Xây dựng quốc hội điện tử - Kinh nghiệm ở một số nước và gợi mở cho Việt Nam
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Xây dựng quốc hội điỆn Tử -
Kinh nghiỆm ở mộT số nước và gỢi mở cho viỆT nam1
Lê Quang Huy*
Hoàng Minh Hiếu**
*TS.-Phó-chủ-nhiệm-Ủy-ban-Khoa-học-Công-nghệ-và-Môi-trường-của-Quốc-hội
**TS.-Vụ-trưởng-Vụ-Thông-tin,-Văn-phòng-Quốc-hội
Thông tin bài viết:
Tóm tắt:
Từ khóa: Quốc hội/Nghị viện
điện tử; công nghệ thông tin; cơ
sở dữ liệu về hoạt động của Quốc
hội; Trang thông tin điện tử của
Quốc hội.
Xây dựng Quốc hội điện tử là yêu cầu tất yếu của Quốc hội ở các nước
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ.
Việc xây dựng và vận hành Quốc hội điện tử trên phạm vi toàn cầu đã
cho thấy có những bài học rất thành công, nâng cao hiệu quả hoạt động
của Quốc hội, tăng cường sự tham gia của người dân vào các quyết định
của Quốc hội. Bên cạnh đó, cũng có những trường hợp việc xây dựng
Quốc hội điện tử gặp nhiều khó khăn, thách thức từ việc thiếu tầm nhìn
chiến lược đến sự hạn chế nguồn lực và cách thức triển khai. Trong phạm
vi bài viết này, các tác giả phân tích kinh nghiệm xây dựng Quốc hội
điện tử ở một số nước trên thế giới và đề xuất một số gợi mở cho việc
xây dựng Quốc hội điện tử ở Việt Nam.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài
Biên tập
Duyệt bài
: 27/10/2020
: 07/11/2020
: 10/11/2020
Abstract:
Article Infomation:
Key words:
Development of e-National Assembly is an indispensable requirement
in countries to meet the strong development requirements of science and
technology. The development and performance of the e-National
Assembly in the world have provided us with very successful lessons,
which has improved the performance of the National Assembly,
increased the people’s participation in decisions of the National
Assembly. In addition, there are also cases where the development of the
e-National Assembly faces several difficulties, challenges from the lack
of strategic vision to limited resources and implementation methods. In
the scope of this article, the authors analyze the experience of
development of e-National Assembly in a number of countries and
propose suggestions for development of e-National Assembly in
Vietnam.
E-National
Assembly/E-Parliament;
information technology; database
on the performance of the
National Assembly; website of
the National Assembly.
Article History:
Received
Edited
: 27 Oct. 2020
: 07 Nov. 2020
: 10 Nov. 2020
Approved
1. Bài viết là kết quả của Đề án khoa học cấp Bộ: “Xây dựng Quốc hội điện tử ở Việt Nam – Thực trạng và
Giải pháp”.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
44
Số 22 (422) - T11/2020
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1. Quan niệm về Quốc hội điện tử
qua các chính sách hỗ trợ, nghị viện điện tử
thúc đẩy sự phát triển của một xã hội thông
tin bình đẳng và bao trùm”4. Đây là kết quả
của một nghiên cứu mang tính toàn cầu của
Liên hợp quốc (UN) và Liên minh nghị viện
thế giới (IPU), phản ánh khá toàn diện các
khía cạnh khác nhau của Quốc hội điện tử,
trong đó có việc ứng dụng công nghệ thông
tin để phục vụ tốt hơn việc thực hiện các
chức năng của Quốc hội và những lợi ích mà
nó đưa lại cho người dân.
Sau hơn 10 năm, về cơ bản khái niệm
này vẫn có ý nghĩa trong việc phản ánh bản
chất của Quốc hội điện tử. Tuy nhiên, các
nhà nghiên cứu nhận thấy bản thân định
nghĩa này không còn theo kịp được với
những bước phát triển trong hoạt động của
Quốc hội cũng như sự phát triển của công
nghệ thông tin. Chẳng hạn, khái niệm này
chỉ tập trung vào những chức năng cơ bản
của Quốc hội, mới đề cập đến công nghệ
thông tin đơn thuần, chưa bao gồm những
công nghệ mới.
Trên cơ sở đó, IPU và UN vào năm 2017
đã đưa ra khái niệm mới của Quốc hội điện
tử. Theo đó, Quốc hội điện tử được định nghĩa
là Quốc hội áp dụng công nghệ, kiến thức và
các tiêu chuẩn trong quy trình, thủ tục làm
việc mang lại các giá trị của sự hợp tác, hòa
nhập, tham gia và cởi mở tới người dân5.
2. Nội dung xây dựng Quốc hội điện tử
Nội dung của Quốc hội điện tử là những
thành phần có liên quan đến nhau và tạo nên
một tổng thể sẵn sàng phục vụ cho các đối
tượng tham gia vào các hoạt động của Quốc
hội sử dụng để thực hiện các chức năng,
Cho đến nay, có nhiều cách tiếp cận
khác nhau về Quốc hội điện tử, trong đó có
hai cách thức tiếp cận cơ bản là (1) tập trung
vào khía cạnh kỹ thuật và (2) tập trung vào
những lợi ích mà Quốc hội điện tử đưa lại.
Theo cách thức tiếp cận thứ nhất, Nghị
viện châu Âu đưa ra khái niệm: Quốc hội
điện tử là Quốc hội có quy trình làm việc
được số hóa để hỗ trợ các nghị sĩ trong việc
ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cho
ra đời các văn bản của nghị viện được xác
thực và thể hiện dưới hình thức ngôn ngữ
XML2 phục vụ cho hệ thống công bố thông
tin mở3. Cách tiếp cận này được đánh giá
thiên nhiều về kỹ thuật và chưa có tính bao
quát các chức năng của nghị viện.
Ở cách tiếp cận thứ hai, một trong
những khái niệm được sử dụng phổ biến là
khái niệm được sử dụng trong báo cáo Quốc
hội điện tử toàn cầu (World E-Parliament)
năm 2008. Theo đó, Quốc hội điện tử được
định nghĩa là “cơ quan lập pháp áp dụng
công nghệ thông tin để hoạt động công khai,
minh bạch và có trách nhiệm hơn. Quốc hội
điện tử cũng giúp tăng khả năng mọi người
dân tham gia nhiều hơn vào đời sống cộng
đồng thông qua việc được cung cấp thông
tin có chất lượng hơn và tiếp cận nhiều hơn
với các tài liệu và hoạt động của cơ quan lập
pháp. Quốc hội điện tử là nơi các chủ thể
tham gia hoạt động của Quốc hội sử dụng
công nghệ thông tin để thực hiện các chức
năng chính là lập pháp, đại diện và giám sát
hiệu quả hơn. Thông qua việc áp dụng công
nghệ và tiêu chuẩn hiện đại và việc thông
2
Ngôn ngữ XML: Viết tắt từ tiếng Anh: eXtensible Markup Language, tức “Ngôn ngữ đánh dấu mở rộng.
3. Dẫn theo: UN, IPU, World E-Parliament Report 2018, Geneva, 2018, p.18.
4. UN, IPU, World E-Parliament Report 2008, (Geneva, 2008).
5. UN, IPU, World E-Parliament Report 2018, (Geneva, 2018).
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
45
Số 22 (422) - T11/2020
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
nhiệm vụ của mình. Theo đó, các yếu tố cấu
thành của Quốc hội điện tử bao gồm: Hạ
tầng công nghệ thông tin; các cơ sở dữ liệu;
các ứng dụng phục vụ hoạt động của Quốc
hội; các ứng dụng tương tác với công chúng.
2.1. Hạ tầng công nghệ thông tin
Hạ tầng công nghệ thông tin là nền tảng
thiết yếu nhất để phục vụ cho việc vận hành
các hệ thống công nghệ thông tin nói chung
và của Quốc hội nói riêng. Tuy nhiên, do các
yếu tố thuộc về hạ tầng công nghệ thông tin
thường có tính kỹ thuật cao, lại không được
thể hiện một cách rõ nét ra bên ngoài
(thường được ví như nền móng) nên rất ít khi
nhận được sự chú ý thích đáng của các nhà
hoạch định chính sách trong việc xây dựng
Quốc hội điện tử.
Trong khi đó, chi phí để đầu tư, xây
dựng hạ tầng công nghệ thông tin lại chiếm
một phần ngân sách rất lớn. Bên cạnh các chi
phí đầu tư ban đầu, Quốc hội các nước còn
phải dành một nguồn kinh phí hàng năm để
duy trì và nâng cấp hệ thống. Theo nghiên
cứu vào năm 2008 của IPU, tỷ lệ đầu tư cho
hạ tầng công nghệ thông tin trung bình của
Quốc hội các nước là vào khoảng 2,8% tổng
ngân sách dành cho hoạt động của Quốc
hội6. Tuy nhiên, tỷ lệ này đã tăng lên một
cách mạnh mẽ trong những năm gần đây.
Điều tra của IPU vào năm 2018 đã cho thấy,
số lượng Quốc hội các nước dành hơn 10%
tổng ngân sách chi cho hoạt động của Quốc
hội để đầu tư vào hạ tầng công nghệ thông
tin đã tăng lên một cách nhanh chóng7.
Các nghiên cứu của IPU cũng cho thấy,
những thành phần cơ bản của hạ tầng công
nghệ thông tin phục vụ cho hoạt động của
Quốc hội gồm: máy tính cá nhân; hệ thống
máy chủ; hạ tầng mạng nội bộ; đường kết
nối internet; hệ điều hành và các phần mềm
cần thiết cho máy chủ, máy tính cá nhân;
trung tâm dữ liệu; hệ thống truyền thông
(như hệ thống âm thanh, hình ảnh v.v..); hệ
thống biểu quyết điện tử; hạ tầng bảo đảm
an ninh thông tin…8.
Theo thống kê của IPU, đa số các Quốc
hội trên thế giới đều đã đầu tư, xây dựng các
hạ tầng công nghệ thiết yếu nêu trên (khoảng
gần 90% tổng số nghị viện). Tuy nhiên, mức
độ hiện đại của hạ tầng của từng Quốc hội
phụ thuộc vào từng nghị viện trong đó có
những nước đã đầu tư xây dựng những hệ
thống rất hiện đại. Chẳng hạn, Quốc hội Hàn
Quốc đã phát triển mô hình phòng họp thông
minh cho phép các nghị sĩ Quốc hội tiếp cận
tất cả những thông tin cần thiết phục vụ cho
nội dung phiên họp thông qua hệ thống màn
hình máy tính cá nhân ngay tại chỗ ngồi của
các nghị sĩ. Hệ thống máy tính này cũng hỗ
trợ việc biểu quyết điện tử. Bảng điện tử lớn
trong phòng họp hiển thị kết quả biểu quyết
cũng như âm thanh, hình ảnh mà đại biểu
Quốc hội muốn trình diễn, minh họa cho phát
biểu của mình. Hệ thống phòng họp thông
minh còn được tích hợp hệ thống nhận diện
giọng nói, lưu trữ âm thanh, hình ảnh của
phiên họp để bảo đảm tiết kiệm thời gian tổ
chức phiên họp9. Tiếp sau Hàn Quốc, mô
hình này cũng đã được một một số Quốc hội
các nước khác nghiên cứu, phát triển. Chẳng
hạn, như Phòng họp thông minh của Quốc
hội Thổ Nhĩ Kỳ cho phép các đại biểu có thể
6. IPU, UN, World E-Parliament 2008 Report, Geneva, 2008, p.36.
7. IPU, UN, World E-Parliament Report 2018, Geneva, 2018, p.43.
8. IPU, UN, World E-Parliament 2008 Report, Geneva, 2008, p.36
9. Won-Jong Sang, The Establishment of a Digital Chamber, ASGP, Geneva, 2017 .
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
46
Số 22 (422) - T11/2020
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
sử dụng hệ thống điểm danh bằng nhận dạng
vân tay tại chỗ ngồi, sử dụng hệ thống công
nghệ thông tin để thực hiện việc đăng ký phát
biểu, biểu quyết, tiếp nhận văn bản, tài liệu10.
2.2. Cơ sở dữ liệu và chia sẻ tri thức
pháp hàng đầu để soạn thảo, quản lý, hợp
nhất và xuất bản các văn bản lập pháp và
phục vụ hoạt động của Quốc hội11.
Bên cạnh việc xây dựng các công cụ
quản lý, chương trình Quốc hội điện tử ở các
nước cũng xác định rõ các chiến lược dữ liệu
để xây dựng các cơ sở dữ liệu tập trung.
Theo đó, các dữ liệu được quan tâm lưu trữ
là: (1) các dữ liệu về hoạt động của Quốc
hội; (2) các thông tin về ngân sách (3) các
dữ liệu về các đảng phái và các nghị sĩ Quốc
hội. Trong các dữ liệu nêu trên, điều đáng
chú ý là theo thống kê của các nhà nghiên
cứu, các thông tin về các nghị sĩ Quốc hội
được công chúng quan tâm và sử dụng nhiều
nhất. Chẳng hạn như ở CHLB Đức, số lượt
truy cập để lấy thông tin và tương tác với các
nghị sĩ Quốc hội chiếm hơn một nửa số lượt
tìm kiếm thông tin về nghị viện. Các thông
tin được người dân quan tâm là về các lời
hứa của nghị sĩ, các lần biểu quyết của nghị
sĩ tại Quốc hội, tương tác, đặt câu hỏi với
nghị sĩ, tìm hiểu về các nguồn thu nhập của
nghị sĩ12.
Về dữ liệu phục vụ cho việc chia sẻ tri
thức, ra quyết định của Quốc hội, thông
thường việc tổ chức các dữ liệu này được
giao cho Thư viện Quốc hội hoặc Cơ quan
nghiên cứu của Quốc hội tổ chức thực hiện.
Các cơ quan này giữ một vai trò rất quan
trọng trong hoạt động của Quốc hội, cung
cấp các thông tin, tài liệu, kiến thức tham
khảo về chính trị, kinh tế, xã hội để phục vụ
cho hoạt động của Quốc hội. Hiện nay, có
khoảng 97% nghị viện các nước trên thế giới
có Thư viện Quốc hội hoặc cơ quan có tên
gọi khác nhưng có chức năng tương tự trong
Trong thời đại công nghệ số phát triển
mạnh mẽ, dữ liệu được xem là nguồn tài
nguyên quan trọng nhất. Đối với việc xây
dựng Quốc hội điện tử, dữ liệu cũng giữ một
vai trò quan trọng. Các dữ liệu được sử dụng
trong hoạt động của Quốc hội gồm 2 phần: các
dữ liệu được tạo ra trong quá trình hoạt động
của Quốc hội và các dữ liệu thông tin, kiến
thức phục vụ cho hoạt động của Quốc hội.
Về các dữ liệu được tạo ra trong quá
trình làm việc của Quốc hội, kinh nghiệm
xây dựng Quốc hội điện tử ở các nước cho
thấy, việc xây dựng cơ sở dữ liệu về hoạt
động của Quốc hội tuy có thể không đưa lại
những giá trị về thương mại như các cơ sở
dữ liệu khác nhưng lại giúp thúc đẩy hoạt
động của Quốc hội cũng như tăng cường
việc công khai, minh bạch hoạt động của
Quốc hội. Thống kê của IPU vào năm 2012
cho thấy, đa số Quốc hội của các nước phát
triển đã xây dựng các hệ thống quản trị văn
bản điện tử (DMSs) để quản trị tất cả các văn
bản từ các dự thảo luật, biên bản họp ủy ban,
kết quả biểu quyết v.v.. Một số nghị viện xây
dựng riêng cho mình các Hệ thống quản trị
văn bản điện tử riêng. Tuy nhiên, một trong
những công cụ được nghị viện nhiều nước
sử dụng để phục vụ cho công việc của mình
là Bungeni. Đây là một sáng kiến hợp tác
phát triển phần mềm dựa trên các tiêu chuẩn
mở và các ứng dụng nguồn mở cung cấp giải
10. Văn phòng Quốc hội, Báo cáo Kết quả nghiên cứu của Đoàn công tác của Văn phòng Quốc hội tại Ban
Thư ký Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ, tháng 10/2019.
11. Karolis Granickas, Parliamentary informatics: what data should be open and how multistakeholder efforts
can help parliaments achieve it, European Public Sector Information Platform, 2013.
12. Karolis Granickas, Dẫn trên.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
47
Số 22 (422) - T11/2020
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
cơ cấu tổ chức của cơ quan giúp việc13. Các
số liệu thống kê đáng chú ý trong báo cáo
của IPU năm 2018 có khoảng 64% các Thư
viện Quốc hội đã điện tử hóa quy trình tiếp
nhận các yêu cầu cung cấp thông tin của đại
biểu Quốc hội; 48% các Thư viện Quốc hội
áp dụng các thông báo tự động đến các thiết
bị điện tử của đại biểu Quốc hội, 66% mua
các cơ sở dữ liệu các bài báo, các cơ sở dữ
liệu nghiên cứu để phục vụ cho hoạt động
của đại biểu Quốc hội14.
trong toàn bộ quá trình soạn thảo, hỗ trợ việc
bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp
luật15.
- Ứng dụng lấy ý kiến về các dự án luật:
Ứng dụng này cho phép các đại biểu Quốc
hội có thể theo dõi các ý kiến của người dân
góp ý kiến vào các dự án luật được trình ra
Quốc hội.
- Ứng dụng theo dõi trực tuyến các
phiên họp: Ứng dụng này cho phép các nghị
sĩ có thể theo dõi diễn biến các phiên họp
của ủy ban, các phiên họp toàn thể của Quốc
hội thông qua ứng dụng cài đặt trên điện
thoại thông minh trong những trường hợp
nghị sĩ không thể trực tiếp tham gia các
phiên họp.
- Ứng dụng Thư viện Quốc hội: Ứng
dụng này cung cấp các dịch vụ trực tuyến
cho các đại biểu Quốc hội, cho phép các đại
biểu Quốc hội tiếp cận các cơ sở dữ liệu điện
tử của Thư viện.
- Ứng dụng của Văn phòng Ngân sách
Nghị viện: Ứng dụng này cung cấp cơ sở dữ
liệu các báo cáo đánh giá, phân tích về ngân
sách của Văn phòng Ngân sách Nghị viện.
- Ứng dụng của Cơ quan nghiên cứu
nghị viện: Ứng dụng này cung cấp các báo
cáo nghiên cứu và phân tích về các vấn đề
chính sách của Cơ quan nghiên cứu nghị
viện và cho phép các nghị sĩ gửi yêu cầu đến
Cơ quan nghiên cứu nghị viện đề nghị cung
cấp thông tin.
Ngoài các ứng dụng dành cho các đại
biểu Quốc hội, Quốc hội Hàn Quốc cũng
cung cấp 03 ứng dụng dành cho người dân
để tìm hiểu thông tin về các đại biểu Quốc
hội như:
2.3. Các ứng dụng phục vụ hoạt động
của Quốc hội
Để vận hành hoạt động của Quốc hội, có
rất nhiều các dạng ứng dụng công nghệ
thông tin khác nhau trong đó có những ứng
dụng mang tính phổ thông, áp dụng cho cho
hầu hết các cơ quan, tổ chức (như các ứng
dụng phục vụ công tác văn phòng) và những
ứng dụng mang tính đặc thù chỉ dành riêng
cho hoạt động của Quốc hội. Trong đó, điều
quan trọng trong việc xây dựng các ứng
dụng công nghệ thông tin là bảo đảm tính
đồng bộ. Chẳng hạn như ở Hàn Quốc, để
phục vụ cho hoạt động của Quốc hội, có 06
ứng dụng cài đặt trên điện thoại thông minh
được xây dựng để các đại biểu Quốc hội
thuận tiện trong việc tiến hành công việc
như:
- Ứng dụng thông tin về các dự thảo
luật: Ứng dụng này giúp các nghị sĩ tra cứu
thông tin về các dự án luật được trình ra
Quốc hội, các tài liệu liên quan, tình trạng
của dự án luật trong quy trình lập pháp. Đặc
biệt, ứng dụng này hỗ trợ rất lớn cho công
việc soạn thảo các dự án luật khi cho phép
các đại biểu Quốc hội có thể so sánh được
quy định hiện tại với các sửa đổi, bổ sung
13. IPU, UN, World E-Parliament Report 2016, Geneva, 2016.
14. IPU, UN, World E-Parliament Report 2016, Geneva, 2018.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
48
Số 22 (422) - T11/2020
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
- Ứng dụng thông tin về các đại biểu
Quốc hội: Ứng dụng này cho phép người
dân tìm hiểu thông tin về đại biểu Quốc hội
như đơn vị bầu cử, đảng phái, số nhiệm kỳ
Quốc hội, ủy ban.
- Ứng dụng Truyền hình Quốc hội16:
Ứng dụng này cho phép người dân xem trực
tiếp hoặc xem lại các phiên họp của Ủy ban
hoặc các phiên họp toàn thể của Quốc hội.
Ngoài ra, trên ứng dụng này còn có chương
trình Ngày lập pháp cung cấp các video ghi
hình đại biểu Quốc hội giải thích về các nội
dung chính sách của các dự án luật do mình
trình ra Quốc hội.
các câu hỏi để trắc nghiệm về sự hiểu biết
của công chúng về Quốc hội18. Trong khi đó,
Thượng viện Italia xây dựng ứng dụng có
tên gọi là Tabulas cung cấp cho các nghị sĩ
tất cả các thông tin về chương trình làm việc,
các đạo luật, thông tin, truyền hình v.v..19.
2.4. Cung cấp thông tin và tương tác
với công chúng
Trong bất kỳ mô hình thể chế nào, Quốc
hội luôn được coi là nền tảng của nền dân
chủ, là đại diện cho tiếng nói của người dân.
Chính vì vậy, ở các nước, chương trình phát
triển Quốc hội điện tử luôn coi trọng việc
cung cấp thông tin và tương tác với người
dân. Sự tương tác này diễn ra theo hai chiều:
người dân được tiếp cận với những thông tin
liên quan đến hoạt động và các quyết định
của Quốc hội và được nêu ý kiến, tham gia
vào các quyết định của Quốc hội. Các cấu
thành của Quốc hội điện tử cũng được xây
dựng theo hai hướng này.
Đối với việc phục vụ cho người dân tiếp
cận thông tin về hoạt động của Quốc hội, cấu
thành cơ bản nhất là Trang thông tin điện tử
của Quốc hội. Đây là nội dung rất quan
trọng, được xem là cơ sở để đánh giá mức
độ phát triển của Quốc hội điện tử ở các
nước20. IPU cũng đã nghiên cứu và biên soạn
riêng những hướng dẫn chi tiết về việc xây
dựng Trang thông tin điện tử Quốc hội. Tài
liệu này được cập nhật một cách thường
xuyên để phù hợp với sự phát triển của công
nghệ21. Cho đến năm 2018, theo khảo sát của
IPU thì đã có 100% các nghị viện tham gia
- Ứng dụng tham quan Nhà Quốc hội:
Ứng dụng này cho phép người dân đặt lịch
tham quan Nhà Quốc hội; tham quan Nhà
Quốc hội bằng hình thức thực tế ảo17.
Ở nhiều Quốc hội khác cũng có những
ứng dụng tương tự. Chẳng hạn như Quốc hội
Anh có ứng dụng cung cấp thông tin cho các
nghị sĩ Quốc hội về địa phương nơi mình
ứng cử. Ứng dụng này có tên gọi là Khu vực
cử tri của tôi (My Consituency App) do Thư
viện Hạ nghị viện Anh xây dựng, cung cấp
các số liệu thống kê, thông tin cập nhật về
kinh tế - xã hội của 650 khu vực bầu cử của
Hạ nghị viện Anh để giúp các Hạ nghị sĩ
nắm bắt được các thông tin về đời sống của
các cử tri của mình. Bên cạnh đó là các ứng
dụng: Văn kiện Quốc hội (House Papers)
bao gồm tất cả các thông tin phục vụ cho các
phiên họp của nghị viện; Hỏi đáp về Nghị
viện (Parliquiz) mang tính giáo dục, đưa ra
15. Lee Kil-Sup, ICT-Enabled Response to the Changing Legislative Environment, Geneva, 2018.
16. Truyền hình Quốc hội ở Hàn Quốc không phải là một cơ quan báo chí mà là một bộ phận thuộc Văn phòng
Quốc hội, cung cấp hình ảnh về hoạt động của Quốc hội một cách chân thực đến với công chúng.
17. Hwang Seung Ki, Mobile and Apps for MPs, World e-Parliament Conference 2014, may-2014.
19. Mauro Fioroni, Advances in the ICT strategies and Projects of the Italian Senate, Parliaments on the Net
XI, London 2013.
20. Xem Mục I.1.1.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
49
Số 22 (422) - T11/2020
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
khảo sát đã có Trang thông tin điện tử của
Quốc hội. Nội dung của các Trang thông tin
thường là về lịch sử, vị trí, vai trò, cơ cấu tổ
chức của Quốc hội, lịch làm việc, các tài liệu
liên quan đến các dự thảo luật, các quyết
định được thảo luận tại Quốc hội22.
với công chúng rất tiện lợi. Tuy nhiên, hạn
chế của nó là không có những công cụ
chuyên biệt để tăng cường sự tham gia của
công chúng vào những nội dung hoạt động
có tính chất riêng biệt của Quốc hội. Chính
vì vậy, Quốc hội một số nước đã phát triển
những ứng dụng riêng dành cho mục đích
tương tác với người dân, khuyến khích
người dân tham gia vào các quyết định của
Quốc hội. Ví dụ điển hình nhất là ứng dụng
Par.El.On của Quốc hội Italia. Đây là ứng
dụng cho phép người dân tham gia trực tiếp
soạn thảo, đề xuất các dự án luật theo đúng
chuẩn mực của các dự thảo và sự hỗ trợ về
ngôn ngữ pháp lý để từ đó gửi đến các đại
biểu Quốc hội, đề xuất trình ra Quốc hội
xem xét, thảo luận25.
Về việc quản lý các Trang thông tin điện
tử của Quốc hội, xu hướng ở Quốc hội các
nước được IPU ghi nhận là có sự chuyển
dịch rất rõ ràng theo hướng giao cho các vụ,
đơn vị trực tiếp cập nhật thông tin do mình
tạo ra trong quá trình hoạt động (chiếm
khoảng 42% tổng số Quốc hội tham gia khảo
sát); có khoảng 31% Quốc hội giao công
việc này cho vụ phụ trách truyền thông, báo
chí hoặc quan hệ công chúng làm đầu mối
chung; 17% giao cho đơn vị công nghệ
thông tin vừa phụ trách nội dung vừa phụ
trách về công nghệ thông tin; chỉ có 11% các
nghị viện còn lại giao nhiệm vụ này cho các
vụ, đơn vị khác23.
3. Xây dựng và vận hành Quốc hội
điện tử
Xây dựng và vận hành Quốc hội điện tử
là mong muốn của hầu hết Quốc hội các
nước trên thế giới. Tuy nhiên, kết quả xây
dựng Quốc hội điện tử ở một số nước không
đạt được kết quả mong muốn, thậm chí còn
lúng túng trong việc xác định các định
hướng và cách làm. Thực tế cho thấy, việc
xây dựng Quốc hội thường gặp phải những
khó khăn và thách thức nhất định như đòi
hỏi phải có nguồn lực to lớn; phải có đội ngũ
chuyên gia có trình độ cao để triển khai và
vận hành các dự án công nghệ thông tin một
cách phù hợp; phải bồi dưỡng, đào tạo các
đại biểu Quốc hội trong việc sử dụng các
ứng dụng Quốc hội điện tử; phải khắc phục
Về việc tương tác với công chúng, Quốc
hội các nước sử dụng nhiều công cụ khác
nhau, phổ biến nhất là qua mạng xã hội. Ưu
thế của mạng xã hội là vừa có thể cung cấp
thông tin một cách nhanh chóng cho người
dân, lại vừa nhận được những tương tác của
người dân. Hơn nữa, đây là công cụ ít tốn
kém, dựa trên những nền tảng mạng xã hội
đã có. Chính vì vậy, báo cáo năm 2018 của
IPU cho thấy, có trên 70% Quốc hội đã sử
dụng các nền tảng mạng xã hội để tương tác
với công chúng24.
Việc sử dụng mạng xã hội để tương tác
21. IPU, UN, Guidelines for Parliamentaries Websites, Geneva (bản đầu tiên 2000, bản cập nhật 2009).
22. IPU, UN, World E-Parliament Reports 2018, Geneva, 2018, p. 24.
23. Tlđd trên, tr.23.
24. Tlđd trên, tr.25.
25. Davide Barillari, Discovering eDemocracy and an in-depth Preview of Online Electronic, London, 2014.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
50
Số 22 (422) - T11/2020
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
khoảng cách giữa các nhóm quần chúng
khác nhau về việc tiếp cận công nghệ thông
tin (khoảng cách số)26. Để vượt qua những
thách thức, khó khăn này, kinh nghiệm của
Quốc hội các nước thường tập trung vào các
định hướng cơ bản sau đây:
Mặc dù chiến lược xây dựng Quốc hội
điện tử có ý nghĩa quan trọng, nhưng số
lượng các quốc gia ban hành các chiến lược
chỉ chiếm khoảng 1/3 tổng số các Quốc hội
được khảo sát vào năm 201828. Thực tế cho
thấy, những nước có Chiến lược xây dựng
Quốc hội điện tử được xây dựng bài bản và
được cập nhật thường xuyên thì kết quả của
việc xây dựng Quốc hội điện tử luôn đạt
được nhiều kết quả khả quan. Chẳng hạn
như ở Australia, trong giai đoạn 2013 đến
2018, Quốc hội nước này đã ban hành Chiến
lược công nghệ thông tin (ICT Strategic
Plan) bao gồm 4 nội dung chính là: (1) hỗ
trợ đại biểu Quốc hội hoạt động hiệu quả
hơn thông qua ứng dụng công nghệ thông
tin; (2) hỗ trợ các hoạt động của Quốc hội,
các ủy ban của Quốc hội; (3) giúp người dân
tham gia vào các hoạt động của Quốc hội dễ
dàng hơn; (4) phối hợp với các nhà cung cấp
dịch vụ29. Sau khi đạt được những thành tựu
nhất định, vào năm 2018, Chiến lược xây
dựng Quốc hội điện tử ở Australia được cập
nhật, trở thành Chiến lược nghị viện số 2019
- 2022 (Australian Parliament Digital
Strategy). Điểm mới nổi bật của Chiến lược
này là bổ sung các công nghệ số vào việc
phát triển Quốc hội điện tử với các chủ đề
nổi bật là: (1) quản trị thông tin như một loại
tài sản chiến lược; (2) phổ biến và công bố
các nội dung số sáng tạo; (3) làm việc mọi
lúc, mọi nơi, mọi cách; (4) hình thành cách
làm việc cùng nhau30.
3.1. Xây dựng các chiến lược về Quốc
hội điện tử
Việc xây dựng chiến lược phát triển
Quốc hội điện tử có ý nghĩa rất quan trọng,
có ảnh hưởng to lớn đến mức độ thành công
của các chương trình Quốc hội điện tử ở các
nước, thể hiện ở những nội dung cơ bản như
sau:
- Chiến lược phát triển Quốc hội điện tử
sẽ tạo ra nhận thức chung, tầm nhìn chung
của cả Quốc hội và các phương pháp để đạt
được mục tiêu đó. Một bản kế hoạch mang
tính chiến lược là phương tiện để xác định
các mục tiêu chung cho tất cả các bên tham
gia vào việc xây dựng Quốc hội điện tử.
- Việc xây dựng Chiến lược phát triển
Quốc hội điện tử sẽ giúp cho việc phân bổ
nguồn lực hiệu quả trong quá trình thực hiện
với các thứ tự ưu tiên được xác định rõ ràng.
- Chiến lược phát triển Quốc hội điện tử
cũng giúp thiết lập quy trình tổ chức rõ ràng
hơn, nhất là trong việc quản lý và giám sát
tiến trình thực hiện bao gồm cả những quy
trình đánh giá kết quả của dự án, tiến độ xây
dựng, điều chỉnh các cách thức xây dựng
phù hợp để bảo đảm đạt được các mục tiêu
của chiến lược27.
26. Xem thêm: Ahmed Kakshak, A Background on E-Parliament Services And Concepts: Citizens Awareness
27. Tham khảo thêm Tlđd trên.
28. Gherardo Casini, Realising The Digital Parliament, Geneva, 2017.
30. Parliament of Australia, Australian Parliament Digital Strategy 2019 - 2022, http://www.aph.gov.au.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
51
Số 22 (422) - T11/2020
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
3.2. Nguồn nhân lực xây dựng và vận
hành Quốc hội điện tử
giỏi, Ban Thư ký Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ đã
thực hiện chính sách thu hút đặc biệt. Theo
đó, những người này sẽ được tuyển dụng
theo chế độ hợp đồng có thời hạn nhưng
được hưởng lương ở mức gấp 4 lần so với
thu nhập bình quân của các chuyên viên
trong biên chế nhà nước33.
Để xây dựng và vận hành Quốc hội điện
tử, Quốc hội các nước có thể lựa chọn sử
dụng nguồn nhân lực bên trong hoặc bên
ngoài Quốc hội. Tuy nhiên, các báo cáo
thống kê cho thấy, đa số các Quốc hội đều
lựa chọn phương án sử dụng kết hợp giữa
nguồn nhân lực bên trong và bên ngoài31.
Những nước sử dụng đồng thời các chuyên
gia công nghệ thông tin bên trong và bên
ngoài thường có có sự phân công tương đối
rõ ràng các công việc mà hai bên thực hiện.
Chẳng hạn, khảo sát ở các Quốc hội cho
thấy, các chuyên gia công nghệ thông tin bên
trong Quốc hội thường thực hiện những
công việc như quản trị trang thông tin điện
tử, hỗ trợ người dùng, quản trị mạng, quản
trị an ninh thông tin… trong khi đó, những
công việc thường phải thuê các chuyên gia
bên ngoài là lập trình, phát triển phần mềm,
lập trình hệ thống, đào tạo…32.
Bên cạnh đó, công nghệ thông tin là một
dạng công nghệ mới, đòi hỏi những đối
tượng sử dụng phải trải qua những khóa đào
tạo thì mới có thể sử dụng một cách thành
thạo. Việc đào tạo sử dụng công nghệ thông
tin thường là một công việc khó khăn do đòi
hỏi phải thay đổi những thói quen làm việc
hàng ngày. Trên thực tế, đã có nhiều dự án
công nghệ thông tin thất bại do không nhận
được sự tin tưởng và hưởng ứng của những
người trực tiếp sử dụng. Trong môi trường
của Quốc hội, việc đào tạo sử dụng công
nghệ thông tin còn gặp nhiều khó khăn hơn
do các đại biểu Quốc hội thường là những
người bận rộn. Hơn nữa, thông thường, các
đại biểu Quốc hội là người lớn tuổi chiếm
một tỷ lệ khá lớn. Đây là những đối tượng
tiếp cận với công nghệ mới khá khó khăn.
Chính vì vậy, không thành thạo trong việc sử
dụng công nghệ thông tin được xem là một
trong những khó khăn lớn đối với các nghị
sĩ trong việc sử dụng các ứng dụng để tương
tác với các cử tri34. Giải pháp mà Quốc hội
các nước thực hiện là đào tạo ngay từ đầu
nhiệm kỳ đối với các đại biểu Quốc hội mới
được bầu và đào tạo liên tục trong suốt thời
gian đại biểu tham gia Quốc hội. Bên cạnh
đó, việc đào tạo cho đội ngũ giúp việc để
Tuy nhiên, một số nước có những giải
pháp rất đặc thù để thu hút chuyên gia công
nghệ thông tin có trình độ cao làm việc cho
Quốc hội để phát triển các dự án Quốc hội
điện tử. Chẳng hạn như ở Quốc hội Thổ Nhĩ
Kỳ, Cục Tin học thuộc Ban Thư ký Quốc hội
có 109 cán bộ, công chức, người lao động là
những người rất có năng lực. Phần lớn các
phần mềm được triển khai tại Quốc hội Thổ
Nhĩ Kỳ đều được Cục Tin học xây dựng và
phát triển, ngoại trừ một số phần mềm có
bản quyền phải mua ngoài. Tuy nhiên, để giữ
chân được những kỹ sư công nghệ thông tin
31. IPU, UN, World E-Parliament Report 2018, Geneva 2018, p.21
32. Tlđd trên, tr.142.
33. Văn phòng Quốc hội, Báo cáo Kết quả nghiên cứu của Đoàn công tác của Văn phòng Quốc hội tại Ban
Thư ký Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ, tháng 10/2019.
34. IPU, UN, World E-Parliament Report 2016, Geneva 2016, p.82
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
52
Số 22 (422) - T11/2020
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
những người này chủ động trong việc hỗ trợ
các đại biểu Quốc hội trong việc sử dụng các
ứng dụng công nghệ thông tin cũng rất được
chú trọng35.
Ntoso về định dạng văn bản XML cho các
văn bản của nghị viện là kết quả của một dự
án hợp tác nâng cao năng lực hệ thống thông
tin ở châu Phi vào năm 200437.
3.3. Hợp tác quốc tế trong xây dựng
Quốc hội điện tử
Trong khuôn khổ hợp tác song phương,
những kinh nghiệm quý báu của Quốc hội đi
trước cũng rất có giá trị. Báo cáo của IPU
vào năm 2018 cho thấy, rất nhiều nghị viện
sẵn sàng chia sẻ những kiến thức, nguồn lực
mà mình có để hỗ trợ Quốc hội các nước
khác trong việc phát triển Quốc hội điện tử.
Theo đó, có 49% Quốc hội được khảo sát đã
có những hình thức nhất định trong việc giúp
các nước khác phát triển Quốc hội điện tử38;
một số Quốc hội xây dựng những chương
trình cụ thể để hỗ trợ các nước khác như
chương trình Sáng kiến Hỗ trợ Quốc hội
điện tử (e-PAI – E-Parliament Assistance
Initiative) của Quốc hội Hàn Quốc, chương
trình này đã nhận được sự đón nhận của rất
nhiều Quốc hội các nước39.
Quá trình phát triển Quốc hội điện tử ở
các nước cho thấy, những kiến thức, kinh
nghiệm và sự hỗ trợ quốc tế cũng có một vai
trò quan trọng trong việc thúc đẩy việc xây
dựng và vận hành Quốc hội điện tử.
Lợi ích trước hết của việc hợp tác quốc
tế là những hợp tác trong khuôn khổ đa
phương chia sẻ những kiến thức, kinh
nghiệm trong việc phát triển Quốc hội điện
tử. Chẳng hạn, những báo cáo mang tính
định kỳ của IPU và UN là nguồn thông tin
rất quý giá để Quốc hội các nước có thể học
tập, xây dựng chiến lược, lộ trình phát triển
Quốc hội điện tử ở nước mình36. Việc tham
gia các cuộc điều tra, đánh giá về thực trạng
xây dựng Quốc hội điện tử theo định kỳ của
IPU và UN cũng là những dịp rất đáng quý
để bản thân mỗi Quốc hội có thể tự đánh giá
về những điểm mạnh, điểm yếu trong việc
xây dựng Quốc hội của mình, từ đó có
những điều chỉnh phù hợp. Những hợp tác
quốc tế đa phương trong việc phát triển
Quốc hội điện tử cũng là khuôn khổ để hình
thành nên những tiêu chuẩn kỹ thuật dùng
chung, phục vụ cho việc thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Quốc hội. Chẳng hạn,
như đã đề cập ở trên, tiêu chuẩn Akoma
4. Một số kiến nghị
Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm xây
dựng và vận hành Quốc hội điện tử của các
nước, có thể rút ra một số kiến nghị đối với
việc xây dựng, phát triển Quốc hội điện tử ở
Việt Nam như sau:
Thứ nhất, Quốc hội cần có những chính
sách để phát triển tổng thể công nghệ thông
tin của đất nước, trong đó có những giải
pháp nhằm xóa bỏ khoảng cách số giữa các
nhóm công chúng. Đây là điều kiện quan
trọng để vừa nâng cao năng lực công nghệ
35. Tlđd trên, tr.81
36. Báo cáo Quốc hội điện tử toàn cầu, xuất bản định kỳ 2 năm một lần.
37. The International Conference Parliaments’ Information Management in Africa: Challenges and
Opportunities of ICTs to Strengthen Democracy and Parliamentary Governance (11 February 2005).
Parliaments’ Information Management in Africa - The Nairobi declaration of 11th February 2005. United
Nations.
38. IPU, UN, World E-Parliament Report 2018, Geneva 2018, p.69.
39. Park Kye Dong, Promoting E-Democracy in the Global Era, IPU, Geneva, 4/2009.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
53
Số 22 (422) - T11/2020
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
thông tin của đất nước, từ đó là điểm tựa để
phát triển có hiệu quả các chương trình xây
dựng và vận hành Quốc hội điện tử. Kinh
nghiệm ở Nghị viện của rất nhiều nước cho
thấy, việc xây dựng các hệ thống liên thông
giữa Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan, tổ
chức khác đã giúp đẩy nhanh việc tiến hành
các công việc của Quốc hội.
cấp những sản phẩm công nghệ thông tin
ứng dụng vào hoạt động của Quốc hội. Bên
cạnh đó, cũng cần có các chính sách để thu
hút nguồn nhân lực công nghệ thông tin có
chất lượng cao làm việc cho Quốc hội. Kinh
nghiệm của Quốc hội nhiều nước đã cho
thấy, có những nội dung công việc trong việc
vận hành hệ thống Quốc hội điện tử phải
được vận hành bởi đội ngũ chuyên gia công
nghệ thông tin bên trong của Quốc hội, đặc
biệt trong đó là việc bảo đảm an toàn, an
ninh thông tin cho các hệ thống công nghệ
thông tin của Quốc hội.
Thứ hai, việc xây dựng Quốc hội điện tử
cần được tiến hành trên cơ sở một Chiến
lược được nghiên cứu, phát triển một cách
kỹ lưỡng, chi tiết để trước hết tạo nên một
nhận thức chung cho các nhà lãnh đạo, các
đại biểu Quốc hội, chuyên viên giúp việc và
những người dân trong việc xây dựng Quốc
hội điện tử. Bên cạnh đó, việc xây dựng
chiến lược phát triển Quốc hội điện tử còn
là yếu tố bảo đảm tránh đầu tư dàn trải, thiếu
sự kết nối, đồng bộ trong việc phát triển
Quốc hội điện tử.
Thứ năm, cần dành nguồn lực tài chính
thích đáng cho việc phát triển Quốc hội điện
tử. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, việc
thiếu nguồn lực tài chính là một trong những
thách thức lớn nhất trong quá trình phát triển
Quốc hội điện tử. Tuy nhiên, việc đầu tư, xây
dựng hạ tầng công nghệ thông tin, các cơ sở
dữ liệu và ứng dụng trong Quốc hội điện tử
sẽ đưa lại rất nhiều lợi ích cả về mặt vật chất
như đẩy nhanh tiến độ thực hiện công việc,
giảm chi phí giấy tờ; và cả về những giá trị
vô hình như nâng cao tính dân chủ, mở rộng
công khai, minh bạch trong hoạt động của
Quốc hội, khuyến khích người dân tham gia
vào các hoạt động của Quốc hội.
Thứ ba, cần có những chính sách cụ thể
để phát triển các cơ sở dữ liệu phục vụ cho
hoạt động của Quốc hội, trong đó có những
dữ liệu được tạo ra trong quá trình hoạt động
của Quốc hội và những cơ sở dữ liệu phục
vụ cho việc ra quyết định của Quốc hội. Việc
tạo ra các cơ sở dữ liệu này cần được thực
hiện trên cơ sở có sự tham gia của rất nhiều
chủ thể có liên quan khác nhau, trong đó, xác
định trách nhiệm cụ thể trong việc chia sẻ,
cập nhật dữ liệu. Đây có thể nói là cơ sở
quan trọng nhất để phát triển Quốc hội điện
tử một cách bền vững, là cơ sở để từng bước
ứng dụng những công nghệ số hiện đại phục
vụ cho hoạt động của Quốc hội.
Thứ sáu, tăng cường tham gia các
khuôn khổ hợp tác quốc tế để tiếp cận
những kiến thức, kinh nghiệm của Quốc hội
các nước trong việc xây dựng và vận hành
Quốc hội điện tử. Trong đó, trước mắt cần
tham gia các chương trình nghiên cứu, điều
tra định kỳ của IPU và UN để qua đó xác
định rõ những điểm mạnh, điểm yếu trong
việc xây dựng Quốc hội điện tử của Quốc
hội Việt Nam để từ đó có những điều chỉnh
Thứ tư, để xây dựng và vận hành Quốc
hội điện tử hiệu quả, cần có chính sách
khuyến khích sự tham gia của các công ty
công nghệ thông tin tham gia chia sẻ, cung
phù hợp
n
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
54
Số 22 (422) - T11/2020
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng quốc hội điện tử - Kinh nghiệm ở một số nước và gợi mở cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- xay_dung_quoc_hoi_dien_tu_kinh_nghiem_o_mot_so_nuoc_va_goi_m.pdf