The impact of weather on hospitalization due to pneumonia among children in Nghe An from 2015 to 2019
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 109-115
Original Article
The Impact of Weather on Hospitalization due to Pneumonia
Among Children in Nghe An from 2015 to 2019
Nguyen Chi Sy1, Le Tu Hoang2, Nguyen Thi Trang Nhung2,
Vu Thi Hoang Lan2, Tran Minh Dien3,*
1Nghe An Maternity-Pediatric Hospital, 19 Ton That Tung, Vinh, Nghe An, Vietnam
2Hanoi University of Public Health, No 1A Duc Thang, North Tu Liem, Hanoi, Vietnam
3National Children’s Hospital, 879 La Thanh, Dong Da, Hanoi Vietnam
Received 18 September 2020
Revised 21 September 2020; Accepted 25 September 2020
Abstract: This paper studies the impact of weather on the number of under 15-year-old children
hospitalized for pneumonia at Nghe An Pediatric Hospital using time series analysis of the data
collected from 2015 to 2019. The study was carried out on 45,466 children, most of whom were
under 16 years old. The study results show that there was a statistically significant inverse correlation
between mean daily temperature and children’s hospitalization for pneumonia while humidity was
positively correlated. Specifically, when the average daily temperature increased by 1 degree
Celsius, the risk of hospitalization for pneumonia on the same day decreased by 1% (95% CI: 0.3 -
1.7%); whereas when the humidity increased, the risk of hospitalization increased by 14.4% (95%
CI: 0.2 - 30.7%) on the day of hospitalization; risk increased by 16.5% (95% CI: 9.5 - 23.9%) one
day before hospitalization; and risk increased by 15.2% (95% CI: 8.2 - 22.7%) two days before
hospitalization. The results suggest that children are highly sensitive to weather factors, including
temperature and humidity; therefore, it is necessary to take measures to protect children against
changing weather.
Keywords: Weather, pneumonia, children, effect.*
________
* Corresponding author:
E-mail address: dientm@nhp.org.vn
109
N.C. Sy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 109-115
110
Ảnh hưởng của thời tiết lên nhập viện do bệnh viêm phổi ở trẻ
em tại Nghệ An giai đoạn 2015 – 2019
Nguyễn Chí Sỹ1, Lê Tự Hoàng2, Nguyễn Thị Trang Nhung2,
Vũ Thị Hoàng Lan2, Trần Minh Điển3,*
1Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An, số 19 Tôn Thất Tùng, Hưng Dũng, Vinh, Nghệ An, Việt Nam
2Trường Đại học Y tế công cộng, số 1A Đức Thắng, Nam Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
3Bệnh viện Nhi Trung ương, số 879 La Thành, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 18 tháng 9 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 21 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 9 năm 2020
Tóm tắt: Trên thế giới, nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, đặc biệt là viêm phổi được thống kê là bệnh
có tỷ lệ mắc và tử vong cao nhất trong các bệnh nhiễm khuẩn ở trẻ dưới 5 tuổi. Trẻ em là đối tượng
dễ bị tổn thương trước tác động của biến đổi khí hậu. Đây là một nghiên cứu sinh thái sử dụng
phương pháp phân tích chuỗi thời gian trong giai đoạn từ 2015 – 2019. Biến đầu ra chính là số ca
nhập viện do bệnh viêm phổi ở trẻ em dưới 16 tuổi tại bệnh viện Sản Nhi Nghệ An. Các thông tin
về nhiệt độ, độ ẩm theo ngày được ghi nhận từ các trạm quan trắc.Tổng cộng có 45466 lượt trẻ em
nhập viện do bệnh viêm phổi, chủ yếu là các ca bệnh của trẻ dưới 5 tuổi và đến từ khu vực nông
thôn. Nhiệt độ trung bình ngày tại tỉnh Nghệ An là 26,28 độ C và độ ẩm trung bình là 84,1%. Có
mối tương quan nghịch có ý nghĩa thống kê giữa nhiệt độ trung bình ngày và việc nhập viện do bệnh
viêm phổi ở trẻ em trong khi độ ẩm có mối tương quan thuận. Nếu nhiệt độ trung bình ngày tăng
thêm 1 độ C thì số ca nhập viện cùng ngày giảm 1% (KTC 95%: 0,3 – 1,7%) trong khi độ ẩm tăng
thêm thì số ca nhập viện của trẻ lại tăng lên 14,4% (KTC 95%: 0,2 – 30,7%) vào cùng ngày, một
ngày sau đó tăng 16,5% (KTC 95%: 9,5 – 23,9%), và hai ngày sau đó số ca tăng 15,2% (KTC 95%:
8,2 – 22,7%). Trẻ em là đối tượng nhạy cảm với các yếu tố thời tiết, trong đó bao gồm nhiệt độ và
độ ẩm, do vậy cần có biện pháp bảo vệ sức khỏe của trẻ mỗi khi có thay đổi về thời tiết.
Từ khóa: thời tiết, viêm phổi, trẻ em, ảnh hưởng, độ ẩm, nhiệt độ.
1. Mở đầu*
Trên thế giới, nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính
(NKHHCT), đặc biệt là viêm phổi được thống kê
là bệnh có tỷ lệ mắc và tử vong cao nhất trong
các bệnh nhiễm khuẩn ở trẻ dưới 5 tuổi. Tổ chức
Y tế thế giới (WHO) ước tính có 156 triệu trường
hợp viêm phổi mỗi năm ở trẻ em dưới 5 tuổi, với
khoảng 20 triệu trường hợp đủ nghiêm trọng để
bệnh viêm phổi hàng năm được ước tính là
33/10000 ở trẻ dưới 5 tuổi và 14,5 trên 10000 ở
em dưới 5 tuổi bị viêm phổi mắc phải tại cộng
đề, chương trình phòng chống NKHHCT được
Bộ Y tế Việt Nam sớm đưa vào là một trong các
chương trình Y tế Quốc gia và bắt đầu triển khai
trên cả nước từ năm 1984, chỉ 1 năm sau khi
________
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: dientm@nhp.org.vn
N.C. Sy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 109-115
111
này. Số liệu trung bình ngàyđược tính toán là
trung bình số đo của cả 8 trạm quan trắc trên.
WHO triển khai chương trình nhiễm khuẩn hô
Việt Nam là nước dễ bị tổn thương trước tác
của biến đổi khí hậu đến sức khoẻ con người
thông qua những nguồn gây bệnh, làm tăng khả
năng bùng phát và lan truyền các bệnh dịch như
bệnh cúm, tiêu chảy, dịch tả, các bệnh lý về hô
cũng đã chỉ ra ảnh hưởng của những thay đổi
ngắn hạn về nhiệt độ môi trường đối với tần suất
bằng chứng về tác động của thời tiết ở khu vực
miền Trung lên việc nhập viện ở trẻ em còn rất
ít. Trong khi thời tiết ở khu vực này rất đa dạng
và khắc nghiệt, mùa đông lạnh giá, mùa hè nắng
gắt. Nghiên cứu này được thực hiện mục tiêu Mô
tả tương quan tác động giữa các yếu tố thời tiết
và số ca bệnh nhập viện do bệnh viêm phổi ở trẻ
em tại Nghệ An.
2.2. Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được làm sạch và quản lý bằng phần
mềm STATA phiên bản 15 và R Studio. Tỷ lê %
được dùng để mô tả các biến định tính. Hệ số
tương quan Spearman được dùng để mô tả mối
liên quan giữa bệnh và các yếu tố thời tiết. Phép
hồi quy tuyến tính tổng quát (Generalized Linear
Model – GLM) sử dụng hàm liên kết Poisson
được sử dụng để đánh giá tác động của từng yếu
tố thời tiết lên số ca nhập viện theo ngày.Để hiệu
chỉnh với yếu tố nhiễu là mùa, ngày trong tuần
và ngày nghỉ lễ trong các năm (theo quy định của
Nhà nước), chúng tôi dùng hàm spline với 7 bậc
tự do/năm cho biến ngày trong mô hình. Giá trị
bậc tự do được chọn dựa khi chỉ số tự tương quan
của giá trị phần dư (PACF) và chỉ số AIC nhỏ
nhất. Nghiên cứu trình bày kết quả mối liên quan
giữa việc nhập viện và yếu tố thời tiết tại ngày
nhập viện (lag=0), sau nhập viện 1 ngày (lag=1),
sau nhập viện 2 ngày (lag=2), v.v… cho đến 6
ngày sau khi nhập viện (lag=6) bằng biểu đồ đa
thức của thư viện “dlnm” trong phần mềm R. Mô
hình đa biến được phân tích ảnh hưởng của trung
bình nhiệt độ ngày và độ ẩm trong 5 ngày liên
tiếp lên biến đầu ra. Tác động của yếu tố thời tiết
lên số ca nhập viện được lượng hóa bằng giá trị
nguy cơ tương đối (Relative Risk – RR) và
khoảng tin cậy 95%. Nghiên cứu được thực hiện
sau khi có sự cho phép của Hội đồng duyệt đề
cương luận văn Bác sỹ chuyên khoa II trường
Đại học Y khoa Hà Nội và Hội đồng khoa học
bệnh viện Sản Nhi Nghệ An.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Thông tin về số liệu
Đây là một nghiên cứu sinh thái sử dụng
phương pháp phân tích chuỗi thời gian. Số liệu
sử dụng trong phân tích là số liệu thứ cấp được
trích xuất từ hệ thống bệnh án điện tử của những
bệnh nhân dưới 16 tuổi, có địa chỉ thường trú
thuộc tỉnh Nghệ An, nhập viện điều trị nội trú tại
bệnh viện Sản Nhi Nghệ An trong giai đoạn từ
mùng 1 tháng 1 năm 2015 đến ngày 31 tháng 12
năm 2019. Những thông tin trích xuất bao gồm:
tuổi, giới tính, ngày vào viện, ngày ra viện, mã
ICD chẩn đoán khi ra viện, kết quả điều trị.
Trong phân tích này những bệnh nhân có mã
ICD10 bắt đầu bằng J18 được định nghĩa là ca
bệnh nhập viện do bệnh viêm phổi.
3. Kết quả
3.1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu và
đặc điểm các yếu tố thời tiết
Thông tin về thời tiết và khí hậu của tỉnh
Nghệ An được thu thập từ 8 trạm quan trắc khí
tượng và môi trường. Các thông tin về nhiệt độ
(oC), độ ẩm (%) hàng ngày trong vòng 5 năm từ
2015 – 2019 được tổng hợp từ 8 trạm quan trắc
Tổng cộng có 45466 lượt trẻ em nhập viện
do bệnh viêm phổi tại bệnh viện Sản Nhi Nghệ
An trong 5 năm từ 2015 – 2019, trong đó có
27588 lượt (chiếm 60,7%) đối tượng là nam, còn
lại khoảng 39,3% đối tượng là nữ.
N.C. Sy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 109-115
112
Bảng 1.Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Nam
n
Nữ
n
Tổng
n
Đặc điểm
%
%
%
50,26
54,66
<1 tuổi
15866
10999
723
57,51
8985
8339
554
24851
19338
1277
46,64
3,10
42,53
2,81
Nhóm tuổi Từ 1 – 5 tuổi
Từ 6 – 15 tuổi
39,87
2,62
37,71
62,29
100
35,53
64,47
100
Thành thị
Địa dư
9413
34,12
65,88
100
6742
11136
17878
16155
29311
45466
Nông thôn
18175
27588
Tổng
Nhìn chung, các ca nhập viện do bệnh viêm
phổi chủ yếu thuộc nhóm dưới 1 tuổi (chiếm
khoảng 55%), tiếp đến là nhóm từ 1 – 5 tuổi
(chiếm khoảng 42%), xu hướng này cũng tương
đương khi xét riêng trong từng nhóm giới tính
nam và nữ. Có khoảng 2/3 số ca bệnh đến từ khu
vực nông thôn.
Bảng 2. Đặc điểm các ca bệnh và các yếu tố thời tiết trong giai đoạn 2015 – 2019
Đặc điểm
Giới tính
Tổng số Trung
Độ lệch
chuẩn
P25
8
P50
13
P75
18
IQR
10
bình
Nam
27588
13,52
7,32
Nữ
17878
25670
19338
8,80
5,18
6,85
11,13
0,91
5
8
12
17
28
1
7
<1 tuổi
Từ 1 – 5 tuổi
12,11
20,90
0,66
7
11
19
0
10
16
1
Nhóm
tuổi
12
0
Từ 6 – 15 tuổi 1277
Nhiệt độ trung bình ngày
Nhiệt độ cao nhất
Nhiệt độ thấp nhất
Độ ẩm
-
-
-
-
26,28
31,07
23,51
84,10
9,77
21,91
25,56
19,69
80,75
26,13
30,58
23,79
85,23
28,76
34,43
25,65
88,72
6,85
8,87
5,96
7,97
11,41
10,48
6,73
Trung bình số ca nhập viện ở nhóm trẻ nam
khoảng 13,5 ca/ngày (trung vị là 13 ca), trong khi
ở nhóm trẻ nữ là khoảng 8,8 ca/ngày (trung vị là
8 ca). Khi xét theo nhóm tuổi, số ca nhập viện
trung bình hàng ngày ở nhóm trẻ dưới 1 tuổi là
12,11 ca (trung vị 11 ca), trong khi ở nhóm từ 1
đến 5 tuổi là 20,9 ca (trung vị 19 ca) và nhóm từ
6 – 15 tuổi là xấp xỉ 1 ca/ngày.
phân vị (IQR) của giá trị nhiệt độ trung bình ngày
là 6,85. Độ ẩm trung bình là 84,1% (độ lệch chuẩn
6,73) với khoảng tứ phân vị của độ ẩm là 7,97.
3.2. Tương quan giữa thời tiết và nhập viện do
bệnh viêm phổi ở trẻ em tại Nghệ An
Kết quả cho thấy có mối liên quan nghịch
giữa độ ẩm và nhiệt độ trung bình ngày, độ ẩm
và số ca bệnh viêm phổi (hệ số tương quan R < 0)
trong khi mối tương quan giữa nhiệt độ trung bình
và số ca bệnh viêm phổi là tương quan thuận.
Đối với các yếu tố thời tiết, nhiệt độ trung
bình ngày trong giai đoạn 2015 – 2019 tại Nghệ
An là 26,28 độ (độ lệch chuẩn 9,77), khoảng tứ
N.C. Sy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 109-115
113
Bảng 3. Hệ số tương quan mối quan hệ giữa nhập viện do viêm phổi ở trẻ em Nghệ an và yếu tố thời tiết, 2015-
2019 theo nhóm tuổi
Yếu tố thời tiết
Hệ số tương quan
<1 tuổi
-0,29*
-0,24*
-0,28*
0,23*
1-5 tuổi
6-15 tuổi
-0,012**
-0,008**
-0,015**
-0,0009
Tổng
-0,36*
-0,30*
-0,34*
0,31*
Trung bình nhiệt độ
Nhiệt độ cao nhất
Nhiệt độ thấp nhất
Độ ẩm
-0,33*
-0,26*
-0,32*
0,26*
* p<0,001
** p<0,05
Bảng 4. Nguy cơ tương đối (RR) của từng yếu tố nhiệt độ trung bình và độ ẩm lên số ca nhập viện do bệnh viêm
phổi ở trẻ em
Số ca nhập viện do bệnh viêm
phổi
Chung
RR
(KTC 95%)
Nhóm trẻ dưới 1 Nhóm trẻ từ 1 –
Nhóm trẻ từ 6 –
15 tuổiRR
(KTC 95%)
1,005
tuổi RR
5 tuổi RR
(KTC 95%)
(KTC 95%)
Nhiệt độ Cùng ngày nhập
0,990
0,994
0,990
trung
bình
ngày
viện (lag0)
Sau 1 ngày nhập
viện (lag1)
(0,983-0,997)
0,996
(0,993-0,999)
(0,986-1,002)
0,997
(0,994-1,001)
(0,982-0,997)
0,995
(0,992-0,998)
(0,980-1,032)
0,993
(0,982-1,004)
Sau 2 ngày nhập
viện (lag2)
Sau 3 ngày nhập
viện (lag3)
0,999
(0,996-1,002)
1,001
0,999
(0,996-1,003)
1,000
0,999
(0,996-1,002)
1,001
0,990
(0,978-1,001)
0,993
(0,997-1,004)
(0,996-1,004)
(0,997-1,004)
(0,981-1,006)
Sau 4 ngày nhập
viện (lag4)
Sau 5 ngày nhập
viện (lag5)
Sau 6 ngày nhập
viện (lag6)
1,001
(0,999-1,004)
1,001
(0,999-1,004)
1,001
(0,998-1,004)
1,000
(0,997-1,003)
1,000
(0,997-1,003)
1,000
(0,997-1,003)
1,001
(0,999-1,004)
1,001
(0,999-1,004)
1,001
(0,998-1,004)
1,000
(0,990-1,011)
1,009
(1,001-1,017)
1,016
(1,006-1,026)
Độ ẩm
Cùng ngày nhập
viện (lag0)
Sau 1 ngày nhập
viện (lag1)
1,144
(1,002-1,307)
1,165
1,050
(0,901-1,222)
1,123
1,140
(0,995-1,306)
1,160
1,212
(0,746-1,970)
1,179
(1,095-1,239)
(1,046-1,206)
(1,089-1,235)
(0,942-1,476)
Sau 2 ngày nhập
viện (lag2)
Sau 3 ngày nhập
viện (lag3)
Sau 4 ngày nhập
viện (lag4)
1,152
(1,082-1,227)
1,116
(1,045-1,193)
1,071
(1,011-1,133)
1,150
(1,070-1,236)
1,140
(1,057-1,230)
1,106
(1,036-1,18)
1,146
(1,075-1,222)
1,111
(1,038-1,189)
1,066
(1,006-1,130)
1,126
(0,895-1,416)
1,066
(0,837-1,358)
1,012
(0,823-1,245)
Sau 5 ngày nhập
viện (lag5)
1,026
(0,976-1,078)
1,061
(1,003-1,124)
1,023
(0,972-1,076)
0,975
(0,816-1,166)
Sau 6 ngày nhập
viện (lag6)
0,991
(0,936-1,049)
1,019
(0,955-1,088)
0,991
(0,935-1,050)
0,964
(0,785-1,185)
N.C. Sy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 109-115
114
Bảng 3 cho thấy có mối tương quan nghịch
ở trẻ em, hay có thể hiểu một cách khác đó là
nhiệt độ giảm xuống có thể là một trong những
yếu tố nguy cơ quan trọng liên quan đến việc
nhập viện điều trị viêm phổi ở trẻ em. Kết quả
này tương đương về mặt xu hướng với các kết
tác giả Phùng V. Dũng tiến hành trên vùng đồng
này có thể lý giải bởi hai lý do. Thứ nhất do nhiệt
độ trung bình của khu vực đồng bằng châu thổ
sông Cửu Long tại các thời điểm trong năm nhìn
chung đều cao hơn so với khu vực miền Trung,
do vậy có thể làm thay đổi chiều hướng của mối
tương quan tìm được. Thứ hai có thể do tác giả
sử dụng biến số đầu ra là việc nhập viện của trẻ
em do tất cả các bệnh lý chứ không xét riêng trên
các ca bệnh nhập viện do viêm phổi như nghiên
cứu này. Tuy nhiên, dù theo xu hướng nào cũng
có thể kết luận được mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa nhiệt độ trung bình và việc nhập
viện ở trẻ em, điều này là hợp lý khi trẻ em là lứa
tuổi có hệ thống miễn dịch chưa hoàn thiện do
vậy khá nhạy cảm với các thay đổi về môi
trường, đặc biệt là nhiệt độ.
có ý nghĩa thống kê khi nhiệt độ trung bình ngày
tăng lên thì trung bình số ca nhập viện do bệnh
viêm phổi ở trẻ em trong ngày giảm và ngày sau
đó cũng giảm. Cụ thể nếu nhiệt độ trung bình
ngày tăng thêm 1 độ C thì số ca nhập viện cùng
ngày giảm 1% (KTC 95%: 0,3 – 1,7%). , và trung
bình số ca nhập viện 1 ngày sau đó giảm 0,4%
(KTC 95%: 0,1 – 0,7%). Xu hướng tương tự
được tìm thấy khi phân tích ở nhóm trẻ nhập viện
trong khoảng từ 1 – 5 tuổi.
Ngược lại, nghiên cứu tìm ra mối tương
quan giữa độ ẩm và việc nhập viện do bệnh viêm
phổi ở trẻ em tại Tỉnh Nghệ An. Cụ thể với mỗi
1% độ ẩm tăng thêm thì số ca nhập viện do viêm
phổi ở trẻ em tăng vào cùng ngày tăng lên 14,4%
(KTC 95%: 0,2 – 30,7%), và ngày hôm sau tăng
thêm 16,5% (KTC 95%: 9,5 – 23,9%). Tuy
nhiên, sau 4 ngày thì trung bình số ca nhập viện
do bệnh viêm phổi ở trẻ em tăng thêm chỉ còn
7,1% (KTC 95%: 1,1 – 13,3%).
4. Bàn luận
Bệnh viện Sản - Nhi Nghệ An là bệnh viện
chuyên khoa, tuyến chuyên môn cao nhất về
khám, chữa bệnh trong lĩnh vực sản phụ khoa và
nhi khoa của tỉnh Nghệ An và tiến tới là của khu
vực Bắc Trung bộ.Mỗi ngày tại khoa khám bệnh
có từ 1.000-1.200 luợt bệnh nhân tới khám và
200 - 240 bệnh nhân vào điều trị nội trú. Tính
riêng các ca bệnh nhập viện do viêm phổi ở trẻ
em trong 5 năm tại bệnh viện đã xấp xỉ khoảng
45000 ca (trung bình khoảng 9000 ca/năm) cho
thấy vấn đề về các bệnh đường hô hấp nói chung,
trong đó có viêm phổi là một vấn đề sức khỏe
đáng quan tâm, đặc biệt tại trẻ em. Vấn đề này
không chỉ riêng tại một khu vực, mà còn là vấn
đề chung của các quốc gia bất kể điều kiện khí
chuyên khoa, đồng thời áp dụng hệ thống bệnh
án điện tử một cách hiệu quả nên đã tạo thuận lợi
khi có được số liệu đầy đủ và chính xác trong
khoảng thời gian 5 năm (2015 – 2019).
Độ ẩm qua các phân tích trên đây có mối
tương quan thuận có ý nghĩa thống kê với việc
nhập viện do bệnh viêm phổi ở trẻ em. Kết quả
này cũng tương đương với các kết quả khác trước
vai trò quan trọng trong việc tăng số lượng các
ca bệnh liên quan đến đường hô hấp ở trẻ em,
trong đó có bệnh viêm phổi. Điều này cũng phù
hợp khi độ ẩm môi trường cao là điều kiện thuận
lợi cho các bệnh lý đường hô hấp phát triển. Mặc
dù là một tỉnh thuộc miền Trung nhưng số liệu
quan trắc cho thấy Nghệ An là tỉnh luôn có trung
bình độ ẩm thuộc mức cao (trên 80%), điều này
cũng lý giải cho mối tương quan được tìm thấy
trong nghiên cứu này.
Một điểm hạn chế quan trọng trong nghiên
cứu này là khi thu thập hoàn toàn vào số liệu từ
bệnh nhân là trẻ em nhập viện tại Bệnh viện Sản
Nhi Nghệ An do bệnh viêm phổi. Khi đó, thông
tin về các ca bệnh có diễn biến nhẹ hơn diễn ra
tại cộng đồng khó có thể thu thập được. Như vậy,
xu hướng về các ca bệnh nhập viện trong nghiên
Kết quả nghiên cứu chỉ ra có mối tương quan
nghịch có ý nghĩa thống kê giữa nhiệt độ trung
bình ngày và việc nhập viện do bệnh viêm phổi
N.C. Sy et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 109-115
115
cứu này nên chỉ kết luận với các ca bệnh nặng
cần đến các cơ sở y tế để điều trị. Bên cạnh đó,
yếu tố tình trạng kinh tế hộ gia đình của trẻ khi
nhập viện được chỉ ra rằng có ảnh hưởng tới tính
nhạy cảm với các yếu tố nguy cơ từ môi trường
[12], tuy nhiên nghiên cứu này vẫn chưa thu thập
được. Tuy phân tíchđược hiệu chỉnh với việc
ngày nhập viện có phải là ngày nghỉ hay không (có
thể dẫn đến số ca nhập viện tăng hoặc giảm bất
thường), nhưng kết quả nghiên cứu chưa hiệu
chỉnh được việc khi bệnh viện bị quá tải dẫn
đến khả năng tiếp nhận bệnh nhân ở các ngày
là khác nhau.
Tài liệu tham khảo
[1] I. Rudan, et al., Epidemiology and etiology of
childhood pneumonia. Bulletin of the World
Health Organization 86(5) (2008) 408-416.
[2] M. Harris, et al., British Thoracic Society
guidelines for the management of community
acquired pneumonia in children: update Thorax,
66 (2011) (Suppl 2): p. ii1.
[3] Margolis, P. and A. Gadomski, The rational
clinical examination. Does this infant have
pneumonia? Jama 279(4) (1998) 308-13.
[4] World Health Organization, Handbook : IMCI
integrated management of childhood illness. 2005,
World Health Organization: Geneva.
[5] Sönke Kreft, David Eckstein, and Inga Melchior,
Global Climate Risk Index 2017, Germanwatch
Nord-Süd Initiative e.V.,.
5. Kết luận và khuyến nghị
[6] Pham Khoi Nguyen, Vietnam's event about sea
level rising and climate chang, 2009, Ministry of
Natural resources and enviroment.
[7] L.M.T. Luong, et al., Effects of temperature on
hospitalisation among pre-school children in
Hanoi, Vietnam, 26(3) (2019) 2603-2612.
[8] D. Phung, et al., Temperature as a risk factor for
hospitalisations among young children in the
Mekong Delta area, Vietnam. Occupational and
Environmental Medicine 72(7) (2015) 529.
[9] J. Gao, et al., Impact of ambient humidity on child
health: a systematic review. PloS one 9(12) (2014)
p. e112508-e112508.
[10] Y. Liu, et al., Temporal relationship between
hospital admissions for pneumonia and weather
conditions in Shanghai, China: a time-series
analysis. BMJ Open, 4(7) (2014) p. e004961.
[11] T. Egondi, et al., Time-series analysis of weather
and mortality patterns in Nairobi's informal
settlements. Global health action, 5 (2012) 23-32.
[12] Leckebusch, G.C. and A.F. Abdussalam, Climate
and socioeconomic influences on interannual
variability of cholera in Nigeria. Health Place, 34
(2015) 107-17.
Tổng cộng có 45466 lượt trẻ em nhập viện
do bệnh viêm phổi tại Bệnh viện Sản nhi Nghệ
An trong 5 năm từ 2015 – 2019, trong đó chủ yếu
là các ca bệnh của trẻ dưới 5 tuổi và đến từ khu
vực nông thôn. Trong quãng thời gian trên, nhiệt
độ trung bình ngày tại tỉnh Nghệ An là 26,28 độ
C và độ ẩm trung bình là 84,1%. Kết quả cho
thấy có mối tương quan nghịch có ý nghĩa thống
kê giữa nhiệt độ trung bình ngày và việc nhập
viện do bệnh viêm phổi ở trẻ em. Nếu nhiệt độ
trung bình ngày tăng thêm 1 độ C thì số ca nhập
viện cùng ngày giảm 1% (KTC 95%: 0,3 – 1,7%)
trong khi độ ẩm tăng thêm thì số ca nhập viện
vào cùng ngày của trẻ lại tăng lên 14,4% (KTC
95%: 0,2 – 30,7%), 1 ngày sau đó tăng 16,5%
(KTC 95%: 9,5 – 23,9%), và 2 ngày sau đó số ca
tăng 15,2% (KTC 95%: 8,2 – 22,7%).
Trẻ em là đối tượng nhạy cảm với các yếu tố
thời tiết, trong đó bao gồm nhiệt độ và độ ẩm, do
vậy cần có biện pháp bảo vệ sức khỏe của trẻ mỗi
khi có thay đổi về thời tiết. Các nghiên cứu có
thể xem xét xây dựng các mô hình bao gồm các
yếu tố thời tiết, ô nhiễm không khí xung quanh
để có thể xem xét tác động một cách toàn diện
của môi trường lên sức khỏe của các nhóm yếu
thế như trẻ em, người cao tuổi.
Bạn đang xem tài liệu "The impact of weather on hospitalization due to pneumonia among children in Nghe An from 2015 to 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- the_impact_of_weather_on_hospitalization_due_to_pneumonia_am.pdf