Giáo trình Thuế - Nghề: Kế toán doanh nghiệp

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN  
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH  
GIÁO TRÌNH  
MÔN HỌC: THUẾ  
NGHỀ: KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP  
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG  
Ban hành kèm theo Quyết định số: /QĐ-TCGNB ngày…….tháng….năm 20  
của Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình  
Ninh Bình, năm 2018  
2
 
TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN  
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được  
phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham  
khảo.  
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh  
doanh thiếu lành mạnh sẽ bnghiêm cấm.  
3
LỜI NÓI ĐẦU  
Thuế là môn học thuộc nhóm các môn học chuyên ngành, có vị trí quan  
trọng trong khoa học kinh tế quản lý nói chung và khoa học kế toán nói riêng.  
Thuế không chỉ nguồn thu chủ yếu cho Ngân sách nhà nước mà còn là công  
cụ điều tiết vĩ mô quan trọng hiệu quả của nền kinh tế. Thông qua chính sách  
thuế, Nhà nước khuyến khích đầu tư, sản xuất và tiêu dùng đối với từng mặt  
hàng, ngành nghề, lĩnh vực trọng điểm được ưu đãi; đồng thời hạn chế đầu tư,  
sản xuất đối với ngành nghề mà Nhà nước chủ trương thu hẹp trong từng giai  
đoạn nhất định. thể nói, kiến thức về thuế cần thiết hữu ích cho tất cả  
các chủ thể trong nền kinh tế và cho toàn hội.  
Giáo trình biên soạn theo chương trình dạy nghề trình độ Cao đẳng nghề  
kế toán doanh nghiệp của Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình năm 2018 nhằm  
phục vụ giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh viên chuyên ngành Kế toán  
doanh nghiệp. Giáo trình bao gồm:  
Bài mở đầu:  
Chương 1: Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu  
Chương 2: Thuế tiêu thụ đặc biệt  
Chương 3: Thuế giá trị gia tăng  
Chương 4: Thuế thu nhập doanh nghiệp  
Chương 5: Thuế và các khoản phí, lệ phí khác.  
Để biên soạn giáo trình, chúng tôi đã tham khảo các tài liệu: Giáo trình Lý  
thuyết Thuế của Vụ trung học chuyên nghiệp, Thuế thực hành (Lý thuyết và bài  
tập), ….  
Giáo trình Thuế đã được Hội đồng thẩm định Trường Cao đẳng Cơ giới  
Ninh Bình xét duyệt.  
Tuy nhiên trong quá trình biên soạn không tránh khỏi những sai sót, rất  
mong được sự đóng góp quý báu chân thành của bạn đọc.  
Ngày….. tháng…năm 2018  
Tham gia biên soạn:  
Chủ biên: 1. Thị Hạnh  
2. Cao Thị Kim Cúc  
3. Nguyễn Thị Nhung  
4
MỤC LỤC  
5
6
7
GIÁO TRÌNH MÔN HỌC  
Tên môn học: Thuế  
Mã môn học: MH33  
Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của môn học:  
- Vị trí: Môn học được bố trí giảng dạy sau khi đã học xong các môn học  
cơ sở;  
- Tính chất: Là môn học chuyên môn nghề;  
- Ý nghĩa và vai trò của môn học: Thuế gắn liền với sự tồn tại, phát triển  
của Nhà nước và là công cụ quan trọng của bất kỳ quốc gia nào. Vì thế nghiên  
cứu môn thuế có vai trò quan trọng trong chương trình dạy học nghề Kế toán  
doanh nghiệp.  
II. Mục tiêu môn học:  
- Về kiến thức:  
+ Trình bày được nội dung cơ bản của từng sắc thuế đang áp dụng tại các  
doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện nay;  
+ Nêu được từng sắc thuế đang áp dụng tại các doanh nghiệp trong nền  
kinh tế hiện nay.  
- Về kỹ năng:  
+ Tính toán được stin phi np ngân sách nhà nước ca tng sc thuế liên  
quan đến hot động sn xut kinh doanh ca các doanh nghêp theo chế độ hin hành;  
+ Vận dụng những nội dung chủ yếu của thuế kết hợp với phương pháp  
tính thuế hợp lý cho từng trường hợp cụ thể và cho từng doanh nghiệp.  
- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Tuân thủ đúng luật thuế nhà nước ban  
hành.  
8
Bài mở đầu:  
Mã bài: THC0  
ĐỐI TƯỢNG NHIỆM VỤ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Giới thiệu: Sự ra đời, phát triển tầm quan trọng của thuế đối với sự  
phát triển tồn tại của các quốc gia.  
Mục tiêu:  
- Nhận biết được tính tất yếu khách quan của sự ra đời và phát triển cũng  
như vai trò của thuế đối với nền kinh tế, từ đó thấy được tầm quan trọng của nó  
đối với mọi hoạt động của nền kinh tế;  
- Trình bày được các yếu tố cấu thành nên một sắc thuế;  
- Phân biệt được các sắc thuế trong nền kinh tế hiện nay.  
1. Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế  
1.1 Sự ra đời và phát triển của thuế  
Lịch sử phát triển của hội loài người đã chứng minh rằng, Thuế ra đời  
cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà  
nước.  
Nhà nước một tổ chức chính trị, đại diện quyền lợi cho giai cấp thống  
trị, thi hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị hội. Nhà  
nước xuất hiện đòi hỏi cơ sở vật chất nhất định để đảm bảo cho sự tồn tại và  
hoạt động của mình. Do đó, Nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn để  
tập trung một bộ phận của cải trong xã hội vào tay Nhà nước. Việc huy động,  
tập trung nguồn của cải đó thể được thực hiện bằng các cách khác nhau, trong  
đó có hình thức đóng góp bắt buộc được Thuế.  
Thuế luôn luôn gắn chặt với sự phát triển của tổ chức bộ máy Nhà nước.  
Sự phát triển và thay đổi hình thái tổ chức Nhà nước luôn kéo theo sự cải biến  
của các hình thức thuế hệ thống thuế nói chung. Xem xét sự phát triển của  
các hình thức phương pháp thu thuế,có thể chia lịch sử hình thành và phát  
triển của thuế thành 3 giai đoạn:  
Giai đoạn thứ nhất-bắt đầu từ thế giới cổ đại đến đầu thế kỉ XVI được đặc  
trưng bởi sự hình thành các loại thuế sơ khai và Nhà nước chưa bộ máy thu  
thuế hoàn chỉnh.  
Thuế xuất hiện đầu tiên dưới thời La Mã cổ đại. Ban đầu đất nước này chỉ  
bao thành phố Rome. Chi phí quản đất nước còn nhỏ bé, Hội đồng thành phố  
làm việc không được trả công và việc cống hiến tài sản cá nhân được xem là  
niềm vinh dự đem lạ sự kính trọng. Chi tiêu của Chính phủ chủ yếu là chi cho  
9
       
việc xây đắp thành luỹ, nhà được trang trải bởi những khoản thu về thuê  
đất. Nhưng khi chiến tranh xãy ra thi người dân thành Rome bắt đầu biết đến  
nộp thuế, lao dịch cống nạp để trang trải cho những nhu cầu cần thiết của đất  
nước.  
Mô hình thuế đầu tiên khá khắc nghiệt thể hiện ở mức thu theo thuế suất  
định sẵn 10% đối với tất khoản cần nộp hoặc trưng thu. "Kinh Thánh nói rằng  
một phần mười các loại cây trồng được để dành phân phối lại hỗ trợ cho nhà  
tu". Cùng với sự phát triển của Nhà nước, dần dần xuất hiện thuế suất "10%" đối  
với tất cả các khoản thu nhập đầu tiên.Từ thời Hy Lạp cổ đại khoảng thế kỉ VII-  
VI trước công nguyên, dân biểu đều biết đến nguyên tắc cơ bản của chính quyền  
tính thuế thu nhập 10% hay 20%. Điều này cho phép Chính phủ tập chung được  
tiền bạc, của cải vào ngân sách để phân phối cho quân đội, chi phí cho việc bảo  
vệ biên giới, xây dựng nhà thờ, đường ống dẫn nước, đường xá, tổ chứ các lễ  
hội, trợ cấp cho người nghèo và các mục đích hội khác.  
Nguồn thu chính của ngân sách La Mã lúc đầu thuế đất. Các loại bất  
động sản,vật nuôi, nô lệ...Sau này xuất hiện thêm một số loại thuế khác như thuế  
thu vào hoa quả. Người dân thành thị chỉ phải trả một thứ thuế duy nhất thuế  
thân.  
Vào thế kỉ IV-III trước công nguyên đế quốc La Mã được mở rộng bằng  
việc chiếm đóng thêm những thành phố khác và biến chúng thành thuộc địa của  
mình. Các khoản nộp thuế cống nạp cũng phong phú hơn .  
Trong một thời gian dài La Mã chưa bộ máy thu thuế của Chính phủ.  
Việc thu thuế được giao cho một số đại diện do Chính phủ uỷ quyền. Hoạt động  
của họ tách khỏi sự hỗ trợ của dân chúng mà Chính phủ lại không thể kiểm soát  
được. Kết quả diễn ra tình trạng mua chuộc ,đút lót,lạm dụng quyền lực. Tình  
trạng đó đưa đến cuộc khủng hoảng kinh tế vào thế kỉ I trước công nguyên.  
Đến thời kỳ đế chế La Mã ,vua Oktavian(từ năm 63 đến năm 14 trước  
công nguyên)đã thành lập một tổ chức tài chính độc lập của Chính phủ nhằm  
thực hiện chức năng kiểm tra,giám sát thu thuế. Chính phủ quản chặt chẽ các  
khoản thu thuế bằng cách so sánh lợi thế về đất đai ở từng địa phương, lập sổ  
ghi chép chi tiết về việc sở hữu đất đai thống kê tài sản của từng người dân.  
Sổ sách đựơc gửi bởi người đứng đầu của địa phương, mỗi người dân có trách  
nhiệm trình cho quan chức năng xem bản khai mình  
Các hình thức thuế dưới thời đế chế la mã cũng phong phú hơn, bao gồm  
các hệ thống thuế thu và thuế gián thu. Các loại gián thu điển hình là thuế  
10  
doanh thu đánh theo mức thuế xuất 1%, thuế đặc biệt tính theo doanh thu buôn  
bán nô lệ 4%, thuế trả tự do cho người lệ được tính 5% theo giá thị trường .  
vào năm thứ 6 sau công nguyên ,vua Oktavian Augút đưa ra thuế thừa kế với  
thuế suất là 5% đối với người La Mã.  
Tuy nhiên, tổ chức tài chính của chính phủ không trực tiếp thu thuế của  
dân mà giao cho các lãnh địa thực hiện. chính phủ thông qua các tổ chức công  
khố xem xét, đánh giá và xác định tổng số thuế phải nộp ở các địa phương, đồng  
thời kiểm tra về thời gian nộp thuế. Trong thời gian này, thuế thu nộp bằng tiền.  
Người dân bán lương thực, thực phẩm lấy tiền nộp thuế. điều này kích thích và  
phát triển mối quan hệ hàng hoá- tiền tệ, làm sâu sắc hơn quá trình phân công  
lao động hội và thúc đẩy tiến trình đô thị hoá.  
Tuy nhiên, trong thời kỳ này nhiều hình thức thuế được ban hành lại  
không làm hưng thịnh về tài chính cho đế quốc la mã. ngược lại, gánh nặng thuế  
khoá đối với người dân là nguyên nhân quan trọng gây ra khủng hoảng tài chính  
đưa kinh tế nước lâm vào tình trạng yếu kém.  
Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ thế kỷ thứ XVI đến đầu thế kỷ thứ XIX: hình  
thành hệ thống thuế và các tổ chức thu thuế tương đối hoàn chỉnh.  
Chính phủ hiện đại xuất hiện ở châu Âu vào khoảng thế kỷ XVI đầu thế  
kỷ XVII. Do chưa đội ngũ quan chức thu thuế chuyên nghiệp nên Chính phủ  
đã sử dụng các chủ thái ấp vào công tác thu thuế. Một số quốc gia châu Âu đã sử  
dụng phương pháp đấu giá quyền thu thuế: số thuế được xác định nhượng lại  
ngay sau khi nhận được quyền thu thuế nếu ai trả mức cao nhất trong cuộc đấu  
giá. Tất cả số tiền thuế thu được ngay lập tức được chuyển vào quỹ của Chính  
phủ. Sau đó các chủ thái ấp sẽ thực hiện trọng trách quốc gia và nhận được thu  
nhập cho mình. Ngân sách quốc gia lại trong tình trạng nghèo nàn và điều này  
lặp lại tình trạng lịch sử như thời La Mã cổ đại.  
Để khắc phục tình hình đó, năm 1662 Pháp các văn bản pháp luật đã  
giới hạn phần hoa hồng trả cho chủ thái ấp. thế, tổng số thu thuế vào ngân  
sách của Chính phủ ngày càng tăng và chi phí cho việc thu thuế ngày càng giảm.  
Chính việc chuyển các tổ chức thu thuế vào trong hệ thống quản của Chính  
phủ đã làm cho việc thu thuế hợp hơn. Vào đầu thế kỷ XVIII các nước  
phương Tây đã thiết lập bộ máy hành chính của Chính phủ để tổ chức kiểm  
soát chặt chẽ việc thu thuế .  
Trong khoảng thời gian này, các quốc gia châu Âu xuất hiện rất nhiều  
loại thuế nhưng không có khoản thu lớn. Nguồn thu Chính của chính phủ thuế  
11  
thân. Giới quý tộc tăng lữ thì không phải nộp thuế này, ngược lại giai cấp tư  
sản và nông dân phải nộp cho Chính phủ 10-15% toàn bộ thu nhập của mình.  
Các quan chức và viên chức nhà nước, quân đội nếu được thăng chức cũng phải  
nộp một khoản thuế đặc biệt.  
Trong hệ thống thuế trực thu thường bao gồm: thuế đất, thuế đối với trang  
thiết bị quân đội, thuế mua ngựa, thuế tuyển mộ lính (người nộp thuế này được  
miễn trừ khỏi nghĩa vụ quân sự). Nguồn thu chủ yếu trong hệ thống thuế gián  
thu là thuế quan với mức thu từ 5% đến 25%. Tuy vậy, việc ấn định mức thuế  
cho từng loại hàng hoá xuất nhập khẩu cũng không có cơ sở khoa học. Do đó, có  
những hàng hoá xuất nhập khẩu đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách, nhưng lại  
kìm hãm cho sự phát triển của thương mại.  
Giai đoạn thứ ba bắt đầu từ thế kỷ XIX cho đến nay - đó thời kỳ hình  
thành hệ thống thuế bộ máy thu thuế hoàn chỉnh.  
Trong giai đoạn này ở hầu hết các nước phát triển đã hình thành hệ thống  
thuế với các luật thuế bộ máy thu thuế hoàn chỉnh. Các loại thuế đã trước  
đây dần được hoàn thiện hơn, trong đó phải kể đến thuế ruộng đát ngày càng giữ  
vai trò quan trọng trong việc tạo lập nguồn thu cho Chính phủ. Năm 1860, thuế  
đất ở Pháp chiếm 29% tổng số thuế và 59% tổng số thuế trực thu ; áo là 28%  
và 44%; ở Bỉ là 25% và 53% và Italia là 40% và 76%.  
Nếu như thời đầu của chủ nghĩa tư bản, thuế quan rất phát triển và  
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu ngân sách, thì hiện nay vai trò của hình  
thức thuế này ngày càng lu mờ nhường chổ cho các loại thuế khác. trong thời  
gian đó xuất hiện nhiều hình thức thuế mới được phát triển đến ngày nay:  
Thuế thu nhập cá nhân ra đời ở Anh vào năm 1942 sau đó nhiều nước công  
nghiệp phát triển khác cũng áp dụng thuế này(Nhật- 1887, Mỹ-1913 và Pháp-  
1914). Hiện nay, thuế thu nhập cá nhân là một trong những hình thức thuế giữ  
vai trò quan trọng bậc nhất trong hệ thống thuế của quốc gia phát triển, không  
phải chỉ tổng thu nhập thuế cả vai trò của nó trong phân phối thu nhập.  
Nhiều hình thức thuế mới tiên tiến cũng được nghiên cứu đưa vào áp dụng  
trong thực tiễn: thuế giá trị gia tăng ra đời ở Pháp năm 1954 và hiện nay đã lan  
rộng ra nhiều quốc gia đang phát triển khác và trở thành hình thức thuế gián thu  
phổ biến trên thế giới.  
Bộ máy thu thuế ở các nước phát triển cũng ngày càng được hoàn chỉnh  
và hình thành đồng bộ ttrung ương đến địa phương, không chỉ bao gồm các cơ  
quan quản lý thu nộp thuế, ở nhiều quốc gia còn có cả bộ máy cảnh sát thuế,  
12  
toà án thuế riêng biệt nhằm đảm bảo sự thống nhất trong việc xây dựng luật  
thuế, tổ chức thu thuế, kiểm tra thu nhập thuế xử lý các vi phạm.  
Như vậy, cùng với việc mở rộng các chức năng nhiệm vụ của Nhà  
nước, các hình thức thuế ngày càng phong phú hơn, công tác quản thuế ngày  
càng hoàn thiện hơn thuế đã trở thành một công cụ quan trọng, hiệu quả  
của Nhà nước để tác động đến đời sống kinh tế - xã hội của nhà nước.  
1.2. Khái niệm đặc điểm của thuế  
1.2.1 Khái niệm  
Thuế một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho  
Nhà nước theo mức độ thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho  
mục đích công cộng.  
1.2.2 Đặc điểm của thuế  
a, Tính bắt buộc  
Tính bắt buộc thuộc tính cơ bản vốn của thuế để phân biệt giữa thuế  
với các hình thức động viên tài chính khác của ngân sách Nnước. Nhà kinh tế  
học nổi tiếng Joseph E.Stiglitz cho rằng: "Thuế khác với đa số những khoản  
chuyển giao tiền từ người này sang người kia: trong khi tất cả những khoản  
chuyển giao đó tự nguyện thì thuế lại bắt buộc".  
Đặc điểm này vạch nội dung kinh tế của thuế những quan hệ tiền tệ,  
được hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa hội đặc biệt-việc  
động viên mang tính chất bắt buộc của Nhà nước. Phân phối mang tính chất bắt  
buộc dưới hình thức thuế một phương thức phân phối của Nhà nước, theo đó  
một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà nước mà  
không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp  
thuế.  
Tính chất bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ những lý  
do sau:  
Thứ nhất: hình thứ chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn  
với lợi ích cụ thể của người nộp thuế,do đó không thể sử dụng phương pháp tự  
nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng,Nhà  
nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối tượng có thu  
nhập phải chuyển giao.  
Thứ hai: trong xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng về  
hàng hoá công cộng ngày càng tăng phần lớn hàng hoá này lại do Nhà nước  
cung cấp. Để duy trì hoạt động cung cấp hàng hoá công cộng thì thu nhập về  
13  
 
hàng hoá công cộng từ những người thụ hưởng phải đủ đắp các chi phí bỏ ra.  
Những hàng hoá công cộng lại có tính chất đặc biệt, nó không thể phân bổ theo  
khẩu phần để sử dụng người thụ hưởng cũng không muốn sử dụng theo khẩu  
phần. Mặt khác, hàng hoá công cộng không có tính cạnh tranh và không thể đem  
ra trao đổi trực tiếp trên thị trường đđắp các chi phí. Chính vì thế trong việc  
cung cấp hàng hoá công cộng đã xuất hiện những người ăn không” , nghĩa là  
không ai tự nguyện trả tiền cho việc thụ hưởng hàng hoá công cộng. Do đó, để  
đảm bảo cung cấp hàng hoá công cộng Nhà nước chỉ thể sử dụng phương  
pháp thuế để buộc tất cả mọi người, kể cả người ăn không” phải chuyển giao  
thu nhập của mình sang khu vực công.  
Tuy nhiên, tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là  
hành động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có  
biểu hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành dộng thực hiện nghĩa vụ  
của người công dân.  
Từ đặc trưng này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính  
khác của ngân sách Nhà nước như chi phí, lệ phí, công trái, hoặc hình thức phạt  
bằng tiền. Hình thức phí, lệ phí, công trái nói chung mang tính tự nguyện và có  
tính chất đối giá. Còn phạt tiền cũng là hình thức bắt buộc, song nó chỉ xảy ra  
khi người bị phạt có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại đến lợi ích Nhà  
nước hoặc cộng đồng.  
b, Tính không hoàn trả trực tiếp  
Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế được thể hiện ở chỗ: Thuế  
được hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông qua các dịch vụ công cộng của  
Nhà nước. Sự không hoàn trả trực tiếp được thể hiện cả trước và sau khi thu  
thuế. Trước khi thu thuế, nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ  
công cộng nào cho người nộp thuế. Sau khi nộp thuế Nhà nước cũng không có  
sự bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế. Cũng như vậy, người nộp thuế  
không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế với lí do họ không được hoặc ít  
được sử dụng các dich vụ công cộng. Người nộp thuế cũng không có quyền đòi  
hỏi được thừa hưởng nhiều dịch vụ công cộng hơn so với số thuế họ phải trả  
họ cũng không thể từ chối nộp thuế với lí do họ đã phải thanh toán cho các  
khoản chi trái với nguyên tắc này.  
Đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế với các khoản phí,  
lệ phí và tín dụng Nhà nước.  
c, Tính pháp lí cao  
14  
Đặc điểm này thể hiện thuế một công cụ tài chính có tính pháp lí cao.  
Điều này được quyết định bởi quyền lực chính trị của Nhà nước. Nhà nước là  
một tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lực của giai cấp thống trị đặt ra để cai  
trị hội. vậy, để bắt buộc các công dân “tự nguyện” nộp thuế thì Nhà nước  
phải sử dụng đến quyền lực của mình, quyền lực ấy được thể hiện bằng luật  
pháp. Nhà kinh tế học Joseph E.Stiglitz nói rằng: “việc chuyển giao bắt buộc  
này giống như ăn trộm chỉ một đặc điểm khác chủ yếu là: Trong khi cả hai  
cách chuyển đều là không tự nguyện, thì cách chuyển qua Chính phủ có mang  
tấm áo choàng hợp pháp và sự tôn trọng do các quá trình chính trị ban cho”.  
Tuy nhiên, để sự chuyển giao bắt buộc thông qua thuế diễn gia được “êm  
thấm”, mặc dù quá trình đó được thực hiện dưới sự bảo vệ của luật pháp, thì  
những quy định của pháp luật cũng không được mang tính tuỳ tiện phải dựa  
trên những cơ sở khoa học nhất định. vậy trong luật thuế thường xác định  
trước các yếu tố có tính chất điều chỉnh hành vi nộp thuế như: Đối tượng chịu  
thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và các chế tài mang  
tính cưỡng chế khác.  
1.3. Vai trò của thuế  
1.3.1 Huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước  
Ngay từ lúc phát sinh thuế luôn luôn có công dụng phương tiện động  
viên nguồn tài chính cho Nhà nước. Người ta gọi công dụng này là chức năng  
huy động nguồn lực tài chính của thuế.  
Đây chức năng cơ bản của thuế, đặc trưng cho tất cả các dạng Nhà  
nước. Về mặt lịch sử,chức năng huy động nguồn lực tài chính là chức năng đầu  
tiên, phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế.  
Nhờ chức năng huy động nguồn lực tài chính mà quỹ tiền tệ của Nhà  
nước được hình thành, qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại hoạt  
động của nhà nước. chính chức năng này đã tạo ra những tiền đề để nhà nước  
tiến hành phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm hội và thu nhập quốc dân  
trong xã hội.  
Sự phát triển mở rộng các chức năng của nhà nước đòi hỏi phải tăng  
cường chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung nguồn  
lực của thuế ngày càng được nâng cao. Nhà nước thông qua thuế tiến hành phân  
phối một bộ phận đáng kể tổng sản phẩm quốc nội. Thuế trở thành nguồn thu  
chiếm tỉ trọng lớn nhất của Ngân sách của nước nền kinh tế thị trường.  
15  
 
Chức năng huy động nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề khách quan  
cho sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Nói cách khách, quá trình huy  
động tập trung nguồn lực thông qua thuế đã tự động làm xuất hiện chức năng  
điều tiết kinh tế của thuế. Chức năng huy động nguồn lực chức năng điều tiết  
kinh tế mối quan hệ hữu cơ với nhau.  
1.3.2. Điều tiết kinh tế.  
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế mặc dù có cơ sở nảy sinh chức năng  
huy động tập trung nguồn lực, nhưng chỉ được nhận thức sử dụng rộng rãi từ  
những năm đầu của thế kỷ XX khi vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước được  
thực hiện. Việc tăng cường chức năng kinh tế-xã hội của Nhà nước dẫn đến tốc  
độ chi tiêu công ngày càng lớn hậu quả tất yếu đòi hỏi Nhà nước phải tăng  
nguồn lực tài chính Nhà nước, được hình thành chủ yếu từ thuế. Nhu cầu về  
nguồn lực tài chính càng lớn thì sự cần thiết phải tăng cường các chức năng của  
thuế càng cấp bách, để tác động một cách hiệu quả đến nền kinh tế quốc dân.  
Chính trong quá trình đó chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính và  
chức năng điều tiết kinh tế của thuế đã được sử dụng một cách hiện thực. Điều  
đó nghĩa nội dung điều tiết theo một mục tiêu nào đó đã được lồng trước  
vào trong quá trình huy động tập trung nguồn lực tài chính. Bằng cách sử dụng  
để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, tăng cường hoặc làm yếu đi  
sự tích luỹ tư bản, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu khả năng thanh toán của  
dân cư, đẩy mạnh hoặc làm chậm lại chu kỳ khủng hoảng kinh tế, Nhà nước đã  
thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội trên quy mô cả nước.  
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc qui  
định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và  
đối tượng nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả  
năng của người nộp thuế, sử dụng linh hoạt các ưu đãi miễn, giảm thuế. Trên  
cơ sở đó, Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế vào quỹ đạo chung, phù  
hợp lợi ích của hội. Như vậy, bằng cách điều tiết và kích thích, chức năng  
điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện.Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thi  
trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngày càng được nâng cao. Nhà  
nước sử dụng thuế để tác động đến lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế lợi  
ích của hội  
Giữa chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh  
tế mối quan hệ gắn mật thiết với nhau. Chức năng huy động nguồn lực tài  
chính nảy sinh đồng thời với sự ra đời của thuế được coi là chức năng cơ sở,  
16  
qua đó quy định sự tác động và phát triển của chức năng điều tiết. Ngược lại,  
nhờ sự vận dụng đúng đắn chức năng điều tiết kinh tế đã làm cho chức năng huy  
động nguồn lực tài chính của thuế điều kiện phát triển. Ý nghĩa của chức  
năng huy động nguồn lực tài chính càng tăng lên nhằm đảm bảo nguồn thu nhập  
cho Nhà nước tác động một cách sâu rộng đến các quá trình kinh tế hội. Điều  
đó tạo ra tiền đề tăng thêm thu nhập cho các doanh nghiệp và các tầng lớp dân  
cư, do đó mở rộng cơ sở thực hiện chức năng huy động nguồn lực tài chính .  
Đó sự thống nhất biện chứng giữa các chức năng của thuế. Sự thống  
nhất đó cũng không loại trừ những mặt mâu thuẫn. Sự tăng cường chức năng  
huy động tập trung tài chính làm cho mức thu nhập của Nhà nước tăng lên. Điều  
đó đồng nghĩa với việc mở rộng khả năng của Nhà nước trong việc thực hiện các  
chương trình kinh tế - xã hội. Mặt khác, việc tăng cường chức năng huy động  
một cách quá mức sẽ làm tăng gánh nặng thuế hậu quả của nó là giảm động  
lực phát triển kinh tế và xói mòn vai trò điều tiết kinh tế. Đó là tính hai mặt của  
thuế, nó có khả năng ảnh hưởng dến nền kinh tế một cách tích cực, nhưng cũng  
thể ảnh hưởng một cách tiêu cực.Tính hai mặt của sự tác động đó cần phải  
được tính toán kỹ lưỡng trong tiến trình hoạch định chính sách thuế ở mỗi giai  
đoạn khác nhau.  
2. Các yếu tố cơ bản cấu thành nên một sắc thuế.  
Sắc thuế một hình thức thuế cụ thể được quy định bằng một văn bản  
pháp luật ,dưới hình thức luật, pháp lệnh hoặc các chế độ thuế. Trong một văn  
bản pháp luật về thuế thông thường chứa đựng các yếu tố cơ bản sau đây.  
2.1 Tên gọi của sắc thuế.  
Mỗi sắc thuế đều một tên gọi nhằm phân biệt giữa các hình thức thuế  
khác nhau ,đồng thời phản ánh những tính chất chung nhất của hình thức thuế  
đó. Trong nhiều trường hợp, tên gọi của sắc thuế đã hàm chứa nội dung, mục  
đích phạm vi điều chỉnh của sắc thuế đó. Chẳng hạn (thuế thu nhập cá nhân)  
thuế đánh vào thu nhập của cá nhân; (thuế thu nhập công ty) là thuế đánh vào  
thu nhập của pháp nhân là các công ty; (thuế giá trị gia tăng) đánh vào phần giá  
trị gia tăng thêm của hàng hoá và dịch vụ sau mỗi chu kỳ luận chuyển hàng hoá  
dịch vụ qua từng giai đoạn.  
2.2 Đối tượng nộp thuế.  
Trong mỗi luật thuế thường quy định rõ ai phải nộp thuế người đó  
được gọi đối tượng nộp thuế. Đối tượng nộp thuế thể thể nhân hoặc pháp  
nhân mà được luật pháp xác định có trách nhiệm phải nộp thuế. Do tồn tại cơ  
17  
     
chế chuyển dịch gánh nặng của thuế nên người nộp thuế không đồng nhất với  
người chịu thuế tức người chịu gánh nặng của thuế .  
2.3. Đối tượng chịu thuế.  
Đối tượng chịu thuế chỉ thuế đánh vào cái gì (hàng hoá thu nhập hay tài  
sản ...). Mỗi một luật thuế một đối tượng chịu riêng, chẳng hạn đối tượng  
chịu thuế giá trị gia tăng là hàng hoá và dịch vụ sản xuất và tiêu dùng trong  
nước, còn đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng  
có tính chất đặc biệt; đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp là thu nhập từ  
hoạt động kinh doanh, còn đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân là thu nhập của  
các cá nhân .  
2.4. Cơ sở tính thuế.  
Cơ sở tính thuế một bộ phận của đối tượng chịu thuế được xác định làm  
căn cứ tính thuế .Do đối tượng chịu thuế là thu nhập, hàng hoá hay tài sản, do đó  
cơ sở tính thuế chính là thu nhập chịu thuế, giá trị của hàng hoặc giá trị của tài  
sản.Tuy nhiên, đối tượng chịu thuế thường rộng hơn cơ sở tính thuế, bởi tồn  
tại mức tối thiểu không phải nộp thuế, miễn giảm. Một cơ sở thuế, sau khi tính  
nộp một loại thuế tương ứng thể trở thành cơ sở của một loại thuế khác.  
2.5. Mức thuế  
Mức thuế thể hiện mức độ động viên của Nhà nước so với cơ sở tính thuế  
được biểu hiện dưới hình thức thuế suất hay định suất thuế.  
Trong một luật thuế, thuế suất là linh hồn của sắc thuế, mang trong mình  
gánh nặng của thuế, thể hiện nhu cầu cần tập trung nguồn tài chính và biểu hiện  
chính sách điều tiết kinh tế - xã hội của Nhà nước, đồng thời cũng mối quan  
tâm hàng đầu của người nộp thuế. vậy ,việc xác định thuế suất trong một luật  
thuế phải quán triệt quan điểm vừa coi trọng lợi ích của quốc gia vừa chú ý thích  
đáng đến lợi ích của người nộp thuế giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập trung và  
tích tụ trong việc sử dụng công cụ thuế.  
Mức thuế được thể hiện dưới 2 hình thức :mức tuyệt đối mức tương  
đối - Mức thuế tuyệt đối (hay còn gọi định suất thuế )là mức thuế được tính  
bằng số tuyệt đối theo một đơn vị vật lýcủa đối tượng chịu thuế. dụ : 1 lít  
xăng chịu thuế 1.000đồng ; 1ha đất nông nghiệp hạng 1 vùng đồng bằng phải  
chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp là 550kg thóc .  
- Mức tương đối (hay còn gọi thuế suất) mức thuế tính bằng một tỉ lệ  
phần trăm trên một đơn vị giá trị đối tượng chịu thuế. dụ, thuế tiêu thụ đặc  
biệt của rượu mạnh được tính bằng tỷ l75% trên giá tính thuế.  
18  
     
Tuỳ theo từng sắc thuế người ta áp dụng các phương pháp đánh thuế  
khác nhau tương ứng với nhiều mức nộp thuế khác nhau.Thông thường có 4 loại  
mức thuế sau đây:  
-Mức thuế thống nhất mức nộp thuế cố định như nhau cho tất cả đối  
tượng chịu thuế. Loại mức thuế này không phụ thuộc vào cơ sở tính thuế .  
- Mức thuế ổn định mức nộp thuế được quy định theo một tỷ lệ nhất  
định như nhau trên cơ sở tính thuế. Dù cho cơ sở tính thuế cao thấp khác nhau  
thì người nộp thuế cũng chỉ phải nộp mức thuế theo tỷ lệ ổn định. Các loại thuế  
chủ yếu hiện nay thường áp dụng theo phương pháp đánh thuế này. Chẳng hạn,  
thuế lợi nhuận doanh nghiệp ở nước ta được quy định bằng tỷ lệ ổn định 22%  
trên lợi nhuận chịu thuế; thuế giá trị gia tăng tính bằng 10% trên phần giá trị  
tăng thêm.  
- Mức thuế luỹ tiến mức thuế phải nộp tăng dần theo mức độ tăng của  
cơ sở tính thuế.  
Để đảm bảo mức nộp thuế luỹ tién, người ta phải thiết kế nhiều mức thuế  
suất ứng với mỗi bậc thuế của cơ sở tính thuế đó hình thành biểu thuế suất luỹ  
tiến. Thông thường có 3 loại biểu thuế suất luỹ tiến:  
Biểu thuế luỹ tiến giản đơn loại biểu thuế chia cơ sở tính thuế thành  
nhiều bậc chịu thuế khác nhau, ứng với mỗi bậc chịu thuế có quy định mức thuế  
phải nộp bằng số tuyệt đối.  
Biểu thuế luỹ tiến từng phần loại thuế chia cơ sở tính thuế thành nhiều  
bặc chịu thuế khác nhau, ứng với mỗi bậc thuế có quy định mức thuế suất  
tăng đàn tương ứng. Số thuế phải nộp tổng số tính theo từng bậc thuế với thuế  
suất tương ứng.  
-Biểu thuế luỹ tiến từng phần loại biểu thuế chia cở tính thuế thành  
nhiều bậc thuế chịu thuế khác nhau, ứng với mỗi bậc thuế có quy định các mức  
thuế suất tăng dần tương ứng với mức tăng của cơ sở tính thuế. Số thuế phải nộp  
số thuế tính theo cơ sở tính thuế đó với thuế suất tương ứng.  
-Mức thuế luỹ thoái mức thuế phải nộp giảm dần theo mức độ tăng của  
cơ sở tính thuế.  
2.6.Chế độ giảm thuế, miễn thuế  
Miễn giảm thuế yếu tố ngoại lệ được quy định trong một số sắc thuế.  
Thực chất đó số tiền thuế người nộp thuế phải nộp cho Nhà nước ,song vì  
những lý do kinh tế-xã hội mà Nhà nước qui định cho phép không phải nộp toàn  
bộ (miễn thuế)hoặc chỉ nộp một phần (giảm thuế) trong số tiền thuế đó .  
19  
 
Việc quy định miễn giảm thuế nhằm mục đích:  
- Tạo điều kiện giúp đỡ người nộp thuế khắc phục hoàn cảnh khó khăn do  
nguyên nhân khách quan làm giảm thu nhập hoăc ảnh hưởng đến phần kinh tế  
của mình  
-Thực hiện một số chủ trương chính sách kinh tế - xã hội nhằm khuyến  
khích hoạt động của người nộp thuế.  
Tuy nhiên, việc miễn giảm thuế cũng có tính hai mặt. chứa đựng  
những nhân tố tích cực tạo điều kiện thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội  
của Nhà nước nhưng cũng bao hàm nhiều yếu tố tiêu cực thể làm méo mó  
tính công bằng của một sắc. vậy, để khuyến khích tuân thủ các tiêu thức của  
một hệ thống thuế hiện đại thì việc quy dịnh các trường hợp miễn ,giảm thuế  
mang tính cá biệt cần được hạn chế.  
2.7. Chế độ trách nhiệm.  
Quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế trong việc đăng  
ký, kê khai, nộp quyết toán, lưu trữ sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn theo quy  
định.  
2.8 Thời hạn thu, thủ tục nộp thuế và các chế tài liên quan.  
Quy định rõ hình thức thu nộp, thủ tục thu nộp, kê khai, quyết toán thuế,  
thời gian thu nộp,.. nhằm đảm bảo sự minh bạch, rõ rang của chính sách tạo cơ  
sở pháp lý để xử lý các trường hợp vi phạm luật thuế.  
3. Phân loại thuế.  
Thuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước hệ thống thuế  
bao gồm nhiều loại thuế khác nhau. Để định hướng xây dựng quản hệ  
thống thuế ,người ta tiến hành xắp xếp các sắc thuế có cùng tính chất thành  
những nhốm khác nhau, gọi là phân loại thuế.  
Phân loại thuế việc sắp xếp các sắc thuế trong hệ thống thuế thành  
những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định.  
Phân loại thuế có ý nghĩa quan trọng trong quản lý thu thuế từ khâu xây  
dựng chính sách đến triển khai thực hiện.  
3.1. Phân loại thuế theo đối tượng chịu thuế.  
Nếu căn cvào đối tượng chịu thuế ,có thể chia sắc thuế thành ba loại:  
- Thuế thu nhập gồm các sắc thuế đối tượng chịu thuế là thu nhập nhận  
được. Thu nhập này được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: thu nhập từ lao  
động dưới dạng tiền lương, tiền công; thu nhập từ hoạt động kinh doanh dưới  
20  
       
dạng lợi nhuận, lợi tức, cổ phần...Do vậy thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập  
công ty, thuế thu nhập doanh nghiệp ...  
- Thuế tiêu dùng loại thuế đối tượng chịu thuế phần thu nhập được  
mang tiêu dùng trong hiện tại.Trong thực tế loại thuế tiêu dùng dược thể hiện  
dưới nhiều dạng như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia  
tăng,..  
- Thuế tài sản là các loại thuế đối tượng chịu thuế là giá trị của tài  
sản.Tài sản nhiều hình thức biểu hiện: tài sản tài chính gồm tiền mặt tiền  
gửi, chứng khoán, thương phiếu,...Tài sản cố định gồm nhà cửa, đất đai, máy  
móc, nhà máy, xe cộ... tài sản vô hình như nhãn hiệu,...Nói chung thuế tài sản  
thường đánh trên giá trị cửa tài sản cố định gọi thuế bất động sản.  
3.2. Phân loại theo phương thức đánh thuế.  
Các hình thức thuế suy cho cùng đều đánh vào thu nhập của người nộp  
thuế.Tuy nhiên tuỳ thuộc vào phương thức đánh thuế - đánh một cách trực tiếp  
hay gián tiếp vào thu nhập người ta chia hệ thống thuế thành hai loại:  
Thuế trực thu loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của  
người nộp thuế.  
Thuế trực thu có những đặc điểm sau:  
- Đối tượng nộp thuế trực thu là người gánh chịu gánh nặng thuế .Vì  
người nộp thuế trực thu là người trả thuế cuối cùng trong một chu kỳ sẳn xuất  
kinh doanh nên khả năng cơ hội chuyển dịch gánh nặng thuế của người nộp  
thuế cho người khác trở nên khó khăn hơn.  
- Thuế trực thu mang tính chất thuế luỹ tiến vì có tính đến khả năng nhận  
được thu nhập của ngưới nộp thuế.  
Thuế trực thu thường bao gồm các sắc thuế cơ sở đánh thuế là thu nhập  
nhận được. Ở nước ta thuế trực thu bao gồm: thuế thu nhập đối với người có thu  
nhập cao, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhà đất...  
Thuế gián thu loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản  
của người nộp thuế đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hoá và  
dịch vụ.  
Đặc điểm của thuế gián thu là:  
-Thuế gián thu là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hoá và dịch vụ  
.Người sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ cộng thêm phần thuế vào trong  
giá bán hàng hoá và dịch vụ của mình, khi hàng hoá và dịch vụ được bán người  
sản xuất thay mặt người tiêu dùng nộp khoản thuế gián thu cho Nhà nước.  
21  
 
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 140 trang yennguyen 19/04/2022 2400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Thuế - Nghề: Kế toán doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docgiao_trinh_thue_nghe_ke_toan_doanh_nghiep.doc