Acute poisoning in children at the Vietnam national children’s hospital during 2017-2020
Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 5, No. 1 (2021) 9-16
Research Paper
Acute poisoning in children at the Vietnam National
Children’s Hospital during 2017 - 2020
Nguyen Tan Hung*, Truong Thi Mai Hong, Le Ngoc Duy, Nguyen Thi Thanh Thuy,
Nguyen Van Nam, Do Thi Xuan, Vu Thi Tam, Nguyen Thi Thanh Phuc
Vietnam National Children’s Hospital, No 18/879 La Thanh, Dong Da, Hanoi, Vietnam
Received 18 November 2020
Accepted 17 February 2021
Abstract
Objectives: The study aim was to describe causes and manifestations of acute poisoning in
children at the Vietnam National Children’s Hospital during 2017 – 2020.
Methods: This cross-sectional study included 294 cases of acute poisoning at the Vietnam
National Children’s Hospital between 1 February 2017 and 31 January 2020.
Results: The average age of research subjects were 3.3 ± 2.8 years old which range from 1
month old to 17 years old, most common cases were under 4 years (75%). Boy to girl ratio
was 1.5/1. Common cause was unintended actions of children and caregivers (91.8%).
There were a variety of reasons for acute poisoning, where chemical poisoning topped at
67.6%. Clinical manifestations were very diverse but most patients had digestive disorders
(82.6%). 61.1% cases were delivered to the Vietnam National Children’s Hospital in 6
hours since being poisoned. There were 25 cases (8.5%) dead, mainly in chemical
poisoning group.
Conclusion: There were a variety of reasons for acute poisoning, most was chemical
poisoning. 91.8% cases were due to unintended actions. Clinical manifestations were very
diverse but most patients had digestive disorders. Most children were saved but the
mortality rate was still high at 8.5%.
Keywords: Acute poisoning, children.
_______
*
Corresponding author.
E-mail address: nguyentanhung.dr@gmail.com
9
N. T. Hung et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 5, No. 1 (2021) 9-16
Nguyên nhân và đặc điểm ngộ độc cấp trẻ em tại Bệnh viện
Nhi Trung ương giai đoạn 2017 - 2020
Nguyễn Tân Hùng*, Trương Thị Mai Hồng, Lê Ngọc Duy, Nguyễn Thị Thanh
Thúy, Nguyễn Văn Nam, Đỗ Thị Xuân, Vũ Thị Tâm, Nguyễn Thị Thanh Phúc
Bệnh viện Nhi Trung ương, Số 18/879 La Thành, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 18 tháng 11 năm 2020
Chấp nhận đăng ngày 17 tháng 2 năm 2021
Tóm tắt
Mục tiêu: Tìm hiểu nguyên nhân và đặc điểm ngộ độc cấp (NĐC) trẻ em tại Bệnh viện Nhi
Trung ương giai đoạn 2017- 2020.
Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu và tiến cứu trên 294 bệnh nhân được chẩn đoán ngộ độc
cấp từ 01/07/2017 đến 30/06/2020.
Kết quả: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 3,3 ± 2,8 tuổi, nhỏ nhất là 1 tháng
tuổi, lớn nhất là 17 tuổi. Nhóm tuổi hay gặp nhất là dưới 4 tuổi, chiếm 75%. Tỷ lệ nam/ nữ
là 1,5/1. Hoàn cảnh nhiễm độc chủ yếu là do sự không cố ý của trẻ và người chăm sóc trẻ
chiếm 91,8%. Căn nguyên ngộ độc rất phong phú, đứng hàng đầu là nhóm hóa chất chiếm
67,6%. Các biểu hiện lâm sàng khá phong phú, đa dạng nhưng hầu hết bệnh nhân đều có
biểu hiện tiêu hóa (82,6%). Có 61,1% trẻ bị ngộ độc được đưa đến Bệnh viện Nhi Trung
ương trước 6 giờ kể từ khi ngộ độc. Có 25 trẻ (8,5%) ngộ độc bị tử vong và nặng xin về,
chủ yếu nằm trong nhóm hóa chất.
Kết luận: Căn nguyên NĐC phong phú, đa dạng, đứng hàng đầu là nhóm hóa chất, do
hoàn cảnh vô ý 91,8%, đường nhiễm độc từ đường tiêu hóa với các triệu chứng về tiêu hóa
rất phổ biến. Hầu hết các bệnh nhân được cứu sống, tuy nhiên tỷ lệ tử vong vẫn còn cao
chiếm 8,5%.
Từ khóa: ngộ độc cấp, trẻ em.
1. Đặt vấn đề*
tuổi vì bản chất tò mò, hiếu động đồng thời
cơ thể trẻ đang trong giai đoạn phát triển,
cấu trúc, chức năng của các cơ quan chưa
hoàn chỉnh nên chịu sự tác động mạnh mẽ
của các độc chất, điển hình như ngộ độc chì
[3]. Tại Bệnh viện Nhi Trung ương đã có
một số đề tài về NĐC ở trẻ em nhưng hầu
hết các đề tài đều nghiên cứu riêng lẻ về
một loại độc chất cụ thể mà chưa có tính
khái quát chung. Vì thế chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này với mục tiêu tìm hiểu
nguyên nhân, lâm sàng và một số đặc điểm
Ngộ độc cấp là một trong những nguyên
nhân quan trọng gây bệnh tật, tử vong và
ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, tinh
thần của trẻ em không chỉ ở nước ta mà còn
ở các nước phát triển [1-2]. Trẻ em là đối
tượng rất dễ bị ngộ độc đặc biệt là trẻ dưới 6
_______
*
Tác giả liên hệ.
E-mail address: nguyentanhung.dr@gmail.com
10
N. T. Hung et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 5, No. 1 (2021) 9-16
ngộ độc cấp ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi
Trung ương giai đoạn 2017 – 2020.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang vừa hồi
cứu, vừa tiến cứu. Phương pháp lấy mẫu
thuận tiện. Các trẻ được chẩn đoán NĐC
nhập Bệnh viện Nhi Trung ương từ
01/07/2017 đến 30/06/2020 sẽ được thu
thập số liệu theo mẫu báo cáo nhiễm độc
quốc tế IPCS- CASE. Các số liệu được nhập
và xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0.
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân dưới 18 tuổi được
chẩn đoán NĐC tại Bệnh viện Nhi Trung
ương từ 01/07/2017- 30/06/2020.
Tiêu chuẩn lựa chọn: bệnh nhân được
chọn khi có một trong ba tiêu chuẩn sau [4 - 6]:
(1) Có bằng chứng tiếp xúc chất độc
(2) Có biểu hiện lâm sàng của NĐC
(3) Xét nghiệm thấy độc chất trong máu,
nước tiểu, dịch dạ dày, dịch tiết.
Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân trên 18
tuổi, sốc phản vệ và phản ứng dị ứng khác
do thuốc, ngộ độc mạn tính, lâm sàng nghi
ngờ NĐC nhưng thiếu bằng chứng xác
minh.
3. Kết quả nghiên cứu
Trong thời gian nghiên cứu từ
01/07/2017-30/06/2020, chúng tôi thu được
294 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chẩn đoán, kết
quả như sau:
Bảng 1. Tác nhân gây ngộ độc
Tác nhân
Số bệnh nhân (n)
Tỷ lệ (%)
3,7
Thuốc bảo vệ thực vật
Hơi khí độc
Chất tẩy rửa
Chì
Khác
Rắn cắn
11
1
20
60
107
6
7
66
0
0,3
6,8
20,4
36,4
2,1
2,4
22,4
0
Hóa chất
Động vật
Thực phẩm
Thuốc
Côn trùng đốt
An thần, thuốc ngủ
Khác
9
3,1
Rượu
Ma túy
7
0
2,4
0
Chất gây nghiện
Tác nhân gây độc vô cùng phong phú, đa dạng, trong đó đứng hàng đầu là nhóm hóa chất
chiếm 67,6%, sau đó đến nhóm thực phẩm 22,4%, thuốc, nọc độc của động vật, cuối cùng là
nhóm chất gây nghiện.
Hình 1. Tỷ lệ mắc bệnh theo giới
Nam
Nữ
39,8%
60,2%
11
N. T. Hung et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 5, No. 1 (2021) 9-16
Tỷ lệ mắc bệnh ở nam nhiều hơn nữ, tỷ lệ nam/nữ=1,5/1
Hình 2. Tỷ lệ mắc bệnh theo lứa tuổi
Nhóm trẻ nhỏ dưới 4 tuổi hay gặp ngộ độcnhất (75,2%), lứa tuổi thiếu niên gặp với tỷ lệ
23,8%, nhóm vị thành niên ít gặp nhất (1%).
Hình 3. Hoàn cảnh ngộ độc
Hầu hết các trẻ bị ngộ độc trong hoàn cảnh không cố ý (chiếm 91,8%). Các trường hợp chủ
ý chiếm 8,2%, trong đó đáng chú ý trẻ bị đầu độc là 6,4%.
Hình 4. Thời gian đến bệnh viện kể từ khi bị ngộ độc
12
N. T. Hung et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 5, No. 1 (2021) 9-16
Đa số bệnh nhân nhập viện vào khoảng thời gian 1- 6 giờ sau nhiễm độc, chiếm 58,9%.
Bảng 2. Phân bố hoàn cảnh ngộ độc theo nhóm tuổi
Trẻ nhỏ
Tỷ lệ %
Thiếu niên
Tỷ lệ %
Vị thành niên
n Tỷ lệ %
Hoàn cảnh
Không cố ý
Cố ý
Đầu độc
n
207
0
n
63
3
93,7
0
6,3
90
4,3
5,7
0
3
0
0
100
0
14
4
Nhóm trẻ nhỏ dưới 4 tuổi bị ngộ độc đều do vô ý, trẻ chưa ý thức được hoặc người trông
trẻ sơ suất, nhầm lẫn. Trong khi đó nhóm vị thành niên, các trẻ này đều cố ý mặc dù đã ý thức
được nguy hại của chất độc. Ở lứa tuổi thiếu niên, chủ yếu là trẻ bị ngộ độc do không cố ý, tuy
nhiên cũng có 4,3% trẻ cố ý, 5,7% trẻ bị đầu độc.
Hình 5. Một số biểu hiện lâm sàng, cận lâm sàng
Biểu hiện tổn thương đường tiêu hóa là hay gặp nhất. Trong nhóm ngộ độc hóa chất, tỷ lệ
ngộ độc chì cao nhất chiếm 20,4%. Các triệu chứng hay gặp ở bệnh nhân ngộ độc chì như sau:
Hình 6. Các triệu chứng lâm sàng ở bệnh nhân ngộ độc chì
13
N. T. Hung et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 5, No. 1 (2021) 9-16
Ở nhóm ngộ độc chì có 60 bệnh nhân, triệu chứng khiến bệnh nhân vào viện gặp nhiều
nhất là co giật, sau đó là nôn kéo dài. Đặc biệt có 6 bệnh nhân (10%) vào viện đã trong tình
trạng hôn mê, các trẻ này thường đã nhiễm độc nặng.
Bảng 3. Kết quả điều trị chung
Kết quả
n
233
36
Tỷ lệ (%)
79,3
Khỏi không để lại di chứng
Khỏi để lại di chứng
Tử vong, xin về để tử vong
12,2
25
8,5
Phần lớn trẻ được điều trị khỏi và không để lại di chứng. Bên cạnh đó, có 12,2% trẻ khỏi
nhưng để lại di chứng và có 8,5% số trẻ tử vong và nặng xin về để tử vong.
công nghiệp trong những năm gần đây ngày
càng rộng rãi. Sự hiểu biết kém hay không
thận trọng của người trông trẻ rất dễ dẫn đến
4. Bàn luận
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy tác nhân gây NĐC chủ yếu là hoá chất.
Kết quả này cho thấy sự thay đổi về nguyên
nhân NĐC trong những năm gần đây. Theo
tổng kết của Đặng Phương Kiệt trong 9 năm
(1970-1978) tại Viện Nhi Trung ương
nguyên nhân NĐC đứng hàng đầu là ngộ
độc thức ăn sau đó là ngộ độc thuốc và hoá
chất [7]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
ngược lại và tương tự như nghiên cứu của
Vũ Thị Mai tại Trung tâm chống độc Bệnh
viện Bạch Mai [8] và Long Nary [9] có lẽ
do vấn đề sử dụng hoá chất trong nông,
ngộ độc cho trẻ.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ
mắc bệnh ở trẻ nam nhiều hơn nữ với tỷ lệ
1,5/1. Điều này có thể do trẻ nam thường có
bản tính hiếu động, nghịch ngợm hơn trẻ
nữ. Lứa tuổi bị NĐC tập trung ở nhóm dưới
4 tuổi do ở tuổi này, trẻ hay tò mò, nghịch
ngợm, bất cứ thứ gì chúng cũng đều cho vào
miệng, đặc biệt một số hoá chất có màu sắc
(thuốc chuột Trung Quốc) hấp dẫn trẻ, kết
hợp với sự thiếu thận trọng của người lớn
trong nhà. Ngoài ra sự thiếu hiểu biết của
cha mẹ trong cách sử dụng thuốc, tự ý dùng
14
N. T. Hung et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 5, No. 1 (2021) 9-16
thuốc cho con bừa bãi không đúng chỉ định
rất dễ bị ngộ độc. Kết quả này tương tự với
một số nghiên cứu: Vũ Thị Mai (40%),
Long Nary (62,4%).
nhân tử vong. Tỷ lệ tử vong chung của NĐC
vẫn còn cao, chủ yếu là tử vong do hóa chất
vì bệnh nhân ngộ độc quá nặng, chuyển lên
Bệnh viện Nhi Trung ương trong tình trạng
nặng hôn mê sâu, suy hô hấp kết hợp với
không có thuốc giải độc kịp thời.
Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết các
trẻ bị ngộ độc trong hoàn cảnh không cố ý
(91,8%). Các trường hợp chủ ý chiếm 8,2%,
trong đó đáng chú ý trẻ bị đầu độc là 6,4%.
Con số này thấp hơn Vũ Thị Mai khi tỉ lệ
ngộ độc do cố ý khá cao 47%. Có lẽ do các
bệnh nhân nhập viện tại Trung tâm Chống
độc Bạch Mai thường là trẻ lớn gặp nhiều
vấn đề về tâm lý và xã hội [8]. Tuy nhiên
đây cũng là con số đáng báo động cho thấy
cần phải có sự tham gia của pháp luật để
bảo vệ trẻ em.
Thời gian trẻ được đưa đến Bệnh viện
Nhi Trung ương kể từ khi tiếp xúc chất độc
chủ yếu trong vòng 6 giờ, do đối tượng
nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu ở khu vực
Hà Nội và vùng phụ cận. Nhóm trẻ được
đưa đến muộn hơn chủ yếu là những trẻ ở
các địa phương xa hơn và đã được sơ cứu ở
bệnh viện tuyến dưới.
5. Kết luận
NĐC gặp ở mọi lứa tuổi, tuổi trung
bình của đối tượng nghiên cứu là 3,3 ± 2,8
tuổi, tuổi nhỏ nhất là 1 tháng tuổi, tuổi lớn
nhất là 17 tuổi. Dưới 4 tuổi là nhóm tuổi
hay gặp nhất, chiếm 75%. Trẻ nam mắc
bệnh nhiều hơn trẻ nữ với tỷ lệ là1,5/1. Căn
nguyên NĐC đứng hàng đầu là nhóm hóa
chất, chiếm 67,6%. Biểu hiện lâm sàng của
NĐC rất đa dạng nhưng triệu chứng tiêu hóa
là hay gặp nhất. Riêng với ngộ độc chì thì
triệu chứng nổi bật là các triệu chứng thần
kinh. Có 8,5% trẻ ngộ độc bị tử vong và
nặng xin về. Số bệnh nhân nặng này chủ
yếu nằm trong nhóm ngộ độc hóa chất.
Bệnh cảnh lâm sàng ở trẻ ngộ độc rất
phong phú, đa dạng nhưng tổn thương
đường tiêu hóa là hay gặp nhất như nôn trớ,
đau bụng, đi ngoài phân lỏng, tổn thương
gan…Ngộ độc chì là căn nguyên đứng hàng
đầu trong nhóm hóa chất. Do tình trạng
dùng thuốc cam để hạ sốt, bôi miệng, chữa
tiêu chảy…còn nhiều. Bệnh cảnh lâm sàng
nổi trội với các triệu chứng về thần kinh như
co giật, liệt dây thần kinh sọ, và đặc biệt có
6/60 trẻ ngộ độc chì khi vào viện đã có biểu
hiện hôn mê.
Về kết quả điều trị, có 79,3% trẻ được
điều trị khỏi và không để lại di chứng, bên
cạnh đó cũng có 12,2% trẻ khỏi nhưng để
lại di chứng và có 8,5% số trẻ tử vong và
nặng xin về để tử vong. Kết quả của chúng
tôi tương tự Long Nary: đa số bệnh nhân
vào điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương
đều khỏi ra viện (91,4%), có 8,6% bệnh
References
[1] Charles M, Margie P. Department of
Violence and Injury Prevention and
Disability. World Health Organization 2009.
[2] Peden M, Oyegbite K, Ozanne-Smith J, et al.
World report on child injury prevention.
Editors. Geneva: World Health Organization
2008.
[3] Ministry of Health. Guidelines for diagnosis
and management of poisoning, 2015
Decision No. 3610-BYT: 192-202. (in
Vietnamese)
[4] Dinh VV. Principles of dealing with acute
poisoning. Emergency Resuscitation Book;
Medical Publishing House 2012, Hanoi: p-
348-456. (in Vietnamese)
[5] Hanoi Medical University - Pediatrics
Department. Acute poisoning in children.
Pediatric Lecture volume 1; Medical
15
N. T. Hung et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 5, No. 1 (2021) 9-16
Publishing House 2013, Hanoi:p-59-67. (in
Vietnamese)
Medical Publishing House, Hanoi 1981:77-
85. (in Vietnamese)
[6] Vietnam National Children’s Hospital.
Principles of approaching and dealing with
acute poisoning in children. Instructions for
diagnosis and treatment of children's diseases
2018:75-80 (in Vietnamese)
[7] Kiet DP. Acute poisoning in children:
commenting on 171 cases of acute poisoning
in 9 years (1970-1978) at the Institute of
Child Protection and Care". Medical Journal,
[8] Hanoi Medical University. Comment on the
situation of acute poisoning in children under
18 years of age diagnosed and treated at the
Poison Control Center of Bach Mai Hospital.
Graduate Thesis of Medicine 2016, course
2010-2016. (in Vietnamese)
[9] Long N. Comment on acute poisoning in
children at the Vietnam National Children’s
Hospital for 4 years. Master Thesis 2002,
Hanoi Medical University. (in Vietnamese)
16
Bạn đang xem tài liệu "Acute poisoning in children at the Vietnam national children’s hospital during 2017-2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- acute_poisoning_in_children_at_the_vietnam_national_children.pdf