Báo cáo thực tập tốt nghiệp Quyền và nghĩa vụ cha, mẹ với con sau ly hôn theo luật hôn nhân gia đình Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGUYỄN TẤT THÀNH
KHOA LUẬT
BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
NGÀNH LUẬT KINH TẾ
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON
SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA
ĐÌNH VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn:
ThS. HÀ THU THỦY
Sinh viên thực hiện
NGUYỄN NGỌC TRANG
Mã số SV: 1711546444
Lớp: 17DLK1B
TP.Hồ Chí Minh - 2020
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGUYỄN TẤT THÀNH
KHOA LUẬT
BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
NGÀNH LUẬT KINH TẾ
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CHA, MẸ VỚI CON
SAU LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN GIA
ĐÌNH VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn:
ThS. HÀ THU THỦY
Sinh viên thực hiện
NGUYỄN NGỌC TRANG
Mã số SV: 1711546444
Lớp: 17DLK1B
TP.Hồ Chí Minh – 2020
LỜI CẢM ƠN
Tám tuần thực tập ngắn ngủi là cơ hội cho em tổng hợp và hệ thống hóa lại những
kiến thức đã học, đồng thời kết hợp với thực tế để nâng cao kiến thức chuyên môn.
Tuy chỉ có tám tuần thực tập, nhưng qua quá trình thực tập, em đã được mở rộng
tầm nhìn và tiếp thu rất nhiều kiến thức thực tế. Từ đó em nhận thấy, việc cọ sát
thực tế là vô cùng quan trọng – nó giúp sinh viên xây dựng nền tảng lý thuyết được
học ở trường vững chắc hơn.
Lời cảm ơn đầu tiên xin gửi lời cám ơn chân thành đến Ban giám hiệu trường Đại
học Nguyễn Tất Thành cùng quý thầy/cô khoa Luật đã tận tâm giảng dạy và truyền
đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu cho em. Đặc biệt, em xin cảm ơn cô Hà
Thu Thủy, người đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành bài báo cáo này.
Em xin gửi đến ban lãnh đạo Cục, các Phòng ban, các cô chú, anh chị trong Cục
Thi Hành án Dân sự TP Hồ Chí Minh – và đặc biệt cảm ơn Chấp hành viên Phan
Thị Soa người hướng dẫn cho em trong suốt quá trình thực tập để em có thể hoàn
thành kỳ thực tập tốt. Cảm ơn đơn vị đã tiếp nhận và nhiệt tình tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho em hoàn thành một kỳ thực tập một cách thuận lợi mặc dù còn nhiều
điều thiếu xót.
Vì thời gian và kiến thức còn hạn hẹp nên bài báo cáo không thể tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong sự góp ý của quý thầy cô và các bạn, để em rút kinh nghiệm và
hoàn thành tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Ngày ……... tháng ….…. năm 2020
Sinh viên thực hiện
(ký và ghi họ tên)
……………………………………….
i
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
• Họ và tên người nhận xét:…………………………………….…Học vị:……………
NỘI DUNG NHẬN XÉT
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
TPHCM, ngày ….. tháng …. năm 2020
NGƯỜI NHẬN XÉT
………………………………..
ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................1
1.Tính cấp thiết của đề tài: ...........................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu:................................................................................................2
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................2
5. Kết cấu bài báo cáo:..................................................................................................2
1.1 Khái quát về cơ quan thực tập:..............................................................................1
1.2 Chức năng, nhiệm vụ:.............................................................................................2
CHA MẸ VỚI CON SAU LY HÔN ............................................................................3
2.2.1 Quyền và nghĩa vụ về nhân thân ...........................................................................6
2.2.2 Quyền và nghĩa vụ về tài sản: ..............................................................................11
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật..............................................................14
3.2.1 Giải pháp về mặt lập pháp:..................................................................................14
3.2.3 Giải pháp về mặt kỹ thuật: ...................................................................................17
KẾT LUẬN ..................................................................................................................18
iii
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
HN&GĐ
Hôn nhân và gia đình
Tòa án nhân dân
Toàn án dân sự
TAND
TADS
VKS
Viện Kiểm sát
iv
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Gia đình và khoa học về gia đình luôn là vấn đề xã hội được tiếp cận và nghiên cứu từ
nhiều góc độ khác nhau. Trên góc độ nghiên cứu luật học, pháp luật hôn nhân gia đình
là một đề tài lớn có ý nghĩa xã hội nhân văn sâu sắc. Ly hôn là một chế định pháp luật;
ly hôn cũng là một vấn đề xã hội. Hậu quả ly hôn sẽ đem lại ảnh hưởng xấu cho gia đình
và xã hội nếu không được giải quyết thấu tình đạt lý. Khoa học pháp lý và những quy
phạm pháp luật cụ thể có giá trị đặc biệt trong việc loại trừ hoặc giảm bớt những hậu
quả xấu do vấn đề ly hôn đặt ra.
Xét về phương diện lịch sử nhà nước và pháp luật, dưới bất kỳ chế độ xã hội nào, Nhà
nước cũng quan tâm đến việc giải quyết việc ly hôn và hậu quả pháp lý của nó. Nhưng
đối với những xã hội khác nhau thì mục đích điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề
hôn nhân và gia đình nói chung cũng như việc ly hôn và giải quyết hậu quả của nó nói
riêng là hoàn toàn khác nhau. Trong thực tế, nhìn chung các vụ kiện về hôn nhân và gia
đình là không đơn giả vì ngoài việc đụng chạm đến quyền lợi thiết thân của các bên
đương sự về mặt vật chất thì vấn đề chủ yếu nhất chính là việc đụng chạm đến tình cảm
của vợ, chồng; giữa cha, mẹ với con cái. Cho nên nếu giải quyết vấn đề này không hợp
tình, hợp lý, không dựa trên nguyên tắc bình đẳng, không làm thỏa mãn đối với các bên
đương sự sẽ dẫn đến việc các bên đương sự phải đi lại kiện tụng nhau nhiều lần, mất
nhiều thời gian, cuộc sống không ổn định sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của
cá nhân cũng như lợi ích chung của xã hội không những thế còn gây nên tình trạng mất
đoàn kết giữa các bên đương sự.
Vì vậy, trong quá trình xem xét, giải quyết vấn đề quyền và nghĩa vụ nuôi con của cha
mẹ sau ly hôn theo luật hôn nhân gia đình Việt Nam thì Tòa án ngoài việc phải tiến hành
điều tra, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của các bên đương sự, của con cái thì cần phải
phải nắm vững tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của gia đình mới có thể ra quyết định
đúng đắn trong mỗi bản án của mình. Trong giai đoạn hiện nay, việc giải quyết đúng
đắn, công bằng hậu quả pháp lý của các vụ việc ly hôn nói chung cũng như vấn đề quyền
và nghĩa vụ của cha mẹ sau ly hôn nói riêng của nó có một ý nghĩa đặc biệt to lớn. Về
mặt lý luận - nó củng cố vững chắc chế độ một vợ một chồng, tự nguyện, tiến bộ góp
1
phần khẳng định các nguyên tắc: Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng, nguyên tắc
bảo đảm quyền lợi của người vợ và con chưa thành niên, nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và
trẻ em theo Luật Hôn nhân gia đình năm 2000. Về mặt thực tiễn nó đảm bảo sự công
bằng về lợi ích cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự đặc biệt là đối với bà
mẹ và trẻ em.
Với mong muốn nhỏ bé nhằm góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận vấn đề quyền và
nghĩa vụ của cha, mẹ với con sau khi ly hôn trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt
Nam, tôi xin chọn đề tài: "Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ với con sau ly hôn theo luật
hôn nhân gia đình Việt Nam" làm báo cáo thực tập.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ cơ sở lý luận của Luật hôn nhân gia đình Việt Nam
về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con sau ly hôn. Đánh giá thực trạng, đề xuất một
số phương hướng giải pháp hoàn thiện pháp luật và tăng cường hiệu quả điều chỉnh của
pháp luật hôn nhân gia đình về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con sau khi ly hôn
cũng như đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ chồng trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc
con.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề quyền và nghĩa vụ của cha
mẹ với con sau ly hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam hiện
hành, thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con sau ly hôn.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài hướng tới nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với
con sau ly hôn trong luật hôn nhân gia đình Việt Nam hiện hành và các văn bản liên
quan.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh, logic học và xã
hội học … để làm rõ nội dung các vấn đề cần nghiên cứu của đề tài nhằm đảm bảo tính
khoa học.
5. Kết cấu bài báo cáo:
Ngoài phần mở đầu, kết thúc và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm
3 chương:
Chương 1: Tổng quan về cơ quan thực tập.
2
Chương 2: Những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con sau ly hôn.
Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định hiện hành về quyền
và nghĩa vụ của cha mẹ với con sau khi ly hôn và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CƠ QUAN THỰC TẬP
1.1 Khái quát về cơ quan thực tập:
1.1.1 Vài nét sơ lược về Cục thi hành án dân sự TP.HCM:
Địa chỉ: 372A Nguyễn Văn Lượng, Phường 16, Quận Gò Vấp, TP.HCM.
Điện thoại: 08.39893919; Fax: 08.39893918.
Email: hochiminh@moj.gov.vn
Cục Thi hành án dân sự có vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; Theo quy định tại
Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý
thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án
dân sự, Cục Thi hành án dân sự có vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức như sau:
1.Cục Thi hành án dân sự tỉnh là cơ quan trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự, thực
hiện chức năng thi hành án dân sự, có nhiệm vụ giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi
hành án dân sự quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan thi hành án dân
sự địa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
2.Cục Thi hành án dân sự tỉnh có các phòng chuyên môn trực thuộc.
3.Cục Thi hành án dân sự tỉnh có Cục trưởng đồng thời là Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự; Phó Cục trưởng đồng thời là Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự;
Chấp hành viên sơ cấp; Chấp hành viên trung cấp; Chấp hành viên cao cấp; Thẩm tra
viên thi hành án; Thẩm tra viên chính thi hành án; có thể có Thẩm tra viên cao cấp thi
hành án; Thư ký thi hành án và công chức khác.
4.Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh chịu trách nhiệm trước Tổng Cục trưởng
Tổng cục Thi hành án dân sự và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Cục Thi hành
án dân sự tỉnh. Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh chịu trách nhiệm trước Cục
trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh và trước pháp luật về lĩnh vực công tác được phân
công phụ trách.
5.Cục Thi hành án dân sự tỉnh chịu sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy
định tại Điều 173 Luật Thi hành án dân sự, có trách nhiệm báo cáo với Ủy ban nhân dân
cùng cấp về chủ trương, biện pháp tăng cường công tác thi hành án dân sự trên địa bàn
1
và thực hiện báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân cùng cấp theo
quy định của pháp luật.
1.1.2 Cơ cấu tổ chức Cục thi hành án dân sự TP.HCM:
Cục Thi hành án dân sự TP. Hồ Chí Minh hiện có 04 lãnh đạo gồm 01 Cục trưởng và
04 Phó Cục trưởng, với 06 phòng chuyên môn tham mưu trực tiếp cho lãnh đạo Cục
cùng 19 Chi cục THADS quận và 05 Chi cục THADS huyện, có trách nhiệm tổ chức thi
hành các bản án, quyết định theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.
1.2 Chức năng, nhiệm vụ:
Là một trong số 06 phòng chuyên môn thuộc Cục Thi hành án dân sự TPHCM, Phòng
Kiểm tra, Giải quyết khiếu nại, tố cáo có chức năng tham mưu, giúp Cục trưởng thực
hiện công tác kiểm tra; Thẩm tra hồ sơ thi hành án; Tiếp dân; Xử lý đơn thư, giải quyết
khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự; tham mưu công tác phòng, chống tham nhũng
trong ngành Thi hành án dân sự thành phố; Trả lời kháng nghị, kiến nghị của VKSND
và tổng hợp, báo cáo công tác bồi thường nhà nước.
2
CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
CHA MẸ VỚI CON SAU LY HÔN
2.1 Khái quát về quyền và nghĩa vụ cha mẹ sau ly hôn:
2.1.1 Khái niệm quyền và nghĩa vụ cha mẹ với con sau ly hôn:
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con có thể được tiếp cận dưới góc độ một bộ
phận đặc thù quyền con người trong lĩnh vực gia đình và dưới góc độ các quyền và nghĩa
vụ dân sự.
Trong số các quyền con người mà các văn bản luật quốc tế nêu trên có đề cập đến thì
quyền liên quan đến cha mẹ, con cũng là một nội dung cơ bản và nhận được sự quan
tâm của nhiều quốc gia thành viên. Tại khoản 1, Điều 9 công ước quốc tế về quyền trẻ
em có quy định: Các quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng trẻ em không bị tách khỏi
cha, mẹ trái với ý muốn của họ , trừ trường hợp do các cơ quan có thẩm quyền quyết
định với sự thẩm định của Tòa án rằng theo pháp luật và các thủ tục áp dụng thì việc
tách khỏi cha mẹ như vậy là cần thiết cho lợi ích tốt nhất của trẻ em. Quyết định này có
thể là cần thiết trong những trường hợp đặc biệt như trẻ em bị cha mẹ lạm dụng hay bỏ
mặc, hoặc khi cha mẹ sống ly thân và cần có một quyết định về nơi cư trú của trẻ em.
Để có thể đưa ra khái niệm về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con thì trước hết
chúng ta cần tìm hiểu rõ nội dung của thuật ngữ “nghĩa vụ” và “quyền”. Theo như từ
điển luật học, “Quyền là khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp
luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân, tổ
chức được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế”1, còn
“Nghĩa vụ là việc phải làm theo bổn phận của mình”2. Pháp luật quy định về nghĩa vụ
và quyền của cha mẹ đối với con dựa trên những chuẩn mức về đạo đức có nền tảng
xuất phát từ những yếu tố: tình cảm, huyết thống, nuôi dưỡng, tuy nhiên vẫn phải bảo
đảm theo một quy tắc thống nhất và theo sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể hiểu quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con
như sau: “Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con là tổng hợp những quy định mà
pháp luật cho phép cha, mẹ được hưởng, được làm, được đòi hỏi, bên cạnh đó còn là
1 Từ điển luật học, Trang 648
2 Từ điển luật học, Trang 560
3
những điều bắt buộc cha mẹ phải thực hiện cho con vì lợi ích của con, bao gồm cả nghĩa
vụ và quyền về nhân thân lẫn tài sản.
2.1.2. Nguyên tắc xác định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối vói con sau ly hôn:
Ly hôn là một vấn đề xã hội được quan tâm ở hầu hết các quốc gia giới. Đây là vấn đề
không mới nhưng luôn nhức nhối bởi những hậu quả nặng nề mà nó để lại. Ly hôn làm
chấm dứt quan hệ vợ chồng, nhưng quan hệ cha mẹ đối với con thì không thay đổi mà
chỉ đặt ra vấn đề giải quyết giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng và việc cấp dưỡng nuôi
con như thế nào. Những vấn đề này phải được giải quyết xuất phát từ góc độ bảo vệ
quyền trẻ em, đồng thời bảo vệ quyền của cha mẹ.
- Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em: Trong xã hội xưa và nay, người phụ nữ góp
một vai trò vô cùng quan trọng, vai trò đó thể hiện ngay trong gia đình, họ vừa là
người vợ, người mẹ, người con dâu trong gia đình. Họ còn có vai trò lớn với xã hội
đó là người lao động trong xã hội, vì vậy người phụ nữ không chỉ có vai trò quan
trọng trong gia đình mà còn đối với cả xã hội. Dưới chế độ cũ, quyền yêu cầu ly hôn
và những quyền lợi của phụ nữ sau khi ly hôn bị hạn chế bởi mối quan hệ “bất bình
đẳng”, duy trì chế độ gia trưởng. Người phụ nữ sau khi ly hôn phải gắng chịu hậu
quả vô cùng lớn về nhân thân và tài sản, hầu như những quyền lợi của họ mặc nhiên
không được công nhận. Đến Luật Hôn nhân và gia đình từ năm 1986, năm 2000 và
năm 2014 các quy định bảo vệ người phụ nữ khi ly hôn dần được hoàn thiện và ghi
nhận trong Luật.
Không chỉ đề cao vai trò của người phụ nữ và pháp luật bảo vệ quyền lợi của họ khi ly
hôn mà đối tượng trẻ em và quyền trẻ em cũng là nội dung được ưu tiên hàng đầu khi
giải quyết các trường hợp ly hôn. Trẻ em là hạnh phúc của gia đình là tương lai của đất
nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu không được sự
quan tâm của xã hội, sự bảo vệ của pháp luật thì những mầm non của hôm nay không
thể trở thành những công dân có ích cho xã hội mai sau. Những đứa trẻ có cha mẹ ly
hôn phải chịu thiệt thòi so với các bạn bè đồng lứa, hơn nữa chúng còn chưa thể tự lo
cho mình được, vì vậy cần có sự quan tâm đặc biệt tới đối tượng này. Không phải ngẫu
nhiên mà nguyên tắc " Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ
em ... " được đưa vào trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật hôn nhân, gia đình.
Và ngay cả cha mẹ - là những bậc sinh thành của trẻ, khi có hành vi vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cũng sẽ bị hạn chế quyền
4
của mình. Đặc biệt, nhà làm luật còn dự liệu cả những trường hợp sau ly hôn, trẻ phải ở
với bố dượng hay mẹ kế, để hạn chế tối đa vấn đề bạo lực, bạo hành gia đình, gây ảnh
hưởng xấu đến đời sống tâm sinh lý của trẻ , tại Điều 79 Luật HNGĐ 2014 “Cha dượng,
mẹ kế có quyền và nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng của
bên kia cùng sống chung với mình theo quy định tại các điều 69, 71 và 72 của Luật này”
hay “Bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng không được ngược đãi hành hạ,
xúc phạm nhau”. Những quy định này dựa trên nền tảng đạo đức xã hội mang tính truyền
thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, đồng thời xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ quyền
lợi cho trẻ em.
-
Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng: Khi ly hôn, người cha và người mẹ hay
chính là vợ và chồng đều có cơ hội ngang nhau trong việc được trực tiếp nuôi dưỡng,
chăm sóc con . Theo đó, vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con nếu không thỏa thuận được thì mới
cần đến sự can thiệp từ tòa án. Ngoài ra, vợ, chồng còn bình đẳng trong quyền thăm
nom con sau ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không
ai được cản trở người đó thực hiện quyền thăm nom con của mình, và bình đẳng
trong quyền yêu cầu thay đổi người người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, tức là
sau khi ly hôn, nếu phát hiện người cha ( hoặc người mẹ ) đang trực tiếp nuôi con
không bao đảm quyền lợi về mọi mặt của con thì người kia có quyền yêu cầu Tòa án
quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con để bảo đảm lợi ích cho con. Ví dụ
như trường hợp con sau khi ly hôn được sống với mẹ nhưng khi mẹ tái hôn thì bố
dượng thường xuyên hành hạ, đánh đập con riêng của vợ ảnh hưởng không tốt đến
tâm lý đứa trẻ, lúc này người bố của đứa trẻ có quyền yêu cầu thay đổi trực tiếp
quyền nuôi con.
- Nguyên tắc tôn trọng quyền của cha, mẹ: Theo nguyên tắc, quyền cha, mẹ là
quyền tuyệt đối.
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sau ly hôn thực chất là chúng ta đặt quyền và nghĩa vụ
trong một quan hệ pháp luật cụ thể đó là quan hệ pháp luật hôn nhân gia đình, hay chính
là giải quyết mối quan hệ vợ chồng trong vấn đề con cái sau khi ly hôn. Trong quan hệ
này quy định những việc bố mẹ được phép làm trong giới hạn quyền làm cha, làm mẹ
của mình như quyền được quản tài sản riêng của con chưa thành niên, quyền chăm sóc,
nuôi dưỡng hay quyền thăm nom. Đồng thời họ cũng phải thực hiện những nghĩa nhất
5
định như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra, nghĩa vụ cấp
dưỡng nuôi con ... Trong số các quyền hay nghĩa vụ đó có những nội dung vừa là quyền
và cũng vừa là nghĩa vụ, nó thể hiện được quan hệ qua lại, tương hỗ của hai yếu tố này,
đồng thời cũng phần nào phản ánh được tính chất riêng biệt và đặc thù của quan hệ pháp
luật hôn nhân gia đình; mặc dù là quan hệ pháp luật điều chỉnh nhưng vẫn mang trong
đó yếu tố đạo đức và truyền thống dân tộc.
2.2. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con sau khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam
2.2.1 Quyền và nghĩa vụ về nhân thân
Sau khi ly hôn, người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con là người cùng sống với con
trong một ngôi nhà, vì vậy họ không bị hạn chế quyền của cha mẹ đối với con. Họ là
người có thể theo dõi con hàng ngày, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình một
cách thường xuyên, liên tục. Hơn nữa, họ là người đã được xác định là người có thể nuôi
dưỡng, giáo dục con tốt hơn người kia, nên những nghĩa vụ và quyền mà hai vợ chồng
đã từng thực hiện trước đây vẫn được giao cho họ. Đó là những nghĩa vụ và quyền như
trực tiếp chăm sóc, dạy dỗ con, đại diện cho con trước pháp luật, quản lý tài sản của con
…
Quyền trực tiếp nuôi dưỡng con:
Vấn đề trao quyền trực tiếp nuôi dưỡng con cho ai luôn là một nội dung quan trọng trong
các vụ án ly hôn, có ý nghĩa quyết định đối với cuộc sống và tương lai của các con. Bởi
vì, người trực tiếp nuôi con là người cùng sống với con trong một mái nhà, có ảnh hưởng
sâu sắc đến sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, thể chất của trẻ. Một quyết định sai lầm
khi giao con cho người kia nuôi có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng không thể
khắc phục được. Vì vậy, dù việc giao con cho ai nuôi dưỡng, giáo dục trực tiếp là sự
thỏa thuận của cha mẹ hay quyết định của Tòa án thì đều phải được xem xét một cách
toàn diện và cẩn trọng, phải đảm bảo được lợi ích tốt nhất cho con cái. Khoản 2 Điều 81
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận người trực tiếp
nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa
thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền
lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ bảy tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của
con”.3
3 Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội
6
Việc xác định quyền lợi về mọi mặt của con phải căn cứ vào hoàn cảnh của người trực
tiếp nuôi con. Quyền lợi về mọi mặt của con không chỉ là đáp ứng những nhu cầu tối
thiểu mà còn bao gồm những điều kiện cần thiết cho sự phát triển về thể chất và trí tuệ
của con. Tuy nhiên, vẫn còn có trường hợp cả cha và mẹ không ai có đủ tư cách hoặc
điều kiện để được thực hiện quyền trực tiếp nuôi con thì có thể giao con cho một người
khác nuôi dưỡng. Người đó có thể là ông bà, cô, dì, chú, bác hoặc là anh, chị, em đã
thành niên... của đứa trẻ, có điều kiện bảo đảm cuộc sống ổn định cho các em. Miễn sao
quyền lợi của những đứa con được bảo vệ toàn diện nhất. Tất nhiên là nghĩa vụ của cha
mẹ đối với con cái cũng không vì thế mà mất đi.
Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng con:
Điều 15 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: "Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng
để phát triển toàn diện”. Khoản 1, Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy
định: "Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành
niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng
lao động và không có tài sản để tự nuôi mình".
Khi vợ chồng ly hôn, họ không thể cùng nhau thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng con
như lo cho con từng bữa ăn, giấc ngủ được mà quyền và nghĩa vụ này được thực hiện
bởi người trực tiếp nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con không thể thực hiện việc
này ,họ chỉ có thể thực hiện một cách gián tiếp qua việc thăm nom và cấp dưỡng nuôi
con. Như vậy, dù không cùng chung sống nhưng nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục con vẫn
được đặt ra cho cả hai người. Tuy nhiên, việc chăm lo cho cuộc sống hằng ngày của con
thuộc nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con.
Nghĩa vụ và quyền giáo dục con:
Khoản 1 Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: "Cha mẹ có nghĩa vụ
và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập”. Điều này cũng phù
hợp với quy định của Luật Trẻ em năm 2016, theo khoản 1, Điều 16: "Trẻ em có quyền
được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản
thân."
Giáo dục trẻ em không chỉ là nghĩa vụ của cha mẹ mà nó là sự phối hợp chặt chẽ giữa
gia đình, nhà trường và xã hội, theo Luật Trẻ em 2016: "Cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo
dục, gia đình, cá nhân có trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền và bổn phận của trẻ
7
em; hỗ trợ, tạo điều kiện để trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của mình theo quy định
của pháp luật; phối hợp, trao đổi thông tin trong quá trình thực hiện."4
Tuy nhiên, khi cha mẹ ly hôn có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến việc học tập của
các con. Trước hết, đó là sự thay đổi về tâm lý, tính cách, tinh thần học tập và rèn luyện.
Không ít các em rơi vào tình trạng mặc cảm, xấu hổ với bạn bè, thầy cô nên không muốn
đến lớp và thường xuyên trốn học. Việc thay đổi trường lớp cũng có thể xảy ra và để
làm quen được với môi trường mới cũng có thể làm việc học tập bị gián đoạn. Trẻ rất
khó hòa nhập vì sợ mọi người biết về hoàn cảnh gia đình mình. Việc học tập bị gián
đoạn, sa sút sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các em sau này. Vì vậy, khi giao con
cho người nuôi dưỡng phải cân nhắc kỹ tới việc học tập của trẻ. Và vai trò của người
trực tiếp nuôi con trong việc động viên, quản lý con trong học tập, rèn luyện là rất quan
trọng.
Quyền đại diện cho con:
Theo Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: "Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của
con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp
con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật"5.
Đại diện là việc một người nhân danh người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Theo quy định của pháp luật dân sự thì cha mẹ là
người đại diện đương nhiên cho con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng
lực hành vi dân sự, trừ một số trường hợp. Khi cha mẹ ly hôn mà có con thuộc đối tượng
cần phải chăm sóc nuôi dưỡng thì người trực tiếp nuôi con cũng đồng thời là người đại
diện theo pháp luật của con nếu họ đủ điều kiện. Để đảm bảo quyền lợi của con, pháp
luật quy định những trường hợp mà cha mẹ không được đại diện cho con.
Quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con:
Điều 82 Luật HN&GĐ 2014 quy định: "Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con
có quyền, nghĩa vụ thăm nom con; mà không ai được cản trở".
Thăm nom con là một quyền cơ bản đối với người không trực tiếp nuôi con. Pháp luật
quy định quyền này là rất hợp lý và có ý nghĩa với cả người con lẫn người không được
trực tiếp nuôi con. Đối với người con, khi không cùng được sống với cha hay với mẹ là
một thiệt thòi không gì bù đắp nổi. Bởi vì chúng chỉ mới là những đứa trẻ rất ngây thơ
4khoản 2, Điều 9, Quốc Hội (2016), Luật Trẻ em, Hà Nội
5 khoản 1, Điều 73, Quốc Hội (2014), Luật HN&GĐ, Hà Nội
8
và có quyền được sống trong gia đình hạnh phúc có cả cha và mẹ. Nhưng dù không
muốn, đứa trẻ chỉ được sống với một người. Ở lứa tuổi đang cần sự dỗ dành, chăm chút
của mẹ, sự dạy dỗ, dìu dắt của cha lại phải sống với một người chắc chắn trong tâm hồn
trẻ sẽ có sự thiếu hụt và lệch lạc. Và không ít trẻ em đã lâm và tình trạng rụt rè, thiếu tự
tin, không hòa nhập được với các bạn bè cùng lứa. Vì vậy, pháp luật quy định cho người
không được trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con đã bù đắp được phần
nào sự thiếu hụt, trống trải đó. Quy định này của pháp luật đã tạo điều kiện cho con cái
được hưởng tình yêu thương, chăm sóc của cả cha và mẹ, tạo cơ hội cho con cái được
thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc với người cha hoặc người mẹ không sống bên cạnh mình.
Đối với người không trực tiếp nuôi con thì quyền thăm nom con đã phần nào làm vơi đi
nỗi buồn và nhớ con, làm giảm bớt đi cảm giác day dứt khi vì mình mà con cái phải
sống trong cảnh thiếu thốn tình cảm. Khi được thăm nom con, họ có thể biết được tình
hình cuộc sống và học tập của con mình, có thể tâm sự và giúp con giải quyết những
vấn đề nhạy cảm mà người trực tiếp nuôi con mình không làm được… Đây cũng là một
cơ sở pháp lý để họ thực hiện quyền của mình. Tuy nhiên, dù thế nào thì quyền thăm
nom chỉ được duy trì và tôn trọng nếu như xuất phát từ lợi ích của con cái.
Quyền thăm nom con là một quyền nhân thân của người không trực tiếp nuôi con vì vậy
không ai được cản trở họ. Người trực tiếp nuôi con và những người khác có nghĩa vụ
tôn trọng quyền này. Để đảm bảo cho quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi
con được thực hiện một cách thuận lợi, và cũng là để bảo vệ quyền lợi của con, Nghị
định số 167/2013/NĐ-CP đã có quy định:
"Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi ngăn
cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con, trừ trường
hợp cha mẹ bị hạn chế quyền thăm nom con theo quyết định của tòa án; giữa vợ và
chồng; giữa anh chị em với nhau.”6
Tuy nhiên pháp luật cũng quy định rõ: "Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi
con lạm dụng việc thăm nom để cản trở gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm
sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con, thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn
chế quyền thăm nom con của người đó"7
6 Điều 53 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP
7 Khoản 3, Điều 82 Luật HN&GĐ 2014
9
Như vậy, thăm nom con không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của những người không
trực tiếp nuôi con. Đây là điểm khác biệt giữa Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 vì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ quy
định thăm nom con là quyền của người không trực tiếp nuôi con. Sở dĩ có quy định khác
như vậy có lẽ là nhà làm luật đã dựa vào thực tế. Người cha, người mẹ cần phải có trách
nhiệm đối với con, họ vừa coi đó là quyền lợi của mình và cũng là tốt cho con cái, vừa
phải coi đó là một nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện để bảo đảm quyền lợi toàn diện của
con cái. Tuy nhiên, việc pháp luật quy định đây là một nghĩa vụ thì phải quy định chế
tài xử phạt. Nhưng hiện nay vẫn chưa có chế tài xử phạt liên quan tới việc thực hiện
nghĩa vụ thăm nom của cha mẹ khiến cho rất nhiều phụ huynh coi thường việc thăm
nom con cái của mình khiến cho ảnh hưởng rất nhiều tới tâm lý trẻ em.
Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con:
Nuôi con là trách nhiệm của cha mẹ, không phụ thuộc vào cha mẹ có quan hệ hôn nhân
hay đã chấm dứt quan hệ hôn nhân hoặc không có quan hệ hôn nhân. Khi ly hôn, vợ
chồng không cùng sống chung trong một căn nhà, không thể cùng nhau chăm sóc, dạy
dỗ và lo toan cho con cái mà việc trực tiếp thực hiện trách nhiệm này thuộc về một
người. Với việc phải làm quen với cuộc sống mới lại một mình nuôi con, người trực tiếp
nuôi con sẽ gặp nhiều khó khăn nếu như người không trực tiếp nuôi con không chia sẻ
gánh nặng này. Nếu như thăm nom con là sự bù đắp cho con những thiếu thốn về mặt
tình cảm thì cấp dưỡng nuôi con là sự đóng góp để đảm bảo cho con sự đầy đủ tối thiểu
về mặt vật chất. Vì vậy, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: "Khi
ly hôn, cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con".
Như vậy, khác với việc thăm nom con, luật quy định cấp dưỡng là một nghĩa vụ của
người không trực tiếp nuôi con. Sau khi ly hôn, quan hệ pháp lý giữa cha mẹ và con vẫn
không hề thay đổi. Vì vậy, cấp dưỡng nuôi con là một nghĩa vụ hiển nhiên. Người không
trực tiếp nuôi con dù muốn hay không đều phải thực hiện trách nhiệm của mình. Nếu
như pháp luật không thể dùng các biện pháp cưỡng chế để buộc họ thực hiện nghĩa vụ
về mặt tình cảm thì ngược lại, pháp luật có thể quy định những biện pháp để họ thực
hiện những nghĩa vụ về mặt vật chất. Có thể người không trực tiếp nuôi con sẽ cấp
dưỡng do bị dùng các biện pháp cưỡng chế nhưng dù sao thì mục đích của việc cấp
dưỡng vẫn đạt được.
10
Khi ly hôn, việc chăm sóc con sẽ dồn lên vai một người, vì vậy việc nuôi dưỡng con sẽ
gặp nhiều khó khăn so với trước đây. Do đó, sự đóng góp vật chất để nuôi con là rất cần
thiết. Đó không chỉ là để duy trì cuộc sống ổn định cho con mà còn thể hiện trách nhiệm
của cha mẹ. Vì vậy, đây không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi của người không
trực tiếp nuôi con. Người trực tiếp nuôi con không thể vì hết tình cảm với người không
trực tiếp nuôi con hay vì tự ái mà để cho những đứa con phải chịu thiệt thòi, thiếu thốn.
Người không trực tiếp nuôi con cũng không thể viện lý do người kia có đầy đủ điều kiện
để nuôi con mà trốn tránh nghĩa vụ của mình. Bởi vì nuôi con không chỉ là nghĩa vụ
pháp lý mà còn là trách nhiệm của cha mẹ.
2.2.2 Quyền và nghĩa vụ về tài sản:
Quyền quản lý tài sản riêng của con:
Theo Điều 75 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:"con có quyền có tài sản
riêng". Tài sản riêng của con là để phục vụ cuộc sống hiện tại và tương lai sau này của
con, vì vậy, người trực tiếp nuôi con thường là người có trách nhiệm quản lý tài sản đó.
Tuy nhiên, nếu con đã đủ 15 tuổi trở lên thì có quyền tự mình hoặc nhờ người khác quản
lý tài sản riêng của mình. Cha mẹ không có nghĩa vụ phải quản lý tài sản riêng cho con
trong trường hợp này. Nếu người con có yêu cầu cha mẹ quản lý thì khi đó nó trở thành
một quyền mà không phải là một nghĩa vụ của cha mẹ. Vì vậy, trong trường hợp con đủ
15 tuổi trở lên có tài sản riêng mà không yêu cầu cha mẹ, cụ thể là người trực tiếp nuôi
con quản lý thì người đó cũng không có quyền đơn phương buộc con để mình quản lý
số tài sản đó. Nếu người con đó dưới 15 tuổi hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì việc
quản lý tài sản của con sẽ là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ - người trực tiếp nuôi con.
Ở độ tuổi dưới 15 hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì con không thể quyết định được
vấn đề quản lý tài sản riêng của mình một cách chính xác và đúng đắn. Vì vậy, là người
sinh thành, nuôi dưỡng con, cha mẹ là người thích hợp nhất để làm nhiệm vụ này. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt thì quyền này không thuộc về cha mẹ. Đó là
trường hợp con được tặng cho hoặc thừa kế theo di chúc của người khác mà người đó
lại chỉ định một người khác cha mẹ quản lý số tài sản đó. Cha mẹ phải tôn trọng ý nguyện
của người để lại tài sản cho con mình.
Theo Bộ luật Dân sự năm 2015 thì trong quá trình quản lý tài sản của con, nếu con dưới
15 tuổi thì cha mẹ có quyền định đoạt tài sản của con nhưng phải vì lợi ích của con và
nếu con đã đủ 7 tuổi trở lên thì cha mẹ phải xem xét nguyện vọng của con. Trường hợp
11
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo thực tập tốt nghiệp Quyền và nghĩa vụ cha, mẹ với con sau ly hôn theo luật hôn nhân gia đình Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- bao_cao_thuc_tap_tot_nghiep_quyen_va_nghia_vu_cha_me_voi_con.docx