Khóa luận Giải quyết tranh chấp thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh
BỘ CÔNG AN
HỌC VIỆN AN NINH NHÂN DÂN
--------
NGUYỄN ĐỨC HOÀNG
GIẢI QUYẾT TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên nghành: Luật
HÀ NỘI 6- 2020
BỘ CÔNG AN
HỌC VIỆN AN NINH NHÂN DÂN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG
VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật
Họ tên sinh viên: Nguyễn Đức Hoàng
Lớp B4 Khóa DS4
Người hướng dẫn: ThS Hồ Thế Thiện
HÀ NỘI 6 - 2020
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- BLDS
- BLTTDS
- BLTTHS
- BLHS
- NQ
: Bộ luật Dân sự.
: Bộ luật Tố tụng dân sự.
: Bộ luật Tố tụng hình sự.
: Bộ luật hình sự.
: Nghị quyết.
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................................................................5
1.1.1 Khái niệm .........................................................................................5
HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ ......................................................................35
sự .............................................................................................................36
thường trong vụ án hình sự .........................................................................41
3.2.1. Về lập pháp.................................................................................... 46
KẾT LUẬN...........................................................................................................53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................55
PHỤ LỤC ............................................................................................................56
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự là một chế
định quan trọng trong luật dân sự. Theo quy định tại Điều 275 BLDS năm
2015 thì một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự là sự kiện “Gây thiệt hại do hành vi trái
pháp luật” và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại chương XX, phần
thứ ba Bộ luật dân sự (BLDS) “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng”. Sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật là căn cứ làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong trường hợp này trách
nhiệm được hiểu là nghĩa vụ, bổn phận của người gây thiệt hại phải bồi
thường cho người bị thiệt hại. Nhà làm luật trong trường hợp này đã đồng
nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với “Nghĩa vụ phát
sinh do hành vi trái pháp luật”.
Điều 584 BLDS đã xác định sự đồng nghĩa này bằng quy định:
“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác.
Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn
toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có
quy định khác.
Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài
sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát
sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này”.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ
nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng với khái
1
niệm nghĩa vụ được qui định tại Điều 274 BLDS: “Nghĩa vụ là việc mà theo đó,
một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao
vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc
không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể
khác (sau đây gọi chung là bên có quyền). Từ quy định này có thể nêu khái niệm
về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại như sau. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại là một
loại quan hệ dân sự trong đó người xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tái sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây
thiệt hại phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ được những vấn đề lý luận và
thực tiễn áp dụng chế định qui định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong vụ án hình sự. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng hợp, khóa
luận sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật Việt
Nam đối với các quy định về chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong vụ án hình sự trên thực tế.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện được mục đích trên, khóa luận phải hoàn thành một số
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam và một số thực tiễn
áp dụng chúng tại Toà án. Từ đó chỉ ra những điểm bất cập, thiếu hợp lý trong
các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong pháp luật
hình sự Việt Nam;
- Đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam
trong quá trình giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án
hình sự.
2
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ quy định pháp luật hiện hành, trong bối cảnh cải cách
tư pháp, khóa luận tập trung chủ yếu vào các vấn đề liên quan đến chế định
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trung làm sáng tỏ một vài trường hợp cụ
thể: Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm; Tranh chấp
về bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm; Bồi thường thiệt hại do tính
mạng bị xâm phạm; Bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm và bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều
601 BLDS).
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, chính sách của Nhà nước về chiến lược cải cách tư
pháp. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh. Cụ thể:
- Phương pháp phân tích là phương pháp được tác giả sử dụng xuyên
suốt trong 02 chương của khóa luận. Tại chương 1, tác giả sử dụng phương
pháp phân tích để phân tích các khái niệm về chế định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự. Tại chương 2, tác giả sử dụng
phương pháp này để phân tích nội dung các quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành về chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự,
phân tích những vướng mắc, khó khăn khi áp dụng các quy định pháp luật
hiện hành để từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật.
- Phương pháp thống kê được tác giả sử dụng để tập hợp số liệu thụ lý
vụ án của toàn ngành Tòa án nhân dân.
- Phương pháp tổng hợp là phương pháp được sử dụng để hoàn thành
tiểu luận trên cơ sở phân tích, thống kê các tài liệu thu thập được.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của khóa luận
Khóa luận nêu được cơ sở lý luận cơ bản của việc quy định pháp luật
3
Việt Nam qua đó chứng minh quan điểm đúng đắn, chính xác của Đảng và
nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền công dân trong lĩnh vực này.
Từ những quy định của pháp luật về trách nhiệm nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự, khóa luận khẳng định Nhà nước
thừa nhận quyền của người dân. Trên cơ sở đó, khi quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân bị xâm phạm thì người dân được thực hiện quyền yêu cầu Nhà
nước bảo vệ quyền lợi cho mình.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật về thực hiện quy định pháp
luật Việt Nam, khóa luận nêu lên được những nội dung tích cực cũng như tiêu
cực, phát hiện những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự để từ đó có phương
hướng khắc phục, sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Những kết luận, giải pháp, kiến nghị trong khóa luận góp phần làm căn
cứ để hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam tại Tòa án nhân dân. Trên
nền tảng đó, nhà nước ta hoàn thiện các chế định tư pháp, tăng cường quyền
tiếp cận công lý của công dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây
dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mục lục, lời mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và kết luận,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong vụ án hình sự.
Chương 2: Nguyên tắc giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự.
Chương 3: Thực tiễn thi hành và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.1.1 Khái niệm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử
phát triển của pháp luật thế giới cũng như pháp luật Việt Nam. Kế thừa
những quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong Bộ luật Hồng Đức,
Bộ luật Gia Long, pháp luật dân sự ngày nay đã có những qui định khá chi
tiết về vấn đề này.
Tiếp cận dưới cấp độ khoa học pháp lý, ta có thể hiểu (1) Trách nhiệm
BTTH là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm
nghĩa vụ pháp lý của mình, gây tổn hại cho người khác thì phải bồi thường
những tổn thất mà mình gây ra
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm BTTH.
Khái niệm về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cũng được xây dựng dưới
dạng quan điểm mà chưa được ghi nhận chính thức trong bất cứ một văn bản
pháp luật nào. Theo đó, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được hiểu là một
loại trách nhiệm dân sự đó, người có hành vi trái pháp luật dân sự phải bồi
thường cho người bị thiệt hại.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh khi chủ thể luật dân sự
có hành vi vi phạm nói chung như xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Ngoài ra, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng còn phát sinh ngay cả khi hai
bên có quan hệ hợp đồng trong trường hợp gây thiệt hại về sức khỏe, tính
mạng hoặc các bên có quan hệ hợp đồng nhưng thiệt hại xảy ra không liên
quan đến việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.
5
Là một loại trách nhiệm dân sự nên ngoài những đặc điểm của trách
nhiệm dân sự nói chung, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng còn có những
đặc điểm riêng như:
- Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi thỏa mãn những
điều kiện nhất định do pháp luật quy định, giữa các bên có quan hệ hợp đồng
thiệt hại xảy ra không liên quan đến hợp đồng.
- Thiệt hại xảy rất đa dạng.
- Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là trách nhiệm tài sản, hậu quả
pháp lý mà người gây thiệt hại phải gánh chịu là hậu quả bất lợi về tài sản.
- Người gây thiệt hại phải bồi thường trong một số trường hợp không
có lỗi.
1.1.2. Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt ngoài
hợp đồng (Điều 584 BLDS 2015).
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều
kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: có thiệt hại xảy ra; hành vi
gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây
thiệt hại và thiệt hại xảy ra; có lỗi. Lỗi không phải là điều kiện bắt buộc làm
phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, trong một số trường hợp, trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh ngay cả khi người gây thiệt hại
không có lỗi (khoản 3 Điều 601, Điều 603 BLDS 2015 và Nghị quyết số
03/2006/HĐTP-TANDTC ngày 8/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLDS về bồi thường thiệt hại).
1.1.2.1. Phải có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại là điều kiện đầu tiên làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường. Có
thiệt hại thì mới phát sinh trách nhiệm bồi thường, đồng thời nội dung tranh
chấp chủ yếu là thiệt hại. Vì vậy, việc xác định thiệt hại xảy ra hay không?
Thiệt hại bao nhiêu là vấn đề quan trọng trong giải quyết tranh chấp bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
6
a. Thiệt hại về vật chất:
- Thiệt hại do tài sản bị xâm phâm quy định tại Điều 589 BLDS;
- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 590
BLDS;
- Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 591
BLDS;
- Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại
khoản 1 Điều 592 BLDS.
b. Thiệt hại tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người gây thiệt hại hoặc
do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân
phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất
uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm…và cần phải được bồi thường một
khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần
của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ
chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút
hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin…vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi
thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.
1.1.2.2. Hành vi trái pháp luật
Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể
hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của
pháp luật (Tiểu mục 1.2 mục I Nghị quyết số 03/2006/HĐTP-TANDTC
ngày 8/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS về bồi
thường thiệt hại).
1.1.2.3. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi
trái pháp luật
Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và
ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại (Tiểu mục 1.3
7
mục I Nghị quyết số 03/2006/HĐTP-TANDTC ngày 8/7/2006 hướng dẫn áp
dụng một số quy định của BLDS về bồi thường thiệt hại).
Mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ nội tại tất yếu giữa hành vi trái
pháp luật và thiệt hại, hay nói cách khác thiệt hại xảy ra là do chính kết quả
trực tiếp, tất yếu của hành vi trái pháp luật.
Trong tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài ngoài hợp đồng, mối
quan hệ nhân quả là một vấn đề phức tạp, bỡi lẽ một thiệt hại xảy ra có thể là
do tác động của một hoặc của nhiều hành vi trái pháp luật cũng có thể gây ra
nhiều thiệt hại…
Trong trường hợp có nhiều hành vi trái pháp luật, thì cần làm rõ: thiệt
hại do những hành vi nào (trong thực tế cùng lúc có nhiều hành vi trái pháp
luật cùng xảy ra nhưng có hành vi nào là nguyên nhân chính hay tất cả đều là
nguyên nhân hỗn hợp dẫn đến thiệt hại như nhau; hành vi nào là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại…Cũng có nhiều trường hợp thiệt hại xảy ra
lại là do một hành vi trái pháp luật khác xen vào chứ không phải do hành vi
có chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh gây thiệt hại. Ví dụ: A dùng cây
đánh B bị thương nặng, trên đường đi cấp cứu B lại bị xe của C đâm phải gây
trấn thương sọ não dẫn đến tử vong. Như vậy, tuy hành vi của A có chứa
đựng khả năng gây thiệt hại đến tính mạng của B nhưng khả năng này chưa
kịp phát huy thì hành vi trái pháp luật của C lại xen vào phá vỡ đi khả năng
đó và tạo ra một quan hệ mới trong quan hệ này thì hành vi trái pháp luật của
C trực tiếp gây ra thiệt hại về tính mạng cho B.
Tóm lại, việc xác định mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả giữa
hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp cụ thể rất
phức tạp và dễ dẫn đến những sai lầm. Vì vậy, khi xem xét mối quan hệ này
cần hết sức thận trọng, phải thu thập đầy đủ các tài liệu và chứng cứ, đánh
giá một cách toàn diện đối với vấn đề đang giải quyết để có thể đưa ra một
8
kết luận chính xác, xác định đúng người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
và trách nhiệm bồi thường đó đến đâu.
1.1.2.4. Phải có lỗi cố ý hoặc vô ý của người gây thiệt hại
a) Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi
của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn
hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
b) Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành
vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước
thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt
hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Trong trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt hại cả
khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong
trường hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp
luật đó.
Ví dụ: khoản 3 Điều 601 BLDS 2015 quy định:
“3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người gây thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế
cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
1.1.3. Các nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Theo tinh thần điều 585 BLDS 2015 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-
HĐTP ngày 08/7/2008 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn
áp dụng một số quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quy định
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quy định về nguyên tắc bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: Thiệt hại thực tế phải được bồi thường
toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức
bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương
9
thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
a) Bồi thường thiệt hại toàn bộ, có nghĩa là khi có yêu cầu giải quyết
bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy
tín bị xâm phạm phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS quy định
trong trường hợp cụ thể đó thiệt hại bao gồm những khoản u, mỗi khoản bao
nhiêu, trên cơ sở đó tính tổng mức thiệt hại đã xảy ra, mức độ lỗi của các bên
để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường tất cả các khoản thiệt hại tương
xứng đó.
b) Bồi thường thiệt hại kịp thời, Tòa án phải giải quyết nhanh chóng
yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định. Trong trường hợp
cần thiết có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo
quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự.
- Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý
mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt
hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền thay đổi mức bồi thường.
1.1.3.1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
Điều 586 BLDS và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2008
của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.1.3.1.1. Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Người gây ra thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân,
cơ quan nhà nước,…Nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có “khả
năng” bồi thường và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù
hành vi gây ra thiệt hại có thể không phải chính họ thực hiện. BLDS quy định
về năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân (Điều 586) mà không quy
10
định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác. Bởi vậy, các chủ thể khác
được mặc nhiên coi là có năng lực chịu trách nhiệm BTTH. Việc xác định cá
nhân nào có năng lực chịu trách nhiệm BTTH và phải BTTH trong trường
hợp nào có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị thiệt hại.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh dựa trên các điều kiện do
pháp luật quy định. Khi có thiệt hại xảy ra, thiệt hại xảy ra do hành vi trái
pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy
ra, có lỗi thì trong đa số trường hợp, người gây thiệt hại phải bồi thường cho
người bị thiệt hại. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau như người gây
thiệt hại bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,
không có tài sản hoặc có tài sản nhưng không đủ để thực hiện trách nhiệm bồi
thường mà người gây thiệt hại không thể trực tiếp bồi thường cho người bị
thiệt hại. Vậy, câu hỏi đặt ra ai sẽ là người có trách nhiệm bồi thường trong
những trường nêu trên ?
Pháp luật cũng đã dự liệu cách giải quyết cho những tình huống này.
Trong từng hoàn cảnh cụ thể, luật dân sự xác định trách nhiệm BTTH thuộc
về cha, mẹ của người gây thiệt hại là người chưa thành niên dưới mười lăm
tuổi, người giám hộ của người gây thiệt hại là người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự,…Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là việc xác định người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
chính trong từng trường hợp gây thiệt hại cụ thể bất luận người đó có phải là
người trực tiếp gây ra thiệt hại hay không.
Việc cá thể hóa trách nhiệm bồi thường chính là việc quy trách nhiệm
bồi thường cho một chủ thể cụ thể. Đây là việc làm có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong vấn đề BTTH ngoài hợp đồng. Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường
thiệt hại sẽ giúp cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại diễn ra dễ
dàng hơn, xác định đúng người có trách nhiệm bồi thường sẽ tạo ra tính khả
11
thi cho công tác thi hành án sau này; cá thể hóa trách nhiệm để xác định trách
nhiệm thuộc về ai giảm bớt nguy cơ việc lạm dụng việc mất năng lực hay
không đầy đủ khả năng nhận thức của người khác mà kích động họ gây thiệt
hại cho người khác và thu lợi bất chính, đồng thời nâng cao tinh thần, trách
nhiệm của những người có nghĩa vụ trông nom, giáo dục những người không
có năng lực hành vi hoặc có năng lực hành vi một phần.
Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường có thể dựa trên những tiêu chí nhất
định như độ tuổi và trình độ nhận thức. Cụ thể:
- Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ gây thiệt hại thì phải tự
mình BTTH.
- Người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên, do đó khi người chưa
thành niên gây thiệt hại cần lưu ý:
+ Nếu người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ
thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ
để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài
sản đó để bồi thường phần còn thiếu.
+ Nếu người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại
thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường
thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ
thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi
thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để
bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu
người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì
không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
- Người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt trong
thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì các tổ chức
12
này phải BTTH. Nếu tổ chức này chứng minh được mình không có lỗi thì cha
mẹ người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự phải BTTH.
1.1.3.1.2. Năng lực bồi thường thiệt hại của người có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ.
Khoản 1 Điều 586 BLDS 2015 quy định: “ Người từ đủ mười tám tuổi
trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường”, tuy nhiên, qua việc xem xét mối
liên hệ giữa quy định này với quy định tại Khoản 3 Điều 586 BLDS thì thấy
rằng cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì phải tự bồi thường nếu
gây thiệt hại.
Điều 20 BLDS về năng lực hành vi dân sự của người thành niên quy
định: “Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên. Người thành
niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các điều
22, 23 và 24 của Bộ luật này”. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người
thành niên. Người thành niên nếu không bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình mà bị Tòa án
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự; không nghiệm ma túy, nghiện các chất
kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình mà bị Tòa án tuyên hạn
chế năng lực hành vi dân sự thì được coi là có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ. Ở mỗi con người bình thường đều có khả năng hình thành và phát triển ý
thức và tự ý thức. Nhưng phải qua quá trình hoạt động và giáo dục trong điều
kiện xã hội, khả năng đó mới có thể trở thành hiện thực. Những người đáp
ứng đủ các điều kiện trên, xét về cơ bản tâm sinh lý của họ đều đã phát triển
một cách hoàn thiện. Họ hoàn toàn có đầy đủ khả năng để nhận thức về sự
vật, sự việc và tự quyết định về hành động của mình, hoàn toàn có khả năng
nhận biết được thế giới khách quan. Họ có nghĩa vụ phải biết trước những
hành vi của mình sẽ đem lại những hậu quả như thế nào, hành vi đó xâm
phạm đến lợi ích của các chủ thể khác hay không từ đó lựa chọn cách xử sự
13
phù hợp, đảm bảo cân bằng giữa lợi ích cá nhân, lợi ích của các chủ thể khác
và xã hội.
Việc xác định người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ phải bồi thường cho những thiệt hại mà mình gây ra là hoàn
toàn phù hợp. Bởi lẽ, người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đủ điều kiện tham
gia vào các quan hệ pháp luật do vậy, họ hoàn toàn có năng lực để tham gia
và trở thành chủ thể của quan hệ BTTH và nếu là người gây thiệt hại thì họ
hoàn toàn có đủ năng lực để thực hiện trách nhiệm bồi thường. Ở độ tuổi
này, họ đã có khả năng lao động, có thể tạo ra thu thập, hình thành khối tài
sản riêng của mình.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ trong số những
người từ đủ mười tám tuổi trở lên là những người mới trưởng thành, họ vẫn
còn đi học, chưa có công việc làm, chưa có thu nhập hay tài sản đáng kể, vẫn
sống phụ thuộc vào cha, mẹ. Vì vậy, trong trường hợp những người từ đủ
mười tám tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhưng không có tài sản
riêng gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thuộc về ai ? Nếu họ vẫn là
những người phải chịu trách nhiệm BTTH thì họ phải thực hiện trách nhiệm
đó như thế nào ? Nếu họ không thực hiện được thì phải chăng họ phải gánh
chịu những hậu quả pháp lý bất lợi và những người bị thiệt hại cũng không
được bồi thường ? Đây là một tình huống xảy ra khá phổ biến trong những
vụ về xác định trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Nếu Tòa án áp dụng một
cách tuyệt đối và cứng nhắc những quy định của pháp luật thì sẽ phải hoãn
việc thi hành án cho đến khi người gây thiệt hại là người mới trưởng thành
có việc làm, có thu nhập. Tuy nhiên, việc làm này lại trái với nguyên tắc bồi
thường toàn bộ và kịp thời, không đảm bảo khôi phục lại tình trạng ban đầu
hoặc khắc phục thiệt hại một cách nhanh nhất, đảm bảo cuộc sống ổn định
cho người bị thiệt hại trước khi xâm phạm. Vậy nên trong trường hợp này
Tòa án có thể chủ động giải thích, khuyến khích cha mẹ người thành niên đó
14
tự nguyện bồi thường thiệt hại do người mới trưởng thành gây ra. Tòa án có
thể công nhận sự tự nguyện đó, nhưng về mặt pháp lý, không thể quyết định
cha mẹ họ phải bồi thường. Ngoài ra, trong trường hợp người thành niên có
thu nhập, còn ở chung và chung kinh tế với cha mẹ, mà gây thiệt hại thì họ
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng phần thu nhập thường xuyên
của bản thân và phần tài sản chung với cha mẹ. Tòa án cần triệu tập cha mẹ
họ đến phiên Tòa với tư cách là dự sự.
1.1.3.1.3. Năng lực bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại do
tài sản của vợ chồng gây ra
Liên quan đến vấn đề năng lực BTTH của người đã thành niên, có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự, theo ý kiến chủ quan, em xin được đề cập
đến vấn đề BTTH ngoài hợp đồng do tài sản vợ chồng gây ra. Trên thực, có
không ít những trường hợp tài sản gây thiệt hại là tài sản thuộc sở hữu chung
hoặc riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Xác định trách nhiệm
BTTH thuộc về ai trong những trường hợp này vẫn còn được ít nhắc tới.
Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành về tài sản, tài sản của vợ
chồng bao gồm vật, tiền và các quyền tài sản. Tài sản của vợ chồng có thể là
động sản hay bất động sản…Tất cả các tài sản này dựa vào các căn cứ khác
nhau mà được phân thành tài sản chung và tài sản riêng; việc xác định đâu là
tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ, chồng là cơ sở để giải quyết các vấn
đề liên quan đến trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng khi có thiệt hại xảy ra.
Việc xác định trách nhiệm BTTH trong trường hợp thiệt hại do tài sản
của vợ chồng gây ra, bên cạnh việc xem xét các yếu tố để xác định trách
nhiệm BTTH còn phải căn cứ vào các loại tài sản cụ thể để xác định trách
nhiệm BTTH. Chính vì vậy, trách nhiệm BTTH do tài sản của vợ chồng gây
ra cần phải được xem xét trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, cần phải xác định có căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng hay không khi tài sản của vợ chồng gây thiệt. Điều này được
15
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Khóa luận Giải quyết tranh chấp thiệt hại ngoài hợp đồng trong vụ án hình sự của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- khoa_luan_giai_quyet_tranh_chap_thiet_hai_ngoai_hop_dong_tro.doc