Xác lập và vận hành tín thác cho mục đích từ thiện: Kinh nghiệm từ quốc tế
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
XÁC LẬP VÀ VẬN HÀNH TÍN THÁC CHO MỤC ĐÍCH Từ THIỆN:
KINH NGHIỆM Từ QUỐC TẾ
Lê Bích Thủy
ThS.-Trường-Đại-học-Kinh-tế--Luật,-Đại-học-Quốc-gia-Tp.-Hồ-Chí-Minh
Thông tin bài viết:
Tóm tắt:
Từ khóa: Tín thác, tín thác cho mục
đích từ thiện, sản nghiệp.
Tính pháp lý của hoạt động huy động đóng góp cứu trợ không thông
qua tổ chức chuyên nghiệp tại Việt Nam gần đây nhận được sự quan
tâm lớn từ công chúng. Tại các quốc gia theo hệ thống pháp luật Anh-
Mỹ, một người có thể tách tài sản của mình thành những sản nghiệp
khác nhau dưới hình thức tín thác để phục vụ cho nhiều mục đích,
trong đó có mục đích từ thiện. Tuy nhiên, những quy tắc luật tài sản
hiện hành của Việt Nam không công nhận việc một chủ thể có thể cùng
lúc có nhiều hơn một sản nghiệp (trừ một số trường hợp đặc biệt). Do
đó, cần thiết lập cơ sở pháp lý để cho phép một chủ thể có thể có và
quản lý nhiều sản nghiệp độc lập, miễn là không để các sản nghiệp lẫn
lộn vào nhau thông qua sự vận hành của tín thác, nhằm tạo hành lang
pháp lý phù hợp cho các hoạt động nêu trên.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài
Biên tập
Duyệt bài
: 15/10/2020
: 22/10/2020
: 24/10/2020
Article Infomation:
Key words: Trust, charitable trust,
patrimony (estate).
Abstract:
In Vietnam, the legal aspects of the emergency relief donation call
taken by unprofessional persons have received a lot of concerns from
the public recently. In countries following the Anglo-Saxon legal
system, a person (either natural or legal) is entitled to split his/her
property into separate patrimonies under the form of trusts to serve
various purposes, including charitable ones. However, current property
laws of Vietnam have not entitled any persons to possess more than
one patrimony (except for some special cases). As a result, it is
fundamental to provide adequate legal foundations for a person to be
entitled to hold and manage separate independent patrimonies as long
as the mentioned estates are not mixed through the adoption of trust.
Article History:
Received
Edited
: 15 Oct. 2020
: 22 Oct. 2020
: 24 Oct. 2020
Approved
1. Đặt vấn đề
Tuy nhiên, có nhiều ý kiến khác nhau về tính
pháp lý và sự minh bạch của việc huy động
và vận hành nguồn tài chính được hình thành
từ sự đóng góp của công chúng. Thực tế này
cho thấy, sự cần thiết phải xây dựng hành
lang pháp lý cho hoạt động huy động đóng
góp và vận hành tài chính của các loại quỹ
có mục đích từ thiện nhưng nằm trong sản
nghiệp của cá nhân hoặc pháp nhân khác ở
nước ta hiện nay. Trong điều kiện đó, kinh
nghiệm triển khai tín thác hoặc tín thác cho
mục đích từ thiện tại các nước Phương Tây
là gợi mở hữu ích cho Việt Nam tham khảo.
Biến đổi khí hậu đang tác động ngày
càng lớn đến các quốc gia trên khắp thế giới,
trong đó có Việt Nam. Thiên tai xảy ra ngày
càng thường xuyên với sức tàn phá ngày
càng tăng. Với tính cách nhân hậu, “tương
thân tương ái”, hỗ trợ đồng bào của người
dân Việt Nam, nhu cầu có địa điểm tin cậy
để trao gửi lòng tin cho các hoạt động thiện
nguyện ngày càng trở nên cấp thiết hơn.
Thời gian gần đây, từ uy tín cá nhân, một số
người đã kêu gọi được sự ủng hộ tài chính
rất lớn từ công chúng cho hoạt động từ thiện.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
55
Số 20 (420) - T10/2020
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
2. Tín thác cho mục đích từ thiện tại các
quốc gia theo luật Anh -Mỹ
còn nữa mà hành vi này làm phát sinh mối
quan hệ pháp lý giữa người nhận tín thác và
người hưởng lợi tín thác. Do nắm giữ quyền
sở hữu tài sản về mặt pháp lý (legal
ownership), bên nhận tín thác có tất cả các
quyền của một chủ sở hữu hợp pháp đối với
tài sản, bao gồm các quyền chiếm giữ, sử
dụng và định đoạt. Tuy nhiên, tất cả các
quyền này đều bị hạn chế bởi những điều
kiện được quy định tại văn bản xác lập quan
hệ tín thác, đồng thời, việc thực hiện tất cả
các quyền này đều chỉ phục vụ cho mục đích
của tín thác chứ không phục vụ cho lợi ích
cá nhân của bên nhận tín thác1. Trong mối
quan hệ với bên thứ ba, bên nhận tín thác
đóng vai trò là chủ sở hữu tài sản và có
quyền đối vật đối với tài sản tín thác. Trong
khi đó, bên thụ hưởng tín thác có quyền
hưởng lợi từ tài sản theo các điều kiện được
quy định rõ trong tín thác (quyền sở hữu về
mặt lợi ích - equitable ownership)2. Sự phân
chia thành 2 loại quyền sở hữu này chính là
đặc điểm quan trọng nhất của tín thác theo
hệ thống pháp luật Anh-Mỹ3, mang đến 2 hệ
quả chính yếu sau đây:
2.1. Tín thác
Quan hệ “tín thác” hay “quản lý tài sản
ủy thác” (Trust) được xem là một trong những
thành tựu nổi bật của pháp luật Anh - Mỹ và
được áp dụng rất phổ biến từ rất lâu tại nhiều
quốc gia trên thế giới. Ở các quốc gia theo hệ
thống thông luật như Anh, Mỹ, Úc..., tín thác
không những được dùng như một công cụ
hữu hiệu nhất để xử lý các vấn đề liên quan
đến thừa kế, quản lý quỹ hưu trí, đầu tư tài
chính, tài sản hôn nhân mà đặc biệt là một
công cụ hữu hiệu để quản lý tài sản được trao
gửi cho các hoạt động thiện nguyện.
Trong quan hệ tín thác, tồn tại 3 bên
(bên lập tín thác, bên nhận tín thác và bên
thụ hưởng tín thác) và đòi hỏi sự phân chia
quyền sở hữu tài sản rõ ràng giữa bên nhận
tín thác (nhận ủy thác quản lý tài sản) sở hữu
tài sản về mặt pháp lý, có các quyền chiếm
giữ, sử dụng, định đoạt tài sản (nhưng không
thụ hưởng lợi ích từ tài sản) và bên thụ
hưởng tín thác sở hữu tài sản về mặt lợi ích
(có quyền hưởng lợi nhưng không được
chiếm giữ, định đoạt vào thời điểm tài sản
đang được bên nhận tín thác chiếm giữ). Bên
nhận và quản lý tín thác chỉ có thể quản lý
tài sản mà không thể hưởng lợi gì từ tài sản,
còn bên lập tín thác thì một khi đã đưa tài
sản vào tín thác thì không thể thay đổi đòi
lại. Ngay khi lập tín thác, các quyền của
người lập ra tín thác đối với tài sản không
Thứ nhất, tài sản tín thác được tách bạch
khỏi tài sản cá nhân của bên nhận4; do đó,
chủ nợ của bên nhận không thể tác động gì
đến tài sản (ví dụ như thu giữ tài sản tín thác
trong trường hợp bên nhận bị tuyên bố phá
sản và phải thanh lý tài sản)5. Tài sản tín thác
chỉ tồn tại cho bên thụ hưởng hoặc chỉ phục
vụ vì mục đích của tín thác, chứ không liên
quan đến chủ nợ của cá nhân bên nhận6.
1 DWM Waters. (1995).The Institution of the Trust in Civil and Common Law. In Académie de Droit
International (ed). 252 Recueil des Cours (Martinus Nijhoff, Dordrecht/Boston/London. 113 at 132.
2 J Garrigues. (1953). Law of Trusts. 2 Am J Comp L 25 at 27; WW Buckland and AD McNair. (2008). Roman
Law and Common Law. 2nd ed. Cambridge University Press. At 176-177.
3 Abdul Hameed Sitti Kadija and De Saram.1946. AC 208, PC with reference to RW Lee. (1931). Introduction
to Roman-Dutch Law. 3rd ed. Clarendon Press, Oxford. At 372.
4 W. W. Buckland and Arnold D. McNair. (1952). Roman and Common Law. Cambridge University Press.
5 DWM Waters. (1995). The Institution of the Trust in Civil and Common Law. In Académie de Droit
International (ed). 252 Recueil des Cours (Martinus Nijhoff, Dordrecht/Boston/London. At 127.
6 W. W. Buckland and Arnold D. McNair. (1952). Roman and Common Law. Cambridge University Press.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
56
Số 20 (420) - T10/2020
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Thứ hai, bên thụ hưởng có quyền đối
nhân đối với tài sản (yêu cầu các bên liên
quan thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ tài sản
tín thác đối với mình)7 và chỉ có bên thứ ba
ngay tình mới được bảo vệ8.
2.2. Tín thác cho mục đích từ thiện
(Charitable Trust)
Như vậy, trong trường hợp ông A có nhu
cầu tách một phần tài sản cá nhân để dành
cho hoạt động từ thiện và huy động thêm
đóng góp từ bạn bè hay cộng đồng thì việc
hình thành một tín thác riêng cho mục đích
từ thiện là hoàn toàn dễ dàng thực hiện. Ông
A có thể trực tiếp quản lý các hoạt động của
sản nghiệp tín thác này cho các hoạt động
thiện nguyện và không lo ngại vấn đề về sự
nhập nhằng giữa tài sản của cá nhân ông và
tài sản dành cho mục đích từ thiện, cũng
không hề có rủi ro nào đối với uy tín của cá
nhân ông A. Tín thác loại này được cá nhân
lập dễ dàng, không cần thủ tục đăng ký phức
tạp, không cần báo cáo tài chính, có sản
nghiệp riêng độc lập dù không hề có bất kỳ
tư cách pháp nhân gì và cũng không phải là
một cá nhân.
Hoạt động từ thiện tại các quốc gia áp
dụng tín thác cũng có thể được vận hành
dưới hình thức hoạt động của Quỹ Tín thác
cho mục đích từ thiện (charitable trust)9.
Loại Quỹ này cần được đăng ký hoạt động
khi mức vận động đạt mức nhất định, có tư
cách pháp nhân và phải thỏa mãn một số
điều kiện như: phải phục vụ cho lợi ích của
cộng đồng (chứ không phải cho một nhóm
cá nhân), không được hoạt động vì mục tiêu
lợi nhuận và phải báo cáo tài chính thường
niên cho ủy ban giám sát cũng như được
kiểm toán độc lập … Quỹ tín thác được hội
đồng tín thác (Board of Trustees) quản lý.
Hội đồng này thường là những người có uy
tín, được bầu cử hoặc chỉ định - đại diện cho
tập thể tất cả những người đóng góp10. Nói
chung, Quỹ tín thác là một dạng tổ chức từ
thiện chuyên nghiệp và các thành viên trong
hội đồng sẽ quyết định dùng số tiền vào mục
đích gì, đồng thời là người giám sát ban điều
Tại các quốc gia theo hệ thống pháp luật
Anh-Mỹ, lập tín thác đã trở nên một hoạt
động quen thuộc của người dân và một
người có thể tách tài sản của mình thành
những sản nghiệp khác nhau gồm những
khoản Có và Nợ riêng, độc lập và không trộn
lẫn với nhau để phục vụ cho nhiều mục đích.
Ví dụ, ông A có tài sản 500 tỷ đô la Mỹ
kim. Ông ta dùng 100 tỷ lập Tín thác 1 và
giao cho người bạn thân B hiện là chủ doanh
nghiệp có uy tín, đầu tư, thu lợi nhằm mục
đích chi trả cho các chi phí học tập của con
gái; 100 tỷ khác đưa vào Tín thác 2, do chính
mình quản lý, đầu tư và thu lợi với mục đích
chi trả cho các chi phí học tập của con trai;
đồng thời, đưa 100 tỷ nữa vào Tín thác 3
cũng do chính mình quản lý (với điều khoản
không được đầu tư rủi ro) để chăm sóc bản
thân khi già yếu. Như vậy, ông ta đồng thời
có 2 sản nghiệp: sản nghiệp dân sự với giá
trị Có còn lại là 200 tỷ đô la; sản nghiệp Tín
thác 3 với người lập là chính ông A, người
quản lý và hưởng lợi cũng là ông ta. Khi
công việc kinh doanh của ông A thua lỗ thì
các khoản Nợ của ông sẽ được dùng tài sản
trong sản nghiệp 200 tỷ để chi trả, còn tài sản
trong sản nghiệp 1, 2, 3 không bị ảnh hưởng.
Trong trường hợp ông A muốn huy động
thêm vốn kinh doanh mạo hiểm thì cũng
không thể dùng tài sản 100 tỷ trong sản
nghiệp Tín thác 3 được vì điều khoản lập tín
thác đã loại trừ khả năng đầu tư rủi ro.
7
DWM Waters. (1995). The Institution of the Trust in Civil and Common Law. In Académie de Droit
International (ed). 252 Recueil des Cours (Martinus Nijhoff, Dordrecht/Boston/London. At 127.
W. W. Buckland and Arnold D. McNair. (1952). Roman and Common Law. Cambridge University Press.
Parks, Charles T., Jr.( 2003). The Charitable Lead Trust: Why It Works Even in a Down Market. Faegre
& Benson LLP. Available online at <www.faegre.com/articles/article_840.asp> (accessed November 10th,,
2020).
8
9
10 Blackwell, T. E. (1938). The Charitable Corporation and the Charitable Trust. Wash. ULQ, 24, 1.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
57
Số 20 (420) - T10/2020
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
hành hay giám đốc quỹ để bảo đảm những
người thực thi trực tiếp sẽ hành xử chuyên
nghiệp và thực hiện đúng sứ mệnh đề ra -
tức bảo vệ niềm tin của người đóng góp.
Như vậy, người góp tiền thực hiện quyền
quyết định sử dụng nguồn lực gián tiếp qua
lựa chọn đại diện của mình trong hội đồng
tín thác.
sang hình thức trực tiếp trao tiền mặt và do
đó, trái với mục đích ban đầu.
Thứ ba, mặc dù làm việc tốt nhưng cá
nhân nhận đóng góp để đi cứu trợ sẽ vướng
vào các nghĩa vụ công khai minh bạch và áp
lực giải trình mục đích sử dụng với công
chúng.
Thứ tư, một số cá nhân đã quyết định
quyên tiền làm từ thiện nhưng sau đó vì một
lý do nào đấy đã đòi lại, gây khó khăn và
phiền nhiễu cho bên nhận.
3. Những gợi mở cho Việt Nam
Tại Việt Nam, hành động lập quỹ từ
thiện, vận động, tiếp nhận và sử dụng nguồn
đóng góp tự nguyện cho hoạt động nhân đạo
được quy định tại Nghị định số 64/2008/NĐ-
CP ngày 14/5/2008 và Nghị định
93/2019/NĐ-CP ngày 25/11/2019 của Chính
phủ. Dưới góc độ pháp lý, hoạt động từ thiện
có thể hiểu đơn giản chỉ là việc tặng cho tài
sản của người có tài sản với người đang có
nhu cầu và các quy định của pháp luật hiện
hành đều không cấm hoạt động từ thiện của
cá nhân. Tuy nhiên, việc nhận các khoản
đóng góp dưới danh nghĩa cá nhân sẽ làm
phát sinh một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, khi các khoản đóng góp được
chuyển vào tài khoản cá nhân, thì sẽ trở
thành một phần sản nghiệp của cá nhân
nhận. Trong trường hợp tồn tại chủ nợ có
khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn thì chủ nợ
có quyền thực hiện các hoạt động nghiệp vụ
để sử dụng số tài sản hiện có trong sản
nghiệp của bên nhận nhằm đảm bảo cho việc
thực hiện nghĩa vụ.
Thứ hai, mặc dù về mặt “tình” thì tài sản
được gửi nhờ để chuyển cho các đối tượng
cần giúp đỡ nhưng dưới góc độ pháp lý thì
tài sản đã được tặng cho người chủ tài khoản
và do đó, chủ tài khoản có quyền tùy nghi sử
dụng cho dù là trái với nguyện vọng và mục
đích của những người đã tặng cho. Ví dụ
như, ban đầu cá nhân có thể huy động đóng
góp để thực hiện việc xây nhà, xây cầu cho
người dân khó khăn nhưng sau đó đã chuyển
Thứ năm, hoạt động từ thiện của các cá
nhân thường mang tính bộc phát và tùy tình
hình huy động; do đó, các yêu cầu của pháp
luật hiện hành về thành lập các quỹ từ thiện,
xã hội hay về hoạt động từ thiện… như tài
sản đóng góp thành lập quỹ phải đạt mức tối
thiểu theo quy định (Điều 14 Nghị định số
93/2019/NĐ-CP ngày 25/11/2019) hoặc
đóng thuế (mục đ khoản 2 Điều 8 Nghị định
số 93/2019/NĐ-CP ngày 25/11/2019) … có
thể là một trở ngại lớn khiến các cá nhân
ngần ngại không thành lập tổ chức từ thiện.
Về các Quỹ đồng hành với mục tiêu hỗ
trợ sinh viên tại một số trường đại học, công
tác quản lý và vận hành hiện tại gặp khá
nhiều khó khăn do các thủ tục liên quan đến
thanh quyết toán. Nguồn tài chính của Quỹ,
mặc dù hoàn toàn được các tổ chức, cá nhân
đóng góp và không liên quan đến nguồn
ngân sách nhà nước được cấp cho nhà
trường hoặc các hoạt động dịch vụ của nhà
trường, nhưng vì tài sản của Quỹ vẫn nằm
trong sản nghiệp của pháp nhân trường nên
mọi hoạt động của Quỹ vẫn phải thực hiện
theo đúng các quy định của Nhà nước đối
với các đơn vị sự nghiệp công lập.
Nhìn chung, luật thực định tại Việt Nam
với những quy tắc luật tài sản hiện hành
không công nhận việc một chủ thể có thể
cùng lúc có nhiều hơn một sản nghiệp (trừ
một số trường hợp đặc biệt như khối tài sản
11 Nguyễn Ngọc Điện. (2018). Giáo trình Luật Dân Sự, Tập 1, Nxb. Đại học Quốc gia TP. HCM.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
58
Số 20 (420) - T10/2020
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
riêng và khối tài sản chung của vợ chồng
hay trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên), mặc dù trong thực tiễn đã
và đang phát triển trên cơ sở hợp đồng11. Do
đó, rất cần cơ sở pháp lý để cho phép một
chủ thể có thể có và quản lý nhiều sản
nghiệp độc lập, miễn là không để các sản
nghiệp lẫn lộn vào nhau thông qua sự vận
hành của tín thác.
tránh bị tổn thương do các mầm mống nghi
kỵ vì thiếu minh bạch.
Tương tự, sự vận hành của các loại Quỹ
đồng hành sinh viên vượt khó sẽ có nhiều
thuận lợi hơn nếu những tài sản được đóng
góp cho Quỹ cũng như các nghĩa vụ của
Quỹ sẽ được đưa vào một sản nghiệp riêng,
tách khỏi sản nghiệp của đơn vị sự nghiệp
là nhà trường, mặc dù vẫn do nhà trường
quản lý, vận hành với tư cách là bên nhận
tín thác. Nếu tách Quỹ ra khỏi pháp nhân
trường, hay thành lập một Quỹ từ thiện tách
khỏi cá nhân (theo luật đã định), có thể Quỹ
sẽ không còn có thể thu hút được sự đóng
góp tài trợ như ban đầu. Nguyên nhân là do
công chúng tin vào uy tín cá nhân của
những người nổi tiếng và tin vào uy tín của
trường đại học để thực hiện những nguyện
vọng, chứ không tin vào một tổ chức từ
thiện chuyên nghiệp nào khác.
Với việc xác lập tín thác, cá nhân huy
động đóng góp có thể bảo đảm sự toàn vẹn
của tài sản đóng góp khỏi những rắc rối tài
chính của bản thân (nếu có), tránh khỏi
những phức tạp của nghĩa vụ giải trình (do
tín thác vận hành theo mục đích và nguyên
tắc được xác định trước), bảo toàn uy tín cá
nhân. Ví dụ, liên quan đến những tranh luận
về hoạt động huy động đóng góp cứu trợ
khẩn cấp và trực tiếp thực hiện cứu trợ (với
số tiền huy động được lên đến 150 tỷ VNĐ)
cho đồng bào miền Trung của một cá nhân12
trong thời gian gần đây, nếu có đủ cơ sở
pháp lý, người này có thể tách toàn bộ số
tiền huy động được vào một tài khoảng
riêng, gọi là tín thác, mặc dù mang tên mình
với tư cách là chủ sở hữu nhưng lại tách bạch
khỏi khối tài sản dân sự của cá nhân. Tín
thác này có những người đóng góp là bên lập
(settlor), bên nhận là người được tin tưởng
giao phó quản lý khối tài sản (trustee) và
người dân khu vực bị ảnh hưởng của thiên
tai là bên thụ hưởng (beneficiary). Theo
những điều khoản được thống nhất trước khi
lập tín thác, chủ tài sản chỉ được dùng tài sản
trong tín thác cho những mục đích đã được
người lập quy định và cho các đối tượng đã
được thống nhất tiêu chí trước. Điều này
giúp tránh trường hợp tùy tiện sử dụng sai
mục đích và giải tỏa các bất đồng về đối
tượng nhận cứu trợ, cũng như giúp các bên
4. Kết luận
Tinh thần tương trợ đồng bào gặp khó
khăn hoạn nạn là một giá trị văn hóa vô giá
của dân tộc Việt Nam và cần được gìn giữ,
bảo vệ. Việc tạo dựng các cơ sở pháp lý
vững chắc có thể giúp củng cố niềm tin và
tránh cho các bên liên quan những tổn
thương không đáng có. Kinh nghiệm từ các
quốc gia tiên tiến cho thấy, các quy định của
pháp luật về tín thác có thể giải quyết triệt
để những vấn đề thực tiễn tại Việt Nam đang
đối mặt liên quan đến vận hành hoạt động từ
thiện của cá nhân hay của các đơn vị sự
nghiệp công lập. Do đó, những nghiên cứu
chuyên sâu về tín thác nói chung và tín thác
cho mục đích từ thiện nói riêng nên được
tiến hành để từng bước hoàn thiện khung
pháp lý của Việt Nam nhằm kịp thời đáp ứng
nhu cầu của xã hội và xu hướng hội nhập
luật pháp quốc tế của nước ta
n
truong-giang-2020102909334127.htm.
NLẬGHPIÊPNHCÁỨPU
59
Số 20 (420) - T10/2020
Bạn đang xem tài liệu "Xác lập và vận hành tín thác cho mục đích từ thiện: Kinh nghiệm từ quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- xac_lap_va_van_hanh_tin_thac_cho_muc_dich_tu_thien_kinh_nghi.pdf