Tính giá trị và độ tin cậy của thang đo kiến thức, thái độ về rối loạn tự kỷ của người chăm sóc trẻ tại hai tỉnh Hòa Bình và Thái Bình, Việt Nam
Đinh Thu Hà và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
BÀI BÁO NGHIÊN CỨU GỐC
Tính giá trị và độ tin cậy của thang đo kiến thức, thái độ về rối loạn tự
kỷ của người chăm sóc trẻ tại hai tỉnh Hòa Bình và Thái Bình, Việt Nam
Đinh Thu Hà1*, Hứa Thanh Thủy1, Lê Thị Hải Hà2, Nguyễn Thái Quỳnh Chi1, Vũ Thị Hậu1,
Nguyễn Ngọc Bình3, Nguyễn Thanh Hương1
TÓM TẮT
Mục tiêu: Rối loạn tự kỷ (RLTK) là một nhóm các rối loạn phát triển, đặc trưng bởi những khó khăn
trong tương tác xã hội, giao tiếp và một loạt các hành vi và mối quan tâm bị hạn chế hoặc bị lặp đi lặp
lại. Nghiên cứu được tiến hành năm 2017, nhằm xây dựng và chuẩn hóa một thang đo đảm bảo để đánh
giá kiến thức và thái độ về RLTK ở người chăm sóc trẻ (NCST).
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành phỏng vấn 193 NCST 18-60 tháng tuổi tại Hòa Bình và
Thái Bình. Phân tích thành tố chính và hệ số Cronbach’s Alpha được sử dụng để đánh giá tính giá trị và
độ tin cậy của thang đo.
Kết quả: Kết quả cho thấy thang đo kiến thức sau khi chuẩn hóa gồm 13 câu hỏi, với tỉ lệ giải thích sự
biến thiên của thang đo là 82,5% ở ngưỡng rất tốt; Cronbach’s alpha của 3 thành tố và cả thang đo kiến
thức nằm trong khoảng từ 0,58-0,79, là ngưỡng chấp nhận được đến tốt. Thang đo thái độ sau chuẩn hóa
gồm 6 câu hỏi, có tỉ lệ giải thích sự biến thiên thái độ là 52,8%; hệ số Cronbach’s alpha là 0,76, ở mức tốt.
Kết luận và khuyến nghị: Kết quả khẳng định thang đo kiến thức và thái độ của NCST về RLTK mà
chúng tôi phát triển hoàn toàn đảm bảo tính giá trị và độ tin cậy để áp dụng trong thực tiễn.
Từ khóa: thang đo, tự kỷ, tính giá trị, độ tin cậy, NCST, Việt Nam
ĐẶT VẤN ĐỀ
số các nước ở châu Á, tỷ lệ mắc RLTK ở Hàn
Quốc năm 2011 là 1/38 trong nhóm trẻ em từ
7 đến 12 tuổi (4), ở Trung Quốc năm 2013 là
1/408 trẻ dưới 18 tuổi (5) và ở Nam Á năm
2017 là 1/93 người dưới 30 tuổi (6).
Rối loạn tự kỷ (RLTK) là một nhóm các rối
loạn phát triển phức hợp của não, được đặc
trưng bởi những khó khăn trong tương tác xã
hội, giao tiếp và một loạt các hành vi và mối
quan tâm bị hạn chế hoặc bị lặp đi lặp lại (1).
Tại Việt Nam, một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ
hiện mắc RLTK của trẻ dao động từ 0,4 – 0,7%
(3, 7, 8). Kết quả nghiên cứu mới nhất trên
17.277 trẻ em 18-30 tháng tuổi tại 3 tỉnh miền
Bắc Việt Nam công bố năm 2019 cho thấy tỉ lệ
RLTK là 0,752%. Trẻ trai, trẻ sống ở thành phố,
trẻ có bố mẹ là nông dân có tỉ lệ mắc RLTK
cao hơn những trẻ khác (9). Bên cạnh đó, ghi
Trên thế giới, dữ liệu dịch tễ học năm 2013
ước tính tỷ lệ hiện mắc của RLTK là 1/160,
tương đương hơn 7,6 triệu năm tuổi thọ bị mất
đi do tàn tật (DALY) và 0,3% gánh nặng bệnh
tật toàn cầu (2). Tỷ lệ trẻ trai mắc RLTK nhiều
gấp 4 lần so với tỷ lệ này ở trẻ gái (3). Tại một
*Địa chỉ liên hệ: Đinh Thu Hà
Email: dth1@huph.edu.vn
1Trường Đại học Y Tế Công Cộng
Ngày nhận bài: 07/5/2020
Ngày phản biện: 14/5/2020
Ngày đăng bài: 29/12/2020
3Viện Dân số, Sức khỏe và Phát triển (PHAD)
120
Đinh Thu Hà và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
nhận từ Bệnh viện Nhi Trung ương cho thấy tỉ điều tra trước can thiệp tại 2 tỉnh Hòa Bình và
lệ trẻ RLTK có xu hướng tăng. Cụ thể, số trẻ Thái Bình vào năm 2017. Cỡ mẫu được tính
đến điều trị RLTK năm 2010 là 1.792 trẻ, cao toán theo công thức tính cỡ mẫu 2 tỉ lệ để so
sánh sự thay đổi kiến thức, thái độ của NCST
trước và sau can thiệp. Chúng tôi đã tiến hành
phỏng vấn 193 NCST của trẻ có độ tuổi từ 18
đến 60 tháng tuổi, sử dụng phương pháp chọn
mẫu nhiều giai đoạn:
gấp khoảng 300 lần so với năm 2000 (5 trẻ)
(10). Cũng theo báo cáo này, tỷ lệ trẻ RLTK
đến khám và được chẩn đoán bệnh muộn cao
(chỉ có 43,86% là độ tuổi 36-60 tháng tuổi)
(10), trong khi độ tuổi tốt nhất để phát hiện và
điều trị trẻ có RLTK là từ dưới 60 tháng tuổi.
- Giai đoạn 1: Tại mỗi tỉnh, chọn 1 thành phố
và ngẫu nhiên 1 huyện.
Thực tế này đặt ra một nhu cầu cấp thiết phải
xây dựng một hệ thống quản lý hiệu quả giúp
sàng lọc, chẩn đoán sớm và can thiệp sớm cho
trẻ RLTK. Do đó, đề tài cấp nhà nước về quản
lý RLTK tại cộng đồng được phê duyệt triển
khai trong giai đoạn 2016-2019, nhằm hướng
tới xây dựng và thí điểm một hệ thống như vậy.
Hai địa bàn can thiệp thí điểm là Hòa Bình và
Thái Bình, là hai tỉnh tương đối đặc trưng cho
vùng đồng bằng, miền núi và miền biển trong số
6 tỉnh thuộc đề tài. Trong nghiên cứu này, người
chăm sóc trẻ (NCST) là một trong các nhóm
đối tượng đích của can thiệp bởi họ là những
người tiếp xúc hàng ngày với trẻ, do vậy có thể
giúp phát hiện sớm các dấu hiệu bất thường ở
- Giai đoạn 2: Tại mỗi thành phố/huyện đã
lựa chọn: chọn ngẫu nhiên 1 xã và 1 phường.
Các thành phố/huyện và xã/phường được lựa
chọn là: xã Tân Vinh (huyện Lương Sơn),
phường Đồng Tiến (thành phố Hòa Bình), xã
Tây Giang (huyện Tiền Hải), phường Trần
Lãm (thành phố Thái Bình). Tại các phường/
xã đã lựa chọn, chúng tôi tiến hành chọn ngẫu
nhiên trẻ 18-60 tháng trên danh sách quản lý
của trạm y tế xã/phường, sau đó mời NCST
đến phỏng vấn.
Bộ câu hỏi được thiết kế dựa trên tham khảo
các nghiên cứu trên thế giới, Hướng dẫn
trẻ. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi NCST cần có Thống kê và Chẩn đoán những rối nhiễu tâm
kiến thức và thái độ tích cực đối với RLTK. Một thần của Hội tâm thần Mỹ phiên bản lần thứ 4
số nghiên cứu cho thấy hiện nay có nhiều bậc (DSM-4), kết hợp với xin ý kiến các chuyên
cha mẹ chưa hiểu biết đầy đủ về RLTK (11, gia. Thang đo kiến thức của NCST về RLTK
12), cũng như chưa có thái độ tích cực (13, 14), ở trẻ ban đầu do chúng tôi xây dựng gồm có
25 câu hỏi, theo thang đo Likert 3 mức độ:
Sai, Phân vân/Không biết, Đúng. Trong khi
đó, thang đo thái độ của NCST về RLTK ở
trẻ được xây dựng gồm có 12 câu hỏi, theo
thang đo Likert 5 mức độ: Rất đồng ý, Đồng
ý, Phân vân, Không đồng ý, Rất không đồng
ý. Số liệu được làm sạch và nhập liệu bằng
phần mềm Epidata 3.1 và phân tích bằng
phần mềm SPSS 20.0.
dẫn tới phát hiện muộn, can thiệp muộn, không
muốn đưa trẻ đi can thiệp (7). Tuy nhiên, những
đánh giá này chưa thực sự dựa trên cơ sở một
thang đo có chất lượng. Trong bối cảnh đó, năm
2017, chúng tôi đã tiến hành xây dựng và chuẩn
hóa bộ công cụ đảm bảo tính giá trị và độ tin cậy
để đo lường kiến thức và thái độ đối với RLTK
của NCST.
Tính giá trị về mặt nội dung của thang đo kiến
thức và thang đo thái độ được đánh giá đồng
thời, thông qua việc xin ý kiến 03 chuyên gia
(01 chuyên gia trong lĩnh vực tâm thần kinh,
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tính giá trị về mặt cấu trúc và độ tin cậy của
thang đo đo lường kiến thức, thái độ về RLTK
của NCST được đánh giá dựa trên số liệu của 01 chuyên gia về RLTK ở trẻ, và 01 chuyên
121
Đinh Thu Hà và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
gia về lĩnh vực giáo dục nâng cao sức khỏe) để xác định các tiểu mục cho mỗi nhân tố, với
và sau đó tiếp tục được thử nghiệm thông qua điều kiện các tiểu mục này có hệ số tương quan
thảo luận nhóm với 8 đối tượng là NCST với (factor loading) lớn hơn 0,3 (15).
các đặc điểm đa dạng về địa bàn (nông thôn/
Đánh giá độ tin cậy (độ nhất quán bên trong)
thành thị), độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ học
được thực hiện thông qua hệ số Cronbach’s
vấn, quan hệ với trẻ.
Alpha, với giá trị từ 0,6 trở lên được coi là
Tính giá trị về mặt cấu trúc được thực hiện bởi chấp nhận được (15).
phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA
– exploratory factor analysis) để xác định các
nhân tố chính. Ma trận tương quan, kiểm định
KẾT QUẢ
Bartlette và KMO (Kaiser Meyer Olkin) được
thực hiện để kiểm tra điều kiện cho phép tiến
Đặc điểm của người chăm sóc trẻ
hành phân tích nhân tố. Tiêu chí là các nhân tố
này có giá trị riêng (eigen value) lớn hơn 1 và tỉ
lệ biến thiên được giải thích bởi các nhân tố từ
50% trở lên và phân bố các nhân tố trên biểu đồ
Scree plot (15). Sau đó, ma trận xoay nhân tố
(rotated factor matrix Vartimax) được sử dụng
Đặc điểm NCST trong nghiên cứu được
thể hiện trong bảng 1 dưới đây. Trong 193
đối tượng tham gia nghiên cứu, có 170 nữ
(88,1%) và 23 nam (11,9%). Đa phần NCST
tham gia nghiên cứu này là người mẹ (chiếm
72,5%), tiếp theo là bà (16,1%) và bố (7,8%).
Bảng 1. Đặc điểm của NCST trong nghiên cứu
Đặc điểm
n
%
Giới tính
Nữ
170
23
88,1
11,9
Nam
Dân tộc
Kinh
156
35
2
80,8
18,2
1,0
Mường
Khác
Trình độ học vấn
Không biết chữ
8
4,2
Tiểu học, trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Trung cấp/ Cao đẳng
Đại học/ trên đại học
Nghề nghiệp
50
40
55
40
25,9
20,7
28,5
20,7
Làm ruộng
51
46
26,4
23,8
Công chức, viên chức
122
Đinh Thu Hà và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
Kinh doanh/buôn bán
Nội trợ
27
26
25
9
14,0
13,5
13,0
4,6
Công nhân
Nghỉ hưu
Làm tư nhân
Khác
5
2,6
4
2,1
Mối quan hệ với trẻ
Mẹ
140
31
15
4
72,5
16,1
7,8
Bà
Bố
Ông
Khác
2,1
3
1,5
Tính giá trị và độ tin cậy của thang đo kiến
thức của NCST về RLTK
thấy, không có tiểu mục nào có hệ số tương
quan với ít nhất một trong các tiểu mục còn
lại nằm ngoài khoảng từ 0,3 - 0,7. Kết quả
kiểm định Barlett’s với p-value < 0,05, chỉ số
KMO là 0,641> 0,5. Lựa chọn nhân tố và các
câu hỏi cho mỗi nhân tố. Điều này chứng tỏ
dữ liệu kiến thức dùng để phân tích nhân tố là
chấp nhận được.
Tính giá trị của thang đo kiến thức của
NCST về RLTK
Bộ câu hỏi sau khi được điều chỉnh về từ ngữ
và loại bỏ một số câu bị trùng lắp hoặc không
có ý nghĩa về nội dung bao gồm 19 câu, được
đưa vào đánh giá tính giá trị và độ tin cậy.
Lựa chọn các nhân tố và các tiểu mục của
mỗi nhân tố
Kiểm tra điều kiện phân tích nhân tố của các
tiểu mục
Kết quả phân tích (Hình 1) cho thấy có 3 nhân
tố đáp ứng tiêu chí.
Kết quả kiểm tra ma trận tương quan cho
123
Đinh Thu Hà và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
Scree plot of eigenvalues after factor
0
5
10
15
20
25
Number
Hình 1. Biểu đồ Scree plot và giá trị riêng của các nhân tố trong thang đo kiến thức của
người NCST về RLTK
Kết quả xoay nhân tố trực giao cho thấy có 13 gồm 5 phát biểu về phát hiện sớm và can thiệp
tiểu mục đạt tiêu chí và chia thành 3 nhân tố:
hiệu quả cho trẻ RLTK; và Nhân tố 3 gồm 3
Nhân tố 1 gồm 5 phát biểu về những dấu hiệu phát biểu về những kiến thức sai lầm trong
nghi ngờ trẻ RLTK theo các mốc phát triển
(hay còn gọi là “dấu hiệu cờ đỏ”); Nhân tố 2
điều trị RLTK ở trẻ. Kết quả cụ thể được trình
bày ở Bảng 2 như sau:
Bảng 2. Hệ số tương quan của các câu hỏi, Cronbach’s Alpha và khả năng giải thích độ
biến thiên kiến thức của mỗi nhân tố trong thang đo kiến thức của NCST về RLTK ở trẻ
Hệ số Cronbach’s Khả năng giải
STT
Nội dung
tương
quan
Alpha
thích độ biến
thiên kiến thức
Nhân tố 1: Kiến thức về dấu hiệu nghi ngờ trẻ RLTK theo
các mốc phát triển (dấu hiệu cờ đỏ)
0,79
36,6%
1
Trẻ 9 tháng không đáp ứng được tương tác
âm thanh, nụ cười hoặc không giơ tay đòi bế
0,48
0,50
0,64
0,67
0,55
2
3
4
5
Trẻ 12 tháng chưa biết nói bập bẹ
Trẻ 12 tháng chưa biết chỉ ngón trỏ
Trẻ 16 tháng chưa nói được từ đơn
Trẻ 24 tháng chưa nói được 2 từ đơn
Nhân tố 2: Kiến thức về phát hiện sớm và can thiệp hiệu
quả cho trẻ RLTK
0,58
24,0%
6
Cha mẹ/NCST có thể phát hiện sớm dấu
hiệu bất thường của trẻ nghi mắc tự kỷ
0,41
124
Đinh Thu Hà và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
7
8
GVMN có thể phát hiện sớm dấu hiệu bất
thường của trẻ nghi mắc tự kỷ
0,32
Tất cả trẻ dưới 24 tháng tuổi cần được
sàng lọc về tự kỷ
0,30
0,30
0,41
9
Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ là
can thiệp về ngôn ngữ
10
Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ là
tập luyện vận động
Nhân tố 3: Kiến thức sai lầm trong điều trị RLTK ở trẻ
0,62
21,9%
11
12
13
Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng
thuốc Tây y
0,32
0,40
Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng
châm cứu, bấm huyệt
Có thể điều trị khỏi cho trẻ tự kỷ bằng
cách uống thuốc đông y để giải trừ chất
độc khỏi cơ thể
0,59
Cả thang đo (13 câu)
0,65
82,5%
Nhân tố 1 (Kiến thức về các dấu hiệu nghi ngờ Tính giá trị của thang đo thái độ của NCST
trẻ RLTK theo các mốc phát triển) gồm có 5 về RLTK
câu hỏi và giải thích được 36,6% độ biến thiên
Thang đo ban đầu để đánh giá thái độ được
kiến thức của NCST về RLTK ở trẻ. Nhân tố 2
chúng tôi xây dựng với 12 câu hỏi. Qua xin ý
(Kiến thức về phát hiện sớm và can thiệp hiệu
kiến chuyên gia và thảo luận nhóm với NCST,
quả cho trẻ RLTK) gồm có 5 câu hỏi, góp phần
chúng tôi giữ lại 11 câu hỏi để đưa vào đánh
giải thích 24% độ biến thiên biến tổng. Nhân tố
giá tính giá trị và độ tin cậy.
3 (Kiến thức sai lầm trong điều trị RLTK ở trẻ)
giải thích 21,9% độ biến thiên biến thức, với 3
câu hỏi. Cả thang đo gồm 13 câu hỏi, giải thích
được 82,5% độ biến thiên kiến thức của NCST
về RLTK ở trẻ.
Kiểm tra điều kiện để có thể phân tích nhân tố
Kết quả kiểm tra ma trận tương quan cho
thấy, không có tiểu mục nào có hệ số tương
quan với ít nhất một trong các tiểu mục còn
lại nằm ngoài khoảng từ 0,3 - 0,7. Kết quả
kiểm định Barlett’s với p-value < 0,05, chỉ số
KMO là 0,717> 0,5. Điều này chứng tỏ dữ
liệu về thái độ dùng để phân tích nhân tố là
chấp nhận được.
Độ tin cậy của thang đo kiến thức của NCST
về RLTK
Độtincậycủathang đođượcđánhgiá thôngqua
hệ số Cronbach’sAlpha của từng nhân tố và của
cả thang đo. Kết quả cho thấy hệ số Cronbach’s
Alpha của nhân tố 1, nhân tố 2, nhân tố 3 và cả
thang đo lần lượt là 0,79; 0,58; 0,62 và 0,65.
Lựa chọn nhân tố và các tiểu mục cho mỗi
nhân tố
Tính giá trị và độ tin cậy của thang đo thái Số lượng các nhân tố có trong thang đo được
độ của NCST về RLTK
hiển thị trên biểu đồ Scree plot, với giá trị
125
Đinh Thu Hà và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
riêng lớn hơn 1. Nhìn trên Hình 2 ta thấy 1 nhân tố duy nhất.
thang đo thái độ về RLTK của NCST chỉ gồm
Scree plot of eigenvalues after factor
0
2
4
6
8
10
Number
Hình 2. Biểu đồ Scree plot và giá trị riêng của các nhân tố trong thang đo thái độ của
NCST về RLTK ở trẻ
Phương pháp xoay nhân tố trực giao cho kết quả như Bảng 3 dưới đây:
Bảng 3. Hệ số tương quan của các câu hỏi, Cronbach’s Alpha và khả năng giải thích độ
biến thiên thái độ của mỗi nhân tố trong thang đo thái độ của NCST về RLTK ở trẻ
Nội dung
Hệ số Cronbach’s Khả năng
tương
quan
Alpha
giải thích độ
biến thiên
thái độ
Thái độ về trẻ RLTK và can thiệp cho trẻ RLTK (6 câu)
0,76
52,8%
1
2
3
Tôi cho rằng trẻ tự kỷ đều bị thiểu năng trí tuệ
Tôi cho rằng tự kỷ không thể cải thiện được
0,75
0,70
Tôi cho rằng can thiệp cho trẻ tự kỷ hầu như
không mang lại lợi ích gì cho trẻ
0,73
0,72
0,74
4
5
6
Tôi cho rằng trẻ tự kỷ luôn gây rắc rối cho
những trẻ chơi cùng
Tôi cảm thấy trẻ tự kỷ thường có hành vi gây hại
đến người xung quanh
Nếu một gia đình có con tự kỷ chuyển đến sống
cạnh nhà tôi, tôi sẽ cảm thấy không thoải mái khi
cho con tôi chơi cùng.
0,72
126
Đinh Thu Hà và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
Thái độ của NCST về RLTK được thể hiện thức về dấu hiệu của RLTK cũng được đề
trên 2 khía cạnh: thái độ đối với trẻ RLTK và cập trong nghiên cứu của Wang J. tại Trung
can thiệp cho trẻ RLTK. Thang đo này giúp Quốc (2012) (16), Mohamed (Malaysia)
giải thích được 52,8% độ biến thiên thái độ (17), hay Holt JM (Hoa Kỳ) (2013) (18).
của NCST về RLTK ở trẻ em.
Câu hỏi về phát hiện sớm và can thiệp hiệu
quả cho trẻ RLTK cũng được Abeer M.
Alharbi (Ả rập Xê-út) (2018) (19), Holt JM
(18) và Mohamed (Malaysia) (6) sử dụng
cho nghiên cứu của mình.
Độ tin cậy của thang đo thái độ của NCST về
RLTK
Độ tin cậy của thang đo thái độ được đánh giá
thông qua hệ số Cronbach’s Alpha. Kết quả 3
cho thấy hệ số Cronbach’s Alpha của thang
đo thái độ của NCST về RLTK là 0,76.
Đối với thang đo thái độ của NCST về RLTK
gồm 6 tiểu mục, giải thích được 52,8% độ
biến thiên thái độ của NCST về RLTK ở
trẻ. Đây là một tỉ lệ chấp nhận được trong
nghiên cứu. Trong thang đo thái độ này, hệ số
Cronbach’s Alpha là 0,76 ở ngưỡng tốt. Đây
là bằng chứng khẳng định thang đo 6 câu hỏi
này có thể áp dụng để đo lường thái độ của
NCST về RLTK ở trẻ.
BÀN LUẬN
Đây là thang đo kiến thức và thái độ của
NCST về RLTK ở trẻ đầu tiên được xây dựng
và chuẩn hóa ở Việt Nam, sử dụng phương
pháp phân tích nhân tố khám phá để đánh giá
tính giá trị về mặt cấu trúc và độ tin cậy của
thang đo.
So với các thang đo về thái độ của NCST
về RLTK khác, thang đo của chúng tôi có
phần toàn diện hơn khi bao phủ được cả hai
Thang đo kiến thức của NCST về RLTK khía cạnh về thái độ về trẻ RLTK và thái độ
do chúng tôi xây dựng giúp giải thích được đối với các can thiệp cho trẻ RLTK. Cụ thể,
82,5% độ biến thiên kiến thức của NCST về nghiên cứu của Mohamed (Malaysia, 2017)
RLTK ở trẻ em; đạt ngưỡng tốt. Độ tin cậy có 5 câu hỏi chỉ tập trung vào thái độ đối
của thang đo được đánh giá thông qua hệ số với trẻ có RLTK (6). Thang đo của Wang J.,
Cronbach’s Alpha của từng nhân tố và của cả 2012 tại Trung Quốc (16) chỉ đề cập thái độ
thang đo, và đều nằm trong khoảng 0,58 đến của cha mẹ khi con có dấu hiệu của RLTK,
0,79, ở ngưỡng chấp nhận được đến ngưỡng hay thang đo của Maria Isabel, Philipine
tốt. Như vậy, thang đo 13 câu hỏi này hoàn năm 2015 (20) chỉ đo lường thái độ khi con
toàn đảm bảo tính giá trị và độ tin cậy để có bị RLTK. Một nghiên cứu khác của Abeer
thể áp dụng đánh giá kiến thức của NCST về M. Alharbi, Ả rập Xê-út năm 2018 thì chỉ
RLTK ở trẻ.
đề cập ở góc độ thái độ giúp đỡ/hỗ trợ trẻ
RLTK (19).
Bên cạnh đó, thang đo kiến thức của NCST
về RLTK này có độ dài vừa phải, gồm 13
câu hỏi về các dấu hiệu nghi ngờ RLTK
theo các mốc phát triển của trẻ (“dấu hiệu
cờ đỏ”), phát hiện sớm và can thiệp hiệu
Tuy nhiên, thang đo kiến thức và thái độ của
NCST về RTLK trong nghiên cứu này cũng
có điểm hạn chế khi chỉ tiến hành tại khu vực
miền Bắc, đồng thời chưa đánh giá độ tin cậy
quả cho trẻ RLTK và những sai lầm trong về thử nghiệm lại (test-retest reliability). Vì
điều trị RLTK. Những câu hỏi này có nhiều
điểm tương đồng với các bộ câu hỏi đã
được sử dụng trên thế giới. Cụ thể, kiến
vậy, để có thể áp dụng rộng rãi hơn thang đo
này, nên cân nhắc yếu tố vùng miền và thực
hiện các đánh giá sâu hơn.
127
Đinh Thu Hà và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
8. Brown M. Specialists speak out for autistic
children: Look at Vietnam. 2009.
KẾT LUẬN
9. Hoang VM LT, Chu TTQ, et al. Prevalence of
Kết quả cho thấy thang đo kiến thức của
NCST về RLTK sau khi chuẩn hóa gồm
13 câu hỏi, với tỉ lệ giải thích sự biến thiên
của thang đo là 82,5% ở ngưỡng rất tốt;
Cronbach’s alpha của 3 thành tố và cả thang
đo kiến thức nằm trong khoảng từ 0,58-0,79,
là ngưỡng chấp nhận được đến tốt. Thang đo
thái độ sau chuẩn hóa gồm 6 câu hỏi, có tỉ lệ
giải thích sự biến thiên của thang đo là 52,8%;
hệ số Cronbach’s alpha 0,76 đạt mức tốt trong
nghiên cứu chuẩn hóa. Như vậy, các kết quả
chuẩn hóa thang đo của chúng tôi đều nằm ở
ngưỡng chấp nhận được cho tới tốt. Điều này
khẳng định thang đo kiến thức và thái độ của
NCST về RLTK do chúng tôi xây dựng đảm
bảo tính giá trị và độ tin cậy để áp dụng trên
địa bàn nghiên cứu. Để có thể sử dụng thang
đo này ở các địa bàn có bối cảnh văn hóa xã
hội khác, cần lưu ý thận trọng, cũng như cân
nhắc tiến hành các đánh giá sâu hơn trước khi
áp dụng.
autism spectrum disorders and their relation
to selected socio-demographic factors among
childrenaged18-30monthsinnorthernVietnam,
2017. Int J Ment Health Syst. 2019:13:29.
10. Hà NTHGvTTT. Nghiên cứu xu thế mắc và một
số đặc điểm dịch tễ học của trẻ tự kỷ điều trị tại
bệnh viện nhi Trung ương giai đoạn 2000 đến
2007. Y học thực hành. 2008:tr. 104-7.
11. Lan PT. Kiến thức, thực hành và nhu cầu được
cung cấp thông tin của cha mẹ có con tự kỷ tại
trường chuyên biệt An Phúc Thành tại Hà Nội
năm 2016. Hà Nội: Trường Đại học Y tế công
cộng; 2016.
12. Kien NTaP, Nguyen Hoang. Autism Knowledge
in the Community in Hanoi,Vietnam in 2017:
A Cross-Sectional Survey. International Journal
of Science and Research. 2018;7(3):pp. 1442-5.
13. Sâm ĐT. Khảo sát thái độ của cha mẹ đối với
con có chứng tự kỷ. TP. Hồ Chí Minh.: Trường
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh; 2013.
14. Ha VS, et al. Living with autism spectrum
disorder in Hanoi, Vietnam. Soc Sci Med.
2014(120):pp. 278-85.
15. Pett MA, Lackey, Nancy R and Sullivan.
Making Sense of Factor Analysis: the use of
factor analysis for instrument development in
health care research. SAGE Publications Ltd.
2003.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
16. Wang J, et al. Autism awareness and attitudes
towards treatment in caregivers of children
aged 3-6 years in Harbin, China. Soc Psychiatry
Psychiatr Epidemiol. 2012;8(47): 1301-8.
17. Mohamed NurAdli K. TR, et al. The Knowledge
and Attitude of Autism among Community in
MukimDengkil,Sepang, Selangor. International
Journal of Scientiꢀc and Research Publications.
2017;7:220-5.
18. Holt JMaC, K. M. Utahns’ understanding of
autism spectrum disorder. Disabil Health J.
2013;6(1):52-62.
19. Alharbi AM. Knowledge and Attitude of
Families and Health Care Providers towards
1. Organization WH. Questions and answers about
autism spectrum disorders (ASD). 2013.
2. Organization WH. Autism spectrum disorders
& other developmental disorders from raising
awareness to building capacity. 2013.
3. Prevention CfDCa. Autism Spectrum Disorder.
2014.
4. Leventhal BL Kim YS KY, Fombonne E, et al.
Prevalence of autism spectrum disorders in a
total population sample in South Korea. 2011.
5. Qiang Hu Yumei Wan TL, Lijuan Jiang et al.
Prevalence of autism spectrum disorders among
children in China: a systematic review. 2013.
6. al MDHe. Autism Spectrum disorders (ASD) in
South Asia: a systematic review. 2017.
Autism. Open Access
2018;2(2):014.
J
Public Health.
20. Quilendrino, O MI, al e. Parents’ perceptions
of autism and their health-seeking behaviors.
Clinical Epidemiology and Global Health.
2015(3):10-5.
7. ương BvCcT. Số liệu tổng hợp từ hồ sơ điều trị
của Đơn vị Châm cứu điều trị và Chăm sóc đặc
biệt cho Tự kỷ, bại não. 2014.
128
Đinh Thu Hà và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)
Validity and reliability of a scale to measure knowledge and attitudes
toward child atisum spectrum disorder among child caregivers: a study
in northern Vietnam
Dinh Thu Ha1, Hua Thanh Thuy1, Le Thi Hai Ha2, Nguyen Thai Quynh Chi1, Vu Thi
Hau1, Nguyen Ngoc Binh3, Nguyen Thanh Huong1
1Hanoi University of Public Health
2Queensland University of Technology
3Institute of Population, Health and Development (PHAD)
Autism Spectrum Disorder (ASD) is a range of developmental disabilities, that can cause
signiꢀcant social, communication and behavioral challenges. This study was conducted in 2017
in order to develop and validate a scale to measure knowledge and attitudes toward child autism
spectrum disorder among child caregivers. We interviewed 193 child caregivers in 2 northern
provinces of Vietnam, namely Hoa Binh and Thai Binh. Exploratory Factor Analysis (EFA)
and Cronbach’s alpha coefꢀcient were used to determine validity and reliability of our scale.
Findings indicated that our scale on knowledge, including 13 items distributed into 3 factors
with relatively good correlation (0.58-0.79), could explain 82.5% of variability of knowledge.
The scale on attitudes consisted of 6 questions, explained 52.8% of variability in attitudes and
had a good Cronbach’s alpha of 0.76. The results demonstrated that our scale has satisfactory
validity and reliability, thus, could be used to measure knowledge and attitudes towards child
ASD among child caregivers.
Keywords: scale, autism spectrum disorder (ASD), validaty, reliability, child caregivers, Vietnam
129
Bạn đang xem tài liệu "Tính giá trị và độ tin cậy của thang đo kiến thức, thái độ về rối loạn tự kỷ của người chăm sóc trẻ tại hai tỉnh Hòa Bình và Thái Bình, Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tinh_gia_tri_va_do_tin_cay_cua_thang_do_kien_thuc_thai_do_ve.pdf