thu về nhằm thỏa mãn các mục tiêu hoạt động.
1.2. Đặc điểm
- Chi phí là thước đo để đo lường mức tiêu hao của các nguồn lực
- Chi phí được biểu hiện bằng tiền
- Chi phí có quan hệ đến một mục đích
18
2. Phân loại chi phí
2.1. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Chi phí phát sinh trong các doanh nghiệp sản xuất, xét theo công dụng của
chúng, hay nói một cách khác, xét theo từng hoạt động có chức năng khác nhau
trong quá trình sản xuất kinh doanh mà chúng phục vụ, được chia thành hai loại
lớn: chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
2.1.1. Chi phí sản xuất
Giai đoạn sản xuất là giai đoạn chế biến nguyên vật liệu thành thành phẩm
bằng sức lao động của công nhân kết hợp với việc sử dụng máy móc thiết bị.
Chi phí sản xuất bao gồm ba khoản mục: chi phí nguyên liệu vật liệu trực tiếp,
chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp:
Khoản mục chi phí này bao gồm các loại nguyên liệu và vật liệu xuất dùng
trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Trong đó, nguyên vật liệu chính dùng để
cấu tạo nên thực thể chính của sản phẩm và các loại vật liệu phụ khác có tác
dụng kết hợp với nguyên vật liệu chính để hoàn chỉnh sản phẩm về mặt chất
lượng và hình dáng.
Chi phí nhân công trực tiếp:
Khoản mục chi phí này bao gồm tiền lương phải trả cho bộ phận công
nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm và những khoản trích theo lương của họ được
tính vào chi phí. Cần phải chú ý rằng, chi phí tiền lương và các khoản trích theo
lương của bộ phận công nhân phục vụ hoạt động chung của bộ phận sản xuất
hoặc nhân viên quản lý các bộ phận sản xuất thì không bao gồm trong khoản
mục chi phí này mà được tính là một phần của khoản mục chi phí sản xuất
chung.
Chi phí sản xuất chung:
Chi phí sản xuất chung là các chi phí phát sinh trong phạm vi các phân
xưởng để phục vụ hoặc quản lý quá trình sản xuất sản phẩm. Khoản mục chi phí
này bao gồm: chi phí vật liệu phục vụ quá trình sản xuất hoặc quản lý sản xuất,
tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý phân xưởng, chi
phí khấu hao , sửa chữa và bảo trì máy móc thiết bị, nhà xưởng, chi phí dịch vụ
mua ngoài phục vụ sản xuất và quản lý ở phân xưởng, v.v..
Ngoài ra, trong kế toán quản trị còn dùng các thuật ngữ khác: chi phí ban
đầu (prime cost) để chỉ sự kết hợp của chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp và
19
chi phí nhân công trực tiếp; chi phí chuyển đổi (conversion cost) để chỉ sự kết
hợp của chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
2.1.2 Chi phí ngoài sản xuất
Đây là các chi phí phát sinh ngoài quá trình sản xuất sản phẩm liên quan
đến qúa trình tiêu thụ sản phẩm hoặc phục vụ công tác quản lý chung toàn doanh
nghiệp. Thuộc loại chi phí này gồm có hai khoản mục chi phí: Chi phí bán hàng
và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Chi phí bán hàng:
Khoản mục chi phí này bao gồm các chi phí phát sinh phục vụ cho khâu
tiêu thụ sản phẩm. Có thể kể đến các chi phí như chi phí vận chuyển, bốc dỡ
thành phẩm giao cho khách hàng, chi phí bao bì, khấu hao các phương tiện vận
chuyển, tiền lương nhân viên bán hàng, hoa hồng bán hàng, chi phí tiếp thị
quảng cáo, .v.v..
Chi phí quản lý doanh nghiệp:
Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm tất cả các chi phí phục vụ cho công
tác tổ chức và quản lý quá trình sản xuất kinh doanh nói chung trên giác độ toàn
doanh nghiệp. Khoản mục này bao gồm các chi phí như: chi phí văn phòng, tiền
lương và các khoản trích theo lương của nhân viên quản lý doanh nghiệp, khấu
hao tài sản cố định của doanh nghiệp, các chi phí dịch vụ mua ngoài khác, v.v..
2.2 . Phân loại theo mối quan hệ với thời kỳ xác định lợi nhuận
Khi xem xét cách tính toán và kết chuyển các loại chi phí để xác định lợi
tức trong từng kỳ hạch toán, chi phí sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp
sản xuất được chia làm hai loại là chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
Chi phí sản phẩm (product costs)
Chi phí sản phẩm bao gồm các chi phí phát sinh liên quan đến việc sản
xuất sản phẩm, do vậy các chi phí này kết hợp tạo nên giá trị của sản phẩm hình
thành qua giai đoạn sản xuất (được gọi là giá thành sản xuất hay giá thành công
xưởng). Thuộc chi phí sản phẩm gồm các khoản mục chi phí nguyên liệu, vật
liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Xét theo
mối quan hệ với việc xác định lợi tức trong từng kỳ hạch toán, chi phí sản phẩm
chỉ được tính toán, kết chuyển để xác định lợi tức trong kỳ hạch toán tương ứng
với khối lượng sản phẩm đã được tiêu thụ trong kỳ đó. Chi phí của khối lượng
sản phẩm tồn kho chưa được tiêu thụ vào cuối kỳ sẽ được lưu giữ như là giá trị
tồn kho và sẽ được kết chuyển để xác định lợi tức ở các kỳ sau khi mà chúng
20
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kế toán quản trị - Nghề: Kế toán doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- giao_trinh_ke_toan_quan_tri_nghe_ke_toan_doanh_nghiep.pdf