Tiểu luận Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế - Buổi thảo luận số ba: Tài sản và quyền đối với tài sản

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC  
-----ooo-----  
MÔN HỌC: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ  
LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN THỪA KẾ  
Buổi thảo luận số ba: Tài sản Quyền đối với tài sản  
Lớp: Luật Hành chính K44A1  
Giảng viên: Th.S Ngô Thị Anh Vân  
Sinh viên thực hiện: Vũ Tuấn Anh  
MSSV:1953801014015  
1
MỤC LỤC  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Bộ luật Dân sự 2005  
2. Bộ luật Dân sự 2015  
3. Nguyễn Minh Oanh, “Các loại tài sản trong luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí  
luật học số, 1/2009  
4. Đỗ Thành Công, Vai trò của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vấn đề  
kiện đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.  
5. Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010  
6. Bộ luật tố tụng Dân sự 2015  
2
Tóm tắt bản quyết định số 06/2017/QĐ-PT  
Ngày 04/05/2017 Tòa án nhân dân huyện Duyên Khánh tỉnh Khánh hòa ra quyết  
định đình chỉ vụ án dân sự số 17/2017/QĐST-DS. Ngày 12/05/2017 Viện Kiểm sát  
nhân dân huyện Diên Khánh ra quyết định kháng nghị số 01/QĐKN-DS với lý do  
ông Hai có quyền khởi kiện vụ án vì ông là người quyền nghĩa vụ về tài sản do  
Lương Thị Xàm để lại. Ngày 15/05/2017 ông Hai viết đơn kháng cáo quyết định  
đình chỉ. Ngày 11/07/2017 Tòa án ra quyết định số 06/2017/QĐ-PT tuyên bố không  
chấp nhận kháng nghị của viện kiểm sát nhân dân và ông Hai, sửa Quyết định đình  
chỉ giải quyết vụ án số 17/2017/QĐST-DS ngày 04/05/2017 của Tòa án huyện Diên  
Khánh.  
Tóm tắt bản án số 39/2018/DSST  
Bà T và ông B có xảy ra tranh chấp về chứng nhận quyền sử dụng đất của ông B,  
bà T đòi ông B trả 120.000.000 thì mới trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất  
cho ông B. Sau khi xem xét tình tiết nội dung vụ án Tòa án ra quyết định số  
39/2018/DSST tuyên bố chấp nhận yêu cầu của ông B buộc bà T trả lại giấy chứng  
nhận quyền sử dụng đất cho ông B.  
Tóm tắt bản án số 22/2017/HC-ST  
Ngày 15/06/2017 ông Cường khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy quyết định số 714/QĐ-  
CCT ngày 12/05/2016 của chi cục trưởng chi cục thuế tỉnh Bến Tre. Ngày 21/09/2017  
Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre ra quyết định số 22/2017/HC-ST tuyên bố chấp nhận  
yêu cầu của ông Cường, hủy quyết định số 714/QĐ-CCT của chi cục trưởng chi cục  
thuế tỉnh Bến Tre.  
Tóm tắt quyết định giám đốc thẩm số 111/2013/DS-GĐT  
Ngày 19/09/2004 nguyên đơn Nguyễn Thị Châu có đơn kiện yêu cầu bị đơn chị  
Nhữ Thị Vân và những người khác có liên quan trả lại căn nhà số 02 Hàng Bút.  
12/04/2005 Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.  
Sau xét xử sơ thẩm chị Nhữ Thị Vân và Nguyễn Thị Ngọc Lan kháng cáo. 29/11/2005  
3
tòa phúc thẩm toàn án nhân dân tối cao ra quyết định số 253/2005/DS-PT tuyên bố  
hủy bản án sơ thẩm, giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của  
nguyên đơn. Sau khi phúc thẩm thì anh Nguyễn Hồng Sơn, chị Dương Thị Ngọc Lan  
chị Nhữ Thị Vân kháng cáo. Ngày 30/05/2011 Tòa án phúc thẩm Tòa án nhân dân  
tối cao Hà Nội ra quyết định số 90/2011/DS-PT tuyên bố chấp nhận yêu cầu của  
nguyên đơn buộc chị Nhữ Thị Vân, vợ chồng anh Nguyễn Hồng Sơn, chị Dương Thị  
Ngọc phải trả lại toàn bộ tầng 1 nhà số 02 Hàng Bút, phía nguyên đơn và anh Nguyễn  
Thanh Lâm có trách nhiệm bồi thường cho vợ chồng anh Nguyễn Hồng Sơn, chị  
Dương Thị Ngọc Lan 25.000.000. Sau khi phúc thẩm anh Nguyễn Hồng Sơn, chị  
Dương Thị Ngọc Lan và chị Nhữ Thị Vân có đơn đề nghị giám đốc thẩm. Ngày  
25/05/2012 Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số  
90/2011/DSPT ngày 30/05/2011 của Tòa án phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại  
Nội đề nghị hội đồng thẩm phán toàn án nhân dân tối cao giám đốc thẩm hủy bản  
án dân sự phúc thẩm nêu trên và bản án dân sự sơ thẩm số 49/2010/DS-ST ngày  
31/08/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Nội, giao cho Tòa án nhân dân thành  
phố Nội sơ thẩm lại. Ngày 09/09/2013 Tòa án nhân dân tối cao tại nội ra quyết  
đinh số 111/2013/DS-GĐT tuyên bố hủy toàn bộ bản án phúc thẩm số 90/2011/DSPT  
ngày 30/05/2011 của tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao Hà Nội hủy toàn  
bộ bản án dân sự sơ thẩm số 49/2010/DS-ST ngày 31/8/2010 của Tòa án nhân dân  
thành phố Nội. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Nội xét xử  
sơ thẩm lại.  
4
Phần I: KHÁI NIỆM TÀI SẢN  
Câu 1: Thế nào là giấy tờ có giá? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho ví dụ minh  
họa về một vài giấy tờ có giá.  
Theo khoản 8 Điều 6 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010; Khoản 1 Điều 3  
định: Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành  
giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện  
trả lãi và các điều kiện khác”.  
Một số loại giấy tờ có giá:  
- Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được quy  
định tại Điều 1 Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005;  
- Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại  
điểm c, khoản 1, Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005;  
- Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và các công cụ khác làm phát sinh nghĩa  
vụ trả nợ được quy định tại điểm 16, Điều 3 Luật Quản nợ công 2009;  
- Các loại chứng khoán (Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; Quyền mua cổ phần,  
chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng  
khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; Các loại chứng khoán  
khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại điểm 3 Luật Sửa đổi, bổ sung một  
số Điều của Luật Chứng khoán năm 2010;  
- Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số  
90/2011/NĐ-CP của Chính phủ về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.  
Câu 2: Trong thực tiễn xét xử, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng  
nhận sở hữu nhà” có là giấy tờ có giá không? Quyết định số 06 và bản án số 39  
có cho câu trả lời không?  
5
 
Trong thực tiễn xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu  
nhà” không phải giấy tờ có giá. Nếu cần phải xem xét thì đó chỉ đơn thuần được  
coi là một vật thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó.1  
Quyết định số 06 cho ta câu trả lời trong đoạn sau: “Căn cứ khoản 16 Điều 3 Luật  
đất đai năm 2013: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài  
sản khác gắn liền với đất chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng  
đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người quyền  
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.”. Như  
vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ văn bản chứa đựng thông tin về Quyền  
sử dụng đất, văn bản chứng quyền, không phải là tài sản và không thể xem là loại  
giấy tờ có giá.”.2  
Trong bản án số 39 có đoạn: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng chứng thư pháp  
để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền  
với đất hợp pháp của người quyền sử dụng đất, …”3. Như vậy trong bản án số 39  
cho ta câu trả lời giấy chứng nhận quyền sử dụng chỉ chứng thư.  
Câu 3: Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng  
nhận sở hữu nhà” có là tài sản không? Quyết đinh trên và bản án số 39 có câu  
trả lời không? Vì sao?  
Trong thực tiễn xét xử, “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở  
hữu nhà” không phải là tài sản.  
Trong bản án số 06 có ghi nhận: “…Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ văn  
bản chứa đựng thông tin về Quyền sử dụng đất, văn bản chứng quyền, không phải  
là tài sản, và không thể xem là loại giấy tờ có giá. Do đó việc ông Phạm Văn Hai khởi  
1 Nguyễn Minh Oanh, “Các loại tài sản trong luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí luật học số, 1/2009  
2 Quyết định số 06/2017/QĐ-PT về “Giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ vụ án” của  
Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa  
3 Bản án số 39/2018/DSST về “Đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng” của toàn án nhân dân huyện  
Long Hồ - Tỉnh Vĩnh Long  
6
kiện yêu cầu ông Phan Quốc Thái trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không  
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”.  
Trong bản án số 39 có đoạn: “Hội đồng xét xử thấy rằng Bộ luật tố tụng dân sự  
không quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp này”.  
Sở dĩ việc tranh chấp về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thuộc thẩm  
quyền của Tòa án vì theo công văn 141/TANDTC-KHXX các giấy chứng nhận quyền  
sở hữu tài sản (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu  
nhà ở, Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô…) không phải “giấy  
tờ có giá” quy định tại Điều 163 của Bộ luật Dân Sự năm 2005; do đó, nếu có yêu  
cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì Tòa án không  
thụ giải quyết. Như vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải giấy tờ  
có giá thậm chí không được xem là tài sản, do vậy không thể áp dụng biện pháp kiện  
đòi về dân sự.4  
Câu 4: Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trong quyết định số 06 liên  
quan đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”  
nhìn từ khái niệm tài sản (và nếu điều kiện, đối chiếu thêm với pháp luật nước  
ngoài);  
Trong quyết định số 06, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa nên chấp nhận kháng  
nghị 01/QĐKN/VKS-DS của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh  
Hòa, chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Phan Hai không đình chỉ giải quyết  
vụ án vì:  
- Căn cứ theo Khoản 2 Điều 14 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Tòa án không  
được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa Điều luật để áp dụng; trong  
trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng”.  
- Căn cứ theo Khoản 2 Điều 4 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015 quy định: “Tòa án  
không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa Điều luật để áp dụng;  
4 Đỗ Thành Công, Vai tcủa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vấn đề kiện đòi giấy chứng nhận  
quyền sử dụng đất.  
7
Vụ việc dân sự chưa Điều luật để áp dụng vụ việc dân sự thuộc phạm vi Điều  
chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ  
quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa Điều luật để áp dụng; Việc  
giải quyết vụ việc dân sự quy định tại khoản này được thực hiện theo các nguyên tắc  
do Bộ luật Dân Sự Bộ luật này quy định”.  
Câu 5: Nếu áp dụng BLDS năm 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy  
chứng nhận sở hữu nhà có là tài sản không? Vì sao?  
Nếu áp dụng Bộ luật Dân Sự 2015, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng  
nhận sở hữu nhà có là tài sản bởi theo Điều 105: “Tài sản vật, tiền, giấy tcó giá  
quyền tài sản.”. Việc xem hai loại giấy tờ này là vật là hoàn toàn hợp lý vì tồn tại  
dưới hình thức vật chất nhất định, thậm chí có hình dạng cụ thể (là tờ giấy), nằm trong  
khả năng chiếm hữu của con người (có thể thực hiện việc chiếm giữ, nắm giữ, quản  
lý), có giá trị sử dụng (được dùng để chứng minh quyền sử dụng, sở hữu đất hoặc nhà  
hợp pháp của người sử dụng đất hoặc nhà).5  
Câu 6: Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trong bản án số 39 liên quan  
đến “giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận sở hữu nhà”.  
Trong bản án số 39, hướng giải quyết của toàn án là hợp bởi:  
- Tuy Bộ luật tố tụng dân sự không quy định thẩm quyền giải quyết trong việc  
tranh chấp giấy chứng nhận sử dụng đất, nhưng về nguyên tắc toàn án không được từ  
chối giải quyết vụ án dân sự vì lý do chưa Điều lệ để áp dụng theo khoản 2 Điều  
4; khoản 2 Điều 14 Bộ luật tố tụng dân sự.  
- Trong thực tế xét xử, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không được xem là  
giấy tờ có giá và cũng không được xem là tài sản cho nên không được phép giao dịch  
trao đổi. Việc bà T khai con ông B có thế chấp cho bà để vay tiền mà không thể chứng  
minh được và không có chứng cứ xác thực vậy việc lấy giấy chứng nhận quyền  
5
Đỗ Thành Công, Vai trò của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vấn đề kiện đòi giấy chứng nhận  
quyền sử dụng đất.  
8
sử dụng đất của ông B và đòi ông B trả bà 120.000.000 thì bà mới trả giấy chứng  
nhận quyên sử dụng đất là không có căn cứ.  
Câu 7: Bitcoin là gì?  
Bitcoin (ký hiệu: BTC, XBT) là một loại tiền mã hóa, được phát minh dưới dạng  
phần mềm nguồn mở từ năm 2009. Bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng  
thiết bị kết nối Internet mà không cần thông qua một tổ chức tài chính trung gian nào.  
Bitcoin là loại tiền mã hoá điển hình nhất, ra đời đầu tiên, và được sử dụng rộng  
rãi nhất trong thương mại điện tử. Các doanh nghiệp có xu hướng muốn thanh toán  
bằng Bitcoin để giảm thiểu chi phí. Đến tháng 7 năm 2018, lượng tiền cơ sở của  
Bitcoin được định giá hơn 109 tỷ đô la Mỹ - là loại tiền mã hóa có giá trị thị trường  
lớn nhất. Những biến động lớn trong giá trị của mỗi bitcoin đã tạo nên những tranh  
cãi về tính phù hợp kinh tế của Bitcoin như một loại tiền tệ.  
Câu 8: Theo Tòa án, Bitcoin phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam không?  
Theo Tòa án, Bitcoin không phải là tài sản theo pháp luật Việt Nam vì Ngân hàng  
Nhà nước Việt Nam không chấp nhận tiền ảo tiền tệ, phương tiện thanh toán hợp  
pháp, đồng thời Nghị định số 96/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy  
định chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi phát hành, cung ứng sử  
dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp như Bitcoin và các loại tiền ảo tương  
tự. Bên cạnh đó, theo Điều 4, Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 (được  
sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016) đã có quy định  
rất rõ các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, trong đó không có loại phương  
tiện tương tự như Bitcoin, cụ thể: "Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt sử  
dụng trong giao dịch thanh toán (sau đây gọi phương tiện thanh toán), bao gồm:  
Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện  
thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”. Đồng thời, các quy định  
của Nghị định 101/2012/NĐ-CP cũng cấm sử dụng các phương tiện thanh toán không  
hợp pháp tại Việt Nam.  
9
Câu 9: Pháp luật nước ngoài có coi Bitcoin là tài sản không, nếu có nêu pháp  
luật mà anh/ chị biết.  
Nước đầu tiên hoàn toàn chấp nhận Bitcoin đó Nhật Bản. Bắt đầu từ ngày  
1/4/2017, Bitcoin được coi là tài sản và là một phương thức thanh toán hợp pháp,  
được quản bởi Cơ quan Dịch vụ Tài Chính Nhật Bản (JFSA). Điều 5 Luật Tiền ảo  
Nhật Bản năm 2017 thì tiền ảo được hiểu dưới hai góc độ: “(i) Giá trị giống như tài  
sản, được ghi lại bởi các cách thức điện tử trong các phương tiện điện tử, không bao  
gồm bất kỳ loại tiền tệ nào được cho phép của Nhật Bản hoặc các quốc gia khác, và  
các tài sản được xác định là các đơn vị tiền tệ đó, được sử dụng để thanh toán giá trị  
hàng hóa khi mua bán, thuê hoặc các dịch vụ khác cho một hoặc nhiều đối tượng  
không cụ thể (gọi Tiền ảo loại I); (ii) Giá trị giống như tài sản được dùng để trao  
đổi đối với một hoặc nhiều chủ thể không xác định với các giá trị tài sản đưa ra ở  
đoạn (i) nêu trên và có thể được chuyển giao thông qua hệ thống xử dữ liệu điện  
tử (gọi tiền ảo loại II)”.6  
Câu 10: Suy nghĩ của anh/ chị về quan điểm của toàn án đối với Bitcoin trong  
mối quan hệ với khái niệm tài sản ở Việt Nam.  
Việc Tòa án Việt Nam xem Bitcoin không phải là tài sản là phù hợp với pháp luật  
hiện hành theo khái niệm về tài sản bởi Bitcoin không thể được coi là một vật khi con  
người không thể cầm nắm, và không có một phương tiện nhất định nào để quản lý,  
Bitcoin cũng không được Ngân Hàng Nhà Nước coi là một loại công cụ tiền tệ hay  
hàng hóa để trao đổi. Với cơ chế hoạt động không có sự kiểm soát, Bitcoin nằm ngoài  
thẩm quyền quản của Ngân hàng Nhà nước. thế những giao dịch ngầm chúng  
ta khó kiểm soát được cho những hoạt động của tội phạm rửa tiền, trốn thuế, chuyển  
tiền bất hợp pháp, thanh toán, tài trợ chủ quyền quốc gia về phát hành tiền tệ sẽ bị  
xâm phạm, ảnh hưởng đến hiệu quả Điều hành chính sách tiền tệ.  
Câu 11: Quyền tài sản là gì?  
6 https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2507  
Truy cập ngày 14/03/2020  
10  
Căn cứ theo Điều 115, Bộ luật Dân Sự 2015 quyền tài sản: Quyền tài sản quyền  
trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ,  
quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”  
Câu 12: Có quy định nào cho phép khẳng định quyền thuê, quyền mua tài sản  
quyền tài sản không?  
Hiện nay chưa có quy định cụ thể nào khẳng định quyền thuê, quyền mua tài  
sản quyền tài sản tuy nhiên Bộ luật Dân Sự 2015 đưa ra đặc điểm của quyền tài  
sản” là “quyền trị giá được bằng tiềnviệc này đồng nghĩa với bất cứ quyền nào đem  
lại lợi ích kinh tế thì quyền đó quyền tài sản.  
Câu 11: Đoạn nào của quyết định số 05 cho thấy Tòa án nhân dân tối cao theo  
hướng quyền thuê, quyền mua là tài sản?  
Trong quyết định số 05 của Tòa án nhân dân tối cao có ghi nhận quyền thuê, quyền  
mua là tài sản tại phần nhận định của Tòa án: “Theo quy định tại Điều 188 và Điều  
634 Bộ luật Dân Sự 1995, quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T là quyền tài sản (trị  
giá đươc bằng tiền) được chuyển giao cho các thừa kế của cụ T. Do đó, bà H và  
ông T1 được hưởng thừa kế quyền thuê, mua hóa giá nhà của cụ T”.7  
Câu 12: Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao  
trong quyết định số 05 về quyền thuê, quyền mua (trong mối quan hệ với khái  
niệm tài sản)  
Việc Tòa án nhận định quyền thuê, quyền mua là tài sản hợp bởi trong theo  
Điều 163 Bộ luật Dân Sự 2005 “Tài sản vật, tiền, giấy tcó giá và quyền tài sản.”.  
Quyền thuê, quyền mua là quyền trị giá được bằng tiền nên là quyền tài sản theo Điều  
181 Bộ luật Dân Sự 2005 “Quyền tài sản quyền trị giá được bằng tiền và có thể  
chuyển giao trong giao dịch dân sự”  
7 Quyết định số 05/2018/DS-GĐT ngày 10-4-2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao  
11  
PHẦN II: CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU  
Câu 1: Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị  
Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy nghĩ của  
anh/ chị về khẳng định này của Tòa án?  
Trong quyết định số 111/2013/DS-GĐT ngày 09 tháng 09 năm 2013 về vụ án đòi  
nhà có đoạn khẳng định chị Vân đã chiếm hữu nhà đất có tranh chấp trên 30 năm:  
“Gia đình chị Nhữ Thị Vân ở tại nhà số 2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có  
lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của cụ Hảo nộp tiền thuê nhà cho ông  
Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền Nam sinh sống từ năm 1954, ông Chính  
không xuất trình được tài liệu cụ Hảo ủy quyền cho ông Chính quản căn nhà. Trong  
khi đó chị Vân khai gia đình chị ở tại căn nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là  
ông nội chị ở, sau này là bố chị Vân và chị Vân tiếp tục ở”.  
Khẳng định trên của Tòa án là không hợp lý vì chị Vân ở từ năm 1954, tính đến  
thời điểm bán cũng trên 30 năm, bên phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với chị  
Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa giải  
tại ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001), nhà này là nhà của cụ Hảo có trên  
giấy tờ lưu giữ, nếu không có văn bản nào của cơ quan nhà nước thì không thể gọi là  
nhà có đất tranh chấp được.  
Câu 2: Đoạn nào của quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị  
Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy  
nghĩ của anh/ chị về khẳng định này của Tòa án?  
Trong quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu  
ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân tại nhà số  
2 Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà  
của cụ Hảo nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền  
Nam sinh sống từ năm 1954, ông Chính cũng không xuất trình được tài liệu cụ Hảo  
ủy quyền cho ông Chính quản căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân  
ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị  
12  
 
Vân và chị Vân tiếp tục ở. Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia đình  
chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản hòa  
giải tại Uỷ ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001); đến năm 2004 cụ Hảo mới có  
đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ thực tế cụ Hảo  
không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên. Gia đình chị Vân đã ở tại căn nhà này trên  
30 năm chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại khoản 1 Điều  
247 Bộ luật Dân Sự về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu: Người chiếm hữu, người  
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai  
trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở  
thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy  
định tại khoản 2 Điều này...”.”  
Tòa án nhận định như thế chưa thỏa đáng, bởi căn nhà số 02 Hàng Bút là gia  
đình cụ Hảo cho thuê, cụ Hảo vẫn chủ sở hữu, cụ ủy quyền cho ông Chính quản lý  
ngồi nhà chứ không từ bỏ quyền sở hữu căn nhà, chị Vân vốn biết căn nhà của gia  
đình chị đang sinh sống được thuê từ ông Chính nên không thể khẳng định gia đình  
chị Vân đã chiếm hữu ngay tình nhà đất có tranh chấp trên 30 năm theo Điều 189 Bộ  
luật Dân Sự 2005: “Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay  
tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó  
là không có căn cứ pháp luật.”.  
Câu 3: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị  
Vân đã chiếm hữu liên tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy  
nghĩ của anh/ chị về khẳng định này của Tòa án?  
Trong quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu liên  
tục nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “Gia đình chị Nhữ Thị Vân tại nhà số 2  
Hàng Bút đã nhiều thế hệ, tuy chị Vân có lời khai thừa nhận gia đình chị thuê nhà của  
cụ Hảo nộp tiền thuê nhà cho ông Chính (con cụ Hảo), nhưng cụ Hảo vào miền  
Nam sinh sống từ năm 1954, ông Chính cũng không xuất trình được tài liệu cụ Hảo  
ủy quyền cho ông Chính quản căn nhà. Trong khi đó chị Vân khai gia đình chị Vân  
13  
ở tại nhà số 2 Hàng Bút từ năm 1954, lúc đầu là ông nội chị Vân ở, sau này bố chị  
Vân và chị Vân tiếp tục ở.”  
Khẳng định của Tòa án là hợp bởi thời điểm cho thuê là từ năm 1954 thì đến thời  
điểm năm 2004 khi cụ Hảo khởi kiện ra Tòa án cũng đã quá 30 năm. Cùng với việc  
gia đình cụ Hảo không có tài liệu chứng minh có đòi nhà đối với chị Vân từ sau năm  
1975 nên việc chiếm hữu liên tục trên 30 năm của chị Vân đối với ngôi nhà là thỏa  
đáng theo Điều 190 Bộ luật Dân Sự 2005: “Việc chiếm hữu tài sản được thực hiện  
trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về tài sản đó chiếm hữu liên  
tục, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu.”  
Câu 4: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định gia đình chị  
Vân đã chiếm hữu công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm và cho biết suy  
nghĩ của anh/ chị về khẳng định này của Tòa án?  
Trong Quyết định của Tòa án, đoạn khẳng định gia đình chị Vân đã chiếm hữu  
công khai nhà đất có tranh chấp trên 30 năm là: “Sau khi ông nội chết (1995) thì gia  
đình chị không đóng tiền thuê nhà cho ông chính nữa, Sau đó bố chị (ông Nhữ Duy  
Sơn) chị tiếp tục quản lý. Năm 1997 bố chị chết thì chị tiếp tục ở tại nhà số 2 (hàng  
bút tầng 1), chị không trả tiền thuê nhà cho ai.”  
Quyết định của Tòa án là hợp lí. Vì theo Điều 191 Bộ luật Dân Sự 2005 “Việc  
chiếm hữu tài sản được coi là chiếm hữu công khai khi thực hiện một cách minh bạch,  
không giấu diếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng  
được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của mình”. Có thể thấy trong  
khoảng thời gian gia đình chị Vân chiếm hữu căn nhà, bố chị Vân có nâng cao nền  
nhà, thay cửa, giữ gìn như tài sản của mình và sinh hoạt, sống trong căn nhà đó liên  
tục, công khai trong 30 năm.  
Câu 5: Đoạn nào của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không  
còn là chủ sở hữu nhà đất có tranh chấp và cho biết suy nghĩ của anh/ chị về  
khẳng định này của Tòa án?  
14  
Đoạn của Quyết định trên cho thấy Tòa án khẳng định cụ Hảo không còn là chủ sở  
hữu nhà đất có tranh chấp là: “Mặc dù phía nguyên đơn khai có đòi nhà đối với gia  
đình chị Vân từ sau năm 1975 nhưng không có tài liệu chứng minh (chỉ có biên bản  
hòa giải tịa Ủy ban nhân dân phường Hàng Bồ năm 2001 ); đến năm 2004 cụ Hảo  
mới đơn khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chị Vân trả nhà là không có căn cứ thực tế  
cụ Hảo không còn là chủ sở hữu nhà đất nêu trên”  
Quyết định trên của tóa án là không thỏa đáng bởi Nhà số 2, Hàng bút, quận Hoàn  
Kiếm, Nội bằng điền thổ số 25, tập 2, tờ số 55, đăng trước bạ Nội ngày  
04/11/1946, là tài sản riêng của cụ Dư Thị Hảo. cụ Hảo đã vào nam sinh sống  
nhưng cụ không từ bỏ quyền sở hữu của căn nhà, tới năm 2007 cụ Hảo qua đời thì di  
chúc mới hiệu lực.  
Câu 6: Theo anh/ chị, gia đình chị Vân có được xác lập quyền ở hữu đối với nhà  
đất có tranh chấp trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền không? Vì sao?  
Gia đình chị Vân không được xác lập quyền sở hữu đối với nhà đất có tranh chấp  
trên cơ sở quy định về thời hiệu hưởng quyền vì: Cụ Hảo chủ sở hữu căn nhà, khi  
cụ chết thì căn nhà thuộc về người thừa kế theo di chúc chứ căn nhà không phải là  
nhà vắng chủ, gia đình chị Vân cũng không thỏa mãn khoản 1 Điều 247 Bộ luật Dân  
Sự 2015 “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật  
nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba  
mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm  
bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.” khi gia đình chị  
chiếm hữu liên tục công khai nhưng không ngay tình nên không thể áp dụng quy định  
về thời hiệu hưởng quyền.  
15  
PHẦN III: CHUYỂN RỦI RO ĐỐI VỚI TÀI SẢN  
Câu 1: Ai phải chịu rủi ro đối với tài sản theo quy định của BLDS? Nêu cơ sở  
pháp lý khi trả lời.  
Chủ sở hữu phải chịu rủi ro đối với tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp  
thỏa thuận khác hoặc BLDS 2015, luật khác có liên quan quy định khác, Điều này  
được quy định ở khoản 1 Điều 162 Bộ luật Dân Sự 2015 “Chủ sở hữu phải chịu  
rủi ro về tài sản thuộc sở hữu của mình, trừ trường hợp thỏa thuận khác hoặc Bộ  
luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”  
Câu 2: Tại thời điểm cháy chợ, ai là chủ sở hữu số xoài? Nêu cơ sở pháp lý khi  
trả lời.  
Tại thời điểm cháy chợ bà Dung là chủ sở hữu của số xoài. Căn cứ theo khoản 1  
Điều 161 Bộ luật Dân Sự 2015 quy định về thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền  
khác đối với tài sản: Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản  
thực hiện theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; trường hợp luật  
không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên; trường hợp luật không  
quy định và các bên không có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền  
khác đối với tài sản thời điểm tài sản được chuyển giao. Thời điểm tài sản được  
chuyển giao là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ chiếm  
hữu tài sản.” Và trong tình huống nêu ra không có việc thỏa thuận giữa bà Dung và  
Thủy về thời điểm xác lập quyền sở hữu khi thực hiện giao dịch mua bán, nên thời  
điểm xác lập quyền sở hữu về số xoài đó sẽ được tính từ khi thời điểm Thủy chuyển  
giao số xoài đó cho bà Dung hay nói cách khác là bà Dung nhận số xoài đó, thời  
điểm cháy chợ là sau khi bà Dung nhận số xoài đó.  
Câu 3: Bà Dung có phải thanh toán tiền mua ghe xoài trên không? Vì sao? Nêu  
cơ sở pháp lý khi trả lời.  
Căn cứ vào khoản 1 Điều 441 Bộ luật Dân Sự 2015 quy định về thời điểm chịu rủi  
ro thì “Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho bên mua,  
bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ trường hợp có  
16  
 
thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác” tức việc xác định người chịu rủi ro về  
tài sản căn cứ vào thời điểm trước hay sau khi người mua giao cho người bán. Cụ thể  
trong tình huống này thì thời điểm vụ cháy (rủi ro) xảy ra là sau khi bà Dung (người  
mua) đã nhận ghe xoài từ Thủy (người bán) nên người phải chịu rủi ro đối với ghe  
xoài ở đây là bà Dung. Và vì bà Dung là người phải chịu rủi ro với tài sản nên bà  
Dung phải nghĩa vụ thanh toán tiền mua ghe xoài trên cho bà Thủy.  
17  
docx 17 trang yennguyen 01/04/2022 8060
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế - Buổi thảo luận số ba: Tài sản và quyền đối với tài sản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxtieu_luan_nhung_quy_dinh_chung_ve_luat_dan_su_tai_san_va_thu.docx