Kết quả điều trị bệnh Pompe thể xuất hiện ở trẻ nhỏ tại Bệnh viện nhi Trung ương

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH POMPE THỂ XUẤT HIỆN Ở TRẺ NHỎ  
TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG  
Nguyễn Ngọc Khánh và Vũ Chí Dũng  
Bệnh viện Nhi Trung Ương  
Bệnh Pompe là di truyền do đột biến gen GAA. Điều trị enzym thay thế đã đem lại hiệu quả tốt cho bệnh  
Pompe xuất hiện ở trẻ nhỏ (IOPD). Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị cho bệnh nhân  
IOPD. Nghiên cứu chùm ca bệnh hồi cứu và tiến cứu 31 bệnh nhân IOPD từ 2015 tại Bệnh viện Nhi Trung ương.  
Kết quả nghiên cứu nhận thấy tuổi chẩn đoán và điều trị enzym trung bình 4,2 và 4,9 tháng. Tỉ lệ mắc bệnh  
nam/nữ: 15/16. Thời gian điều trị enzym trung bình 20 tháng. 100% bệnh nhân sống sau 1 năm điều trị; 77,4%  
bệnh nhân sống với tuổi trung bình 34 tháng. 24/25 bệnh nhân cải thiện chức năng tim sau 1 năm điều trị: chỉ  
số khối cơ tim/cơthể (LVMI) giảm từ 183 g/m2 xuống 70 g/m2. 66,7% bệnh nhân có khả năng tự đi với tuổi trung  
bình hiện tại 3 tuổi. 4/31 bệnh nhân cần hỗ trợ hô hấp (mở khí quản/thở máy) và cần nuôi dưỡng qua sonde.  
Như vậy, điều trị enzym cho bệnh nhân Pompe đã có hiệu quả đáng kể đặc biệt với trẻ được chẩn đoán sớm.  
Từ khoá: Bệnh pompe thể xuất hiện trẻ nhỏ, Dự trữ glycogen type 2  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
Bệnh Pompe là bệnh hiếm gây ra do thiếu hụt  
enzym acid alpha glucosidase (GAA), một enzym  
cần thiết để giáng hóa glycogen trong lysosome.  
Tỉ lệ mắc bệnh là 1:14.000 – 1: 300.000.1 Bệnh  
được chia thành 2 thể chính: Thể xuất hiện ở  
trẻ nhỏ: biểu hiện lâm sàng trước 2 tuổi, yếu cơ,  
giảm trương lực cơ, nuốt kém, phì đại lưỡi, gan  
to và bệnh cơ tim phì đại dẫn đến suy hô hấp –  
tuần hoàn hoặc nhiễm trùng đường hô hấp; Thể  
khởi phát muộn (thiếu niên hoặc người trưởng  
thành): có thể xuất hiện sau 2 tuổi ở bất cứ lứa  
tuổi nào: yếu cơ gốc chi, yếu cơ hô hấp, đấu  
hiệu Gower, có thể có phì đại bắp chân, rất ít  
hoặc thậm chí không có ảnh hưởng đến cơ tim  
và đặc biệt có thời gian sống lâu hơn.2  
trị triệu chứng của bệnh cơ tim và hô hấp hỗ trợ.3  
Năm 2016, liệu pháp enzym thay thế bằng enzym  
alpha glucosidase người tái tổ hợp (Myozyme)  
đã được chấp thuận bởi hiệp hội châu âu và  
FDA trong điều trị bệnh Pompe thể xuất hiện ở  
trẻ nhỏ.4 Liệu pháp enzym thay thế đã làm thay  
đổi tiên lượng của bệnh: bệnh nhân thể trẻ nhỏ  
cải thiện rõ và chức năng tim, vận động.5 Tại Việt  
Nam, trước năm 2014 không có bệnh nhân nào  
được chẩn đoán xác định bệnh Pompe bằng  
xét nghiệm đo hoạt độ enzym và phân tích gen.  
Bệnh viện Nhi Trung ương đã xác định chẩn  
đoán được 52 bệnh nhân Pompe từ năm 2014  
đến nay. Có 31 bệnh nhân được điều trị enzym  
thay thế từ tháng 8/2015 đến nay. Nghiên cứu  
này được tiến hành nhằm mục tiêu đánh giá  
hiệu quả điều trị enzym thay thế trên bệnh nhân  
Pompe thể xuất hiện ở trẻ nhỏ tại bệnh viện Nhi  
Trung ương.  
Cho đến năm 2016, vẫn chưa có một biện  
pháp điều trị đặc hiệu nào cho bệnh Pompe,  
ngoài các biện pháp chăm sóc hỗ trợ như điều  
Tác giả liên hệ: Vũ Chí Dũng  
Bệnh viện Nhi Trung Ương  
Email: dungvu@nch.org.vn  
Ngày nhận: 25/01/2021  
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP  
1. Đối tượng  
31 bệnh nhân được chẩn đoán xác định  
bệnh Pompe thể trẻ nhỏ từ năm 2015 đến  
Ngày được chấp nhận: 19/02/2021  
20  
TCNCYH 140 (4) - 2021  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
12/2020 tại Bệnh viện Nhi Trung ương.  
Phương pháp điều trị: truyền tĩnh mạch  
Myozyme 20mg/kg/ mỗi 1 – 2 tuần.  
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:  
Nghiên cứu mô tả hồi cứu và tiến cứu, đánh  
giá trước và sau điều trị can thiệp.  
Biểu hiện lâm sàng và xét nghiệm của  
IOPD: tuổi xuất hiện trước 2 tuổi, yếu cơ, phì  
đại cơ tim, tăng men gan, tăng CK, giảm hoạt  
độ enzyme GAA/đột biến gen GAA.  
Các biến số nghiên cứu: tuổi, giới, tiền sử gia  
đình, tỉ lệ tử vong, khả năng vận động, chức năng  
hô hấp, chức năng tim, tình trạng dinh dưỡng.  
Được điều trị enzyme Myozyme từ 2 lần trở lên.  
3. Xử lý số liệu  
Tiêu chuẩn loại trừ:  
Theo thuật toán thống kê Y học trung vị,  
trung bình, độ lệch chuẩn, theo phần mềm  
SPPSS 16.0.  
- Các bệnh không được điều trị enzym  
Myozyme hoặc chỉ truyền enzyme dưới hoặc bằng  
2 lần và gia đình từ chối tham gia nghiên cứu.  
4. Đạo đức nghiên cứu  
2. Phương pháp  
Các xét nghiệm máu, nước tiểu và chẩn  
đoán hình ảnh là cần thiết để chẩn đoán bệnh  
và điều trị, an toàn cho bệnh nhân.  
Thời gian nghiên cứu: tháng 1/2015 đến  
tháng 12/2020 tại Bệnh viện Nhi Trung ương.  
Phương pháp đo hoạt độ enzyme GAA từ  
máu giấy thấm.  
Tuân theo phác đồ điều trị của Bệnh viện  
Nhi Trung ương.  
Phân tích gen GAA bằng giải trình tự gen  
Bố mẹ bệnh nhân được giải thích về bệnh và  
đồng ý tham gia nghiên cứu.  
thế hệ mới.  
III. KẾT QUẢ  
31 bệnh nhân từ 30 gia đình khác nhau trong 5 năm nghiên cứu.  
Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu  
STT  
Đặc điểm chung  
N = 31  
2 ngày – 24 tháng (trung vị: 4,2 tháng)  
7 bệnh nhân chẩn đoán < 1 tháng tuổi  
1
Tuổi chẩn đoán  
2
3
4
5
6
7
Dân tộc Kinh  
30/30  
Tiền sử gia đình  
5/30  
Bố mẹ kết hôn cận huyết thống  
Nam/nữ  
0/30  
15:16  
Tuổi điều trị enzyme thay thế  
Thời gian điều trị enzyme thay thế  
23 ngày – 18 tháng (trung vị: 4,9 tháng)  
1 tháng – 5,4 năm (trung vị: 20 tháng)  
TCNCYH 140 (4) - 2021  
21  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
Bảng 2. Kết quả điều trị chung  
Kết quả  
N (%), tuổi  
Ghi chú  
24 (77,4%)  
Còn sống  
5 – 65 tháng  
(34 ± 22 tháng)  
100% sống trên 1 năm điều trị  
1 ca có CRIM (-): viêm phổi/suy tim  
1 ca có kháng thể kháng alpha glucosidase: viêm phổi  
3/7 ca tử vong do viêm phổi  
7 (22,6%)  
Tử vong  
12 – 38 tháng  
(22,8 ± 8,5 tháng)  
1 ca tử vong do viêm não  
1 ca tử vong do sặc  
Bảng 3. Kết quả điều trị trên tim mạch  
Kết quả  
Trước điều trị  
Sau điều trị 1 năm  
Chỉ số tim/ngực trên Xquang  
65%  
25/25 (100%)  
<50%  
24/25 (96%)  
52,6 ± 12  
(31 – 77)  
67,5 ± 7,2  
(50 – 77)  
EF (%)  
183 ± 74  
70 ± 29  
Chỉ số khối cơ tim thất trái (g/m2)  
(82 – 297)  
(33,8 – 163)  
Bảng 4. Kết quả điều trị trên vận động  
Độ tuổi  
Đi được  
Đứng được  
Ngồi được  
Giữ được cổ  
< 12 tháng  
0
1
1
0
3
2
1
1
12 – 18 tháng  
15  
> 18 tháng  
1
2
3
8
3
(3 ± 1,2 tuổi)  
Tổng số  
N = 31  
16  
5
22  
TCNCYH 140 (4) - 2021  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
Bảng 5. Kết quả điều trị trên tình trạng hô hấp và nuôi dưỡng  
N
Tình trạng nuôi dưỡng và hô hấp  
Tổng số: 31 bệnh nhân  
Tình trạng nuôi dưỡng:  
Ăn sonde  
4
Tự ăn  
27  
Tình trạng hô hấp:  
Tự thở  
27 (3/27 bệnh nhân tử vong)  
4 (4/4 bệnh nhân đã tử vong)  
Hỗ trợ hô hấp (ngay cả khi không viêm phổi)  
IV. BÀN LUẬN  
trẻ nhỏ sẽ tử vong trước 1 tuổi nếu không được  
điều trị enzyme thay thế. Khi phân tích 21 bệnh  
nhân IOPD không được điều trị ERT tại trung  
tâm của chúng tôi nhận thấy tất cả bệnh nhân  
tử vong trước 8 tháng tuổi.  
Trong 5 năm nghiên cứu từ 2014, chúng tôi  
đã có 31 bệnh nhân được điều trị enzyme thay  
thế (ERT) trong tổng số 52 bệnh nhân được  
chẩn đoán tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Đây  
là các bệnh nhân đầu tiên được điều trị ERT  
tại Việt Nam và cũng là trung tâm có số bệnh  
nhân nhiều nhất được chẩn đoán và điều trị  
bệnh IOPD trong khu vực Đông Nam Á. Trong  
10 năm tại trung tâm Y khoa Samsung lớn của  
Hàn Quốc chỉ 3 bệnh nhân, tại trung tâm quốc  
qua sức khoẻ và phát triển trẻ em của Nhật Bản  
chỉ có 6 bệnh nhân trong 8 năm và tại Thái Lan  
chỉ có 12 bệnh nhân trong 18 năm.6,7 Tất cả  
bệnh nhân của chúng tôi đều là dân tộc Kinh  
và không có gia đình nào cận huyết thống, 80%  
bệnh nhân sinh sống ở khu vực Bắc và Bắc  
Trung Bộ. Dựa trên thống kê về số lượng trẻ  
sinh ra trong khu vực này của Tổng cục Thống  
kê và 52 bệnh nhân được chẩn đoán trong 5  
năm, tỉ lệ mắc bệnh Pompe của chúng ta phải  
trên 1: 50.000. Là bệnh di truyền lặn trên nhiễm  
sắc thể nên tỉ lệ mắc bệnh ở nam và nữ như  
nhau là 15:16.  
Tuổi chẩn đoán bệnh và điều trị ERT trong  
nghiên cứu của chúng tôi là tương đối sớm  
trung bình là 4,2 và 4,9 tháng, trong đó có tới  
7 bệnh nhân được chẩn đoán trong giai đoạn  
sơ sinh. Kết quả này tương tự nghiên cứu  
của Ả Rập Xê Út, tuổi bắt đầu điều trị ERT là  
4,5 tháng.9  
Kết quả điều trị trong 5 năm nghiên cứu của  
chúng tôi khả quan, 100% bệnh nhân chúng  
tôi sống sau 1 năm điều trị, 77,4% bệnh nhân  
còn sống với tuổi trung bình 34 tháng. Kết  
quả này tốt hơn nhiều so với nghiên cứu của  
tác giả Zuhair N. Al-Hassnan tại Ả Rập Xê Út  
mặc dù tuổi bắt đầu điều trị ERT là 4,5 tháng  
nhưng có tới 83,3% (15) bệnh nhân tử vong  
với tuổi trung bình 12 tháng. Kết quả điều trị  
kém này đã được giải thích 8 bệnh nhân có xét  
nghiệm CRIM âm tính dẫn tới sinh kháng thể  
kháng alpha glycosidase và 7 bệnh nhân chẩn  
đoán muộn từ 4 – 10 tháng tuổi. Trong nghiên  
cứu của chúng tôi chỉ có 1 bệnh nhân có xét  
nghiệm CRIM âm tính mặc dù điều trị ERT  
Bệnh IOPD có tiên lượng nặng nếu không  
điều trị enzyme thay thế. (Myozyme) định kỳ 1 –  
2 tuần/ lần. Nhiều y văn và nghiên cứu trên thế  
giới thấy 80% bệnh nhân Pompe thể xuất hiện  
TCNCYH 140 (4) - 2021  
23  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
từ lúc 2,5 tháng nhưng tình trạng bệnh nhân  
càng về sau càng kém và tử vong lúc 14 tháng  
tuổi. Còn lại 6 bệnh nhân có xét nghiệm CRIM  
dương tính nhưng 1 bệnh nhân xuất hiện hiệu  
giá kháng thể kháng alpha glycosidase lúc 26  
tháng nên bệnh nhân tử vong lúc 38 tháng.  
Như vậy xét nghiệm gen trong nhóm bệnh này  
rất quan trọng ngoài khẳng định và tư vấn di  
truyền, còn có ý nghĩa tiên lượng kết quả xét  
nghiệm CRIM để có kế hoạch điều trị dung nạp  
miễn dịch khi xét nghiệm CRIM âm tính. Một  
bệnh nhân tử vong do biến chứng Viêm não  
lúc 14 tháng mặc dù trẻ đáp ứng điều trị tốt  
trước lúc Viêm não (12 tháng đã ngồi vững và  
bò, chức năng tim gần về bình thường). Bốn  
bệnh nhân còn lại tử vong do suy hô hấp trong  
các đợt viêm phổi cấp.  
tôi là tốt hơn so với nghiên cứu của tác giả  
Rossella Parini năm 2018 với 28 bệnh nhân  
của 13 trung tâm ở Ý chỉ có 7/28 (25%) có khả  
năng tự đi với tuổi trung bình biết đi 12 – 19  
tháng và 17/28 bệnh nhân chỉ có thể duy trì  
việc tự ngồi.11 07 bệnh nhân được chẩn đoán  
và điều trị giai đoạn sơ sinh cũng có tuổi biết  
đi sớm hơn từ 13 – 15 tháng.  
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 4/31  
bệnh nhân cần hỗ trợ đặt sonde ăn, trong đó  
¾ bệnh nhân này cũng đang cần hô hấp hỗ  
trợ hàng ngày qua mở khí quản. Kết quả này  
của chúng tôi cũng tốt hơn nghiên cứu của tác  
gải Rossella Parini: 15% bệnh nhân thở máy  
không xâm nhập và 52% cần thở oxy qua mở  
khí quản, 10/28 bệnh nhân cần đặt sonde ăn  
hoặc mở dạ dày mặc dù cũng tới 71% bệnh  
nhân của họ là CRIM dương tính.11  
Kết quả trên tim mạch nhìn thấy cải thiện rõ  
rệt với các bệnh nhân được điều trị ERT sau 1  
năm. 100% bệnh nhân có chỉ số tim ngực trở  
về bình thường cho dù lúc được chẩn đoán  
tất cả bệnh nhân này có chỉ số tim ngực trên  
65%. Chỉ số co bóp cơ tim cải thiện rõ: EF tăng  
từ trung bình 52% lên 66,4%. Đặc biệt, chỉ số  
khối cơ tim/khối cơ thể (LVMI) giảm rõ ràng từ  
trung bình 184 g/m2 xuống trung bình 70 g/m2.  
Kết quả này của chúng tôi giống với nghiên cứu  
của tác giả Carine I. van Capelle, Bỉ về hiệu  
quả trên tim mạch của ERT trong IOPD, chỉ số  
LVMI giảm từ trung bình 226 g/m2 xuống 70,8  
g/m2 10 bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị  
trong giai đoạn sơ sinh có chỉ số tim về bình  
thường chỉ số bình thường trong nghiên cứu  
của chúng tôi  
V. KẾT LUẬN  
Qua 5 năm điều trị ERT cho 31 bệnh nhân  
IOPD tại Bệnh viện Nhi Trung ương đã cho kết  
quả khả quan đặc biệt là đối với các bệnh nhân  
được chẩn đoán sớm trong giai đoạn sơ sinh.  
Vì vậy việc sàng lọc sơ sinh cho nhóm bệnh  
này là cần thiết để có hiệu quả điều trị tốt. Ngoài  
ra, kết quả xét nghiệm gen không chỉ có ý nghĩa  
chẩn đoán và còn có vai trò quan trọng trong  
lên kế hoạch điều trị dung nạp miễn dịch.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1.Taverna S, Cammarata G, Colomba  
P, et al. Pompe disease: pathogenesis,  
molecular genetics and diagnosis. Aging.  
2020;12(15):15856-15874.  
aging.103794.  
doi:10.18632/  
Kết quả về vận động trong nghiên cứu của  
chúng tôi 16 bệnh nhân đang tự đi không cần  
hỗ trợ trong 24 bệnh nhân còn sống chiếm  
66,7% ở độ tuổi trung bình 3 tuổi. Ở độ tuổi <  
12 tháng, 1 bệnh nhân có thể tự đứng, 3 bệnh  
nhân có thể tự ngồi. Kết quả vận động của  
các bệnh nhân được điều trị ERT của chúng  
2. Mccall AL, Salemi J, Bhanap P, Strickland  
LM, Elmallah MK. The impact of Pompe  
disease on smooth muscle: a review. J Smooth  
Muscle Res. 2018;54:100-118. doi:10.1540/  
jsmr.54.100.  
24  
TCNCYH 140 (4) - 2021  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
doi:10.1016/j.ymgmr.2017.10.009.  
3. Peruzzo P, Pavan E, Dardis A. Molecular  
genetics of Pompe disease: a comprehensive  
overview. Ann Transl Med. 2019;7(13).  
doi:10.21037/atm.2019.04.13.  
8. Ngiwsara L, Wattanasirichaigoon D, Tim-  
Aroon T, et al. Clinical course, mutations and  
its functional characteristics of infantile-onset  
Pompe disease in Thailand. BMC Med Genet.  
2019;20. doi:10.1186/s12881-019-0878-8.  
4.Sun A. Lysosomal storage disease  
overview. Ann Transl Med. 2018;6(24).  
doi:10.21037/atm.2018.11.39.  
9. Al-Hassnan ZN, Khalifa OA, Bubshait DK,  
et al. The phenotype, genotype, and outcome  
of infantile-onset Pompe disease in 18 Saudi  
patients. Mol Genet Metab Rep. 2018;15:50-  
54. doi:10.1016/j.ymgmr.2018.02.001.  
5.Chen M, Zhang L, Quan S. Enzyme  
replacement therapy for infantile-onset Pompe  
disease. Cochrane Database Syst Rev.  
2017;11:CD011539.  
CD011539.pub2.  
doi:10.1002/14651858.  
10. Capelle CI van, Poelman E, Frohn-  
Mulder IM, et al. Cardiac outcome in classic  
infantile Pompe disease after 13 years of  
treatment with recombinant human acid alpha-  
glucosidase. Int J Cardiol. 2018;269:104-110.  
doi:10.1016/j.ijcard.2018.07.091.  
6. Kim M-S, Song A, Im M, et al. Clinical  
and molecular characterization of Korean  
children with infantile and late-onset Pompe  
disease: 10 years of experience with enzyme  
replacement therapy at a single center. Korean  
J Pediatr. 2019;62(6):224-234. doi:10.3345/  
kjp.2018.06968.  
11. Parini R, De Lorenzo P, Dardis A, et al.  
Long term clinical history of an Italian cohort  
of infantile onset Pompe disease treated with  
enzyme replacement therapy. Orphanet J  
Rare Dis. 2018;13. doi:10.1186/s13023-018-  
0771-0.  
7. Fukuhara Y, Fuji N, Yamazaki N, et al. A  
molecular analysis of the GAA gene and clinical  
spectrum in 38 patients with Pompe disease  
in Japan. Mol Genet Metab Rep. 2017;14:3-9.  
Summary  
OUTCOMES OF INFANTILE ONSET POMPE DISEASE PATIENTS  
AT THE NATIONAL CHILDRENT’S HOSPITAL  
Pompe disease is a rare inherited disease result from GAA gene mutations. Enzyme replacement  
therapy (ERT) has been effective in Infant Onset Pompe Disease (IOPD). To evaluate outcomes  
of ERT in IOPD patients, we performed a case series study on 31 IOPD patients from 2015 at the  
National Hospital of Pediatrics. The average age of children diagnosed and received ERT were  
4.2 and 4.9 months, respectively. Male/ female rate was 15/16. The average duration of ERT was  
20 months. 100% of patients survived after 1 year of management; 77.4% of patients reached an  
average age of 34 months. 24/25 patients improved heart function after 1 year of management: left  
ventricular mass index (LVMI) decreased from 183 g /m2 to 70 g/m2. 66.7% of patients ambulated  
independently with the current mean age of 3 years. 4/31 patients required respiratory support  
(tracheostomy / mechanical ventilation) and require oral tube feeding. In conclusion, ERT for IOPD  
pediatric patients has been significantly effective, especially in early diagnosis.  
Keywords: infantile onset pompe disease.  
TCNCYH 140 (4) - 2021  
25  
pdf 6 trang yennguyen 14/04/2022 1320
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả điều trị bệnh Pompe thể xuất hiện ở trẻ nhỏ tại Bệnh viện nhi Trung ương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfket_qua_dieu_tri_benh_pompe_the_xuat_hien_o_tre_nho_tai_benh.pdf