Thẩm định dự án không hủy ngang trong điều kiện bất định: Trường hợp bất định về thuế Carbon

Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019  
THẨM ĐỊNH DỰ ÁN KHÔNG HỦY NGANG TRONG ĐIỀU KIỆN  
BẤT ĐỊNH: TRƯỜNG HỢP BẤT ĐỊNH VỀ THUẾ CARBON  
PROJECT APPRAISAL OF IRREVERSIBLE PROJECT  
UNDER UNCERTAINTY: THE CASE OF CARBON TAXATION  
UNCERTAINTY  
Nguyễn Khắc Quốc Bảo1  
Lê Quốc Thành2  
Ngày nhận: 12/12/2018  
Tóm tắt  
Ngày nhận bản sửa: 17/12/2018  
Ngày đăng: 15/02/2019  
Hầu hết các dự án đầu tư được thẩm định theo phương pháp truyền thống chiết khấu dòng tiền  
(DCF)1. Tuy nhiên phương pháp DCF được cho là có nhiều hạn chế với dự án đầu tư tài sản cố  
định có giá trị lớn có tính “không hủy ngang” cao hay còn gọi là dự án đầu tư không hủy ngang  
(McDonald & Siegel, 1986). Đây là loại dự án có vòng đời dài, khả năng gặp nhiều nhân tố bất  
định trong thời kỳ vận hành làm thay đổi đáng kể lợi nhuận kỳ vọng. Phương pháp quyền chọn thực  
(Real Option - RO)2 được nhận định là phù hợp hơn cho thẩm định dự án đầu tư không hủy ngang  
so với DCF. Nghiên cứu này tổng hợp một số nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm của phương  
pháp RO đồng thời đề xuất hướng nghiên cứu thực nghiệm, cũng như một số kiến thức nền tảng  
liên quan đến RO, bất định và rủi ro, dự án không hủy ngang, nhằm nâng cao khả năng áp dụng  
RO tại Việt Nam.  
Từ khóa: dự án đầu tư, không hủy ngang, nhân tố bất định, quyết định đầu tư, DCF, RO.  
Abstract  
Most investment projects are appraised using the traditional method of discounted cash flow  
(DCF). The DCF method, however, is said to have many limitations with high irreversible fixed  
assets projects, or irreversible project in short (McDonald & Siegel, 1986). This type of project  
has a long lifecycle facing many uncertainties in operational period and thus these uncertainties  
could significantly change the expected profit. Real Option (RO) is considered more appropriate  
for appraisal of irreversible projects than DCF. This research synthesizes theoretical and empirical  
researches of the RO approach and recommends the direction of further empirical researches, as  
1 Discounted Cash Flows: chiết khấu dòng tiền.  
2 Real Option (RO), Real Option Ananlysis, Real Option Approach: Phương pháp quyền chọn thực.  
__________________________________________  
1 Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh  
2 Trường Đại học Tài chính - Marketing  
1
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019  
well as suggesting some background knowledges relating to RO such as uncertainty and risk,  
irreversibility of project, etc, to increase the possibility of applying RO in Vietnam.  
Key words: investment project, irreversibility of project, uncertainty, investment decision,  
discounted cash flow, real option.  
1. Giới thiệu  
dự án này có tầm quan trọng thiết yếu với bất  
kỳ một nền kinh tế mạnh nào. Hầu hết các dự  
án đầu tư không thể hủy ngang là các dự án có  
vốn đầu tư lớn, yêu cầu thời gian chuẩn bị đầu  
tư dài và đến thời điểm ra quyết định đầu tư dự  
án, doanh nghiệp phải chi một lượng chi phí  
khá lớn khoảng 10% tổng vốn đầu tư dự án cho  
công tác nghiên cứu thị trường, khảo sát thiết  
kế kỹ thuật, lập báo cáo tiền khả thi và khả thi  
dự án. Đây là các dự án được xếp vào nhóm các  
dự án có yêu cầu thiết kế, mua sắm/đấu thầu và  
lắp đặt các trang thiết bị và xây dựng phức tạp.  
Theo Bảng 1 – Phân loại dự án theo Viện Quản  
trị dự án (PMI), từ khảo sát của Archibald &  
Voropaev (2004), các dự án thuộc nhóm 3 (3.1  
và 3.2), nhóm 5 (5.1 đến 5.4), và nhóm 7 (7.7)  
có thể kể tên như sau: (1) Dự án hạ tầng giao  
thông vận tải, hạ tầng viễn thông; (2) Dự án hạ  
tầng năng lượng (nhà máy lọc dầu, nhà máy  
điện các loại); (3) Dự án sản xuất hàng hóa cơ  
bản của nền kinh tế (sắt thép, nguyên vật liệu,  
hóa chất,…). Có thể thấy ngay các dự án này  
có tầm quan trọng thiết yếu cho bất kỳ một nền  
kinh tế mạnh của một quốc gia nào trên thế giới.  
Những nước đang phát triển mà Việt Nam là  
một ví dụ có nhu cầu rất lớn về đầu tư phát triển  
các loại dự án có tài sản cố định giá trị lớn. Do  
vậy, khuyến khích đầu tư vào loại hình dự án  
này là hết sức ưu tiên trong chính sách của các  
quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển.  
Trong quản trị tài chính, doanh nghiệp có  
3 quyết định tài chính quan trọng là (1) Quyết  
định đầu tư (investment decision); (2) Quyết  
định phân phối cổ tức (dividend decision); (3)  
Quyết định tài trợ (financing decision). Trong  
đó quyết định đầu tư được cho là quan trọng  
nhất có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận doanh  
nghiệp và giá trị doanh nghiệp. Với các dự án  
đầu tư vào tài sản cố định lớn còn gọi là dự  
án không hủy ngang (Irreversible project, theo  
McDonald & Siegel, 1986), có vòng đời dài  
đến 30 – 40 năm thường gặp nhiều nhân tố bất  
định trong tương lai ảnh hưởng đến lợi nhuận  
của dự án. Để ra quyết định đầu tư, nhà đầu tư  
cân nhắc nhiều chỉ tiêu bao gồm cả định lượng  
và định tính, trong đó chỉ tiêu tài chính của dự  
án là rất quan trọng. Nghiên cứu này phân tích  
hai phương pháp DCF và RO cho cùng một  
loại dự án đầu tư không hủy ngang, nhằm thảo  
luận điểm mạnh, yếu của mỗi phương pháp,  
khả năng bổ trợ lẫn nhau nếu có và đề xuất  
các khuyến nghị cho công tác thẩm định dự án  
không hủy ngang đặc biệt trong điều kiện bất  
định cao trong tương lai.  
2. Dự án đầu tư không hủy ngang  
Trong các loại hình đầu tư FDI, đầu tư vào  
các dự án lớn, hay còn gọi là dự án đầu tư không  
hủy ngang, được đặc biệt ưu tiên bởi các quốc  
gia và các nhà hoạch định chính sách, do các  
2
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019  
Bảng 1. Phân loại dự án theo Viện quản trị dự án (PMI)  
Loại dự án  
Ví dụ điển hình  
1. Dự án Quốc phòng & Vũ trụ: hệ thống phòng thủ Đóng mới phi thuyền, phóng vệ tinh  
quốc gia, phi thuyền, tổ chức chiến dịch quân sự.  
nhân tạo.  
2. Các dự án chuyển đổi tổ chức và hoạt động kinh Mua bán sáp nhập các công ty.  
doanh: mua bán & sáp nhập, hoàn thiện quá trình quản Thành lập và đưa vào hoạt động công  
trị, lập công ty mới, tái cấu trúc tổ chức kinh doanh, ty mới.  
chuẩn bị cho các tranh chấp kinh tế.  
3. Các dự án hệ thống thông tin liên lạc:  
- Hệ thống mạng thông tin;  
Tổ chức lại công ty đã có.  
Thế hệ thứ 3 của hệ thống mạng không  
dây.  
- Hệ thống chuyển mạch thông tin.  
4. Các dự án tổ chức sự kiện.  
Các đại hội thể thao trong nước, quốc  
tế.  
5. Các dự án có tỷ trọng thiết bị lớn:  
- Dự án đóng cửa nhà máy cũ;  
- Dự án phá huỷ thiết bị cũ;  
Đê đập hay cầu vượt, nhà máy điện, nhà  
máy xử lý chất thải hoá chất, xây mới  
toà nhà, xây mới trung tâm thương mại  
cao ốc văn phòng, xây mới khu dân cư  
- Dự án bảo trì định kỳ nhà máy;  
- Dự án liên quan đến Thiết kế - Mua sắm – Xây lắp đô thị, đóng tàu container, tàu khách...  
(EPC) của các ngành sau: xây dựng dân dụng, xăng  
lượng, môi trường, xây dựng toà nhà cao tầng, xây mới  
nhà máy sản xuất, xây dựng khu thương mại, xây dựng  
khu dân cư, đóng mới tàu biển.  
6. Các dự án hệ thống công nghệ thông tin (Phần mềm) Phát triển các phần mềm.  
7. Các dự án phát triển quốc tế:  
Các dự án thường được tài trợ bởi các tổ  
chức phát triển quốc tế như Ngân hàng  
Thế giới, Unido, các tổ chức thuộc Liên  
hiệp quốc.  
- Dự án phát triển nông nghiệp & nông thôn;  
- Dự án giáo dục;  
- Dự án y tế;  
- Dự án dinh dưỡng;  
Các dự án yêu cầu nhiều vốn và khối  
lượng thiết bị, xây lắp rất lớn, thời gian  
kéo dài nhiều năm.  
- Dự án về dân số;  
- Dự án về doanh nghiệp vừa và nhỏ;  
- Các dự án hạ tầng về: (1) Năng lượng (Dầu, khí, than,  
điện, các dự án phát điện khác, truyền tải điện); (2) Dự  
án công nghiệp; (3) Giao thông vận tải, viễn thông, đô  
thị hoá, cấp thoát nước, thuỷ lợi.  
8. Dự án giải trí và truyền thông.  
9. Dự án phát triển dịch vụ và sản phẩm.  
Sản xuất các bộ phim.  
Sản xuất phần cứng cho ngành công  
nghệ thông tin, sản xuất các sản phẩm  
công nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng,  
sản xuất dược phẩm, dịch vụ nói chung  
(dịch vụ tài chính, bảo hiểm…).  
10. Dự án nghiên cứu và phát triển các lĩnh vực: về môi  
trường, về công nghiệp, phát triển kinh tế, y tế, khoa học.  
Nguồn: Archibald & Voropaev (2004)  
3
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019  
Một đặc tính quan trọng liên quan đến thể đảo ngược/hủy ngang có thể được tạm dừng  
khía cạnh ra quyết định đầu tư của dự án lớn chờ những thông tin tích cực hơn cho việc ra  
là tính chất không thể đảo ngược/hủy ngang – quyết định đầu tư, như giá cả của sản phẩm dịch  
irreversible project” được McDonald & Siegel vụ dự án sẽ cung cấp tăng, chi phí đầu tư ban  
(1986) đề cập lần đầu tiên vào năm 1986 và mở đầu giảm, thay đổi chính sách theo hướng tích  
ra một nhánh nghiên cứu về việc ra quyết định cực cho dự án.  
đầu tư vào loại hình dự án này (Bertola, 1998).  
Pindyck (1990) cho rằng hầu hết các dự án đầu  
tư hữu hình lớn, như đầu tư vào các nhà máy  
lọc dầu, điện hay các dự án có khối lượng trang  
thiết bị lớn yêu cầu thiết kế nhiều giai đoạn và  
chi phí chuẩn bị dự án lớn, đều có 2 đặc tính  
quan trọng là: (1) Không thể đảo ngược hay  
hủy ngang, trong quá trình chuẩn bị đầu tư hay  
thực hiện đầu tư, nếu nhà đầu tư dừng hay hủy  
ngang, toàn bộ chi phí tính đến thời điểm dừng  
sẽ bị mất (sunk cost) do kết quả của dự án đến  
thời điểm hủy ngang không thể sử dụng cho  
mục đích kinh tế nào khác; (2) Dự án không  
Các dự án đầu tư không thể hủy ngang,  
thường có vòng đời dự án dài có thể đến 30-40  
năm hay hơn nữa, như các dự án sản xuất hàng  
hóa giá trị cao, dự án đầu tư vào hạ tầng cơ  
sở, các nhà máy phát điện, lọc dầu, khai thác  
dầu khí,... Đặc điểm chung của các loại dự án  
này bao gồm: (1) có vòng đời dự án dài, (2)  
vốn đầu tư ban đầu lớn, (3) yêu cầu thời gian  
chuẩn bị dự án, thiết kế, mua sắm thiết bị và xây  
dựng dài; (4) thời gian ra quyết định đầu tư dự  
án có thể kéo dài; (5) khi ra quyết định đầu tư,  
phải cân nhắc nhiều yếu tố bất định, thông tin.  
Các loại dự án đầu tư này thường có nhiều giai  
đoạn, điển hình như sơ đồ sau.  
Giai đoạn 2 và 3  
Giai đoạn 4  
Giai đoạn 1  
Thời gian  
Hình 1. Vòng đời điển hình của dự án (Burke, 2003)  
- Giai đoạn 1 (Concept/Initial Phase): thực hiện và thường được thể hiện trong Báo cáo  
giai đoạn nghiên cứu chuẩn bị đầu tư sơ bộ, dự nghiên cứu tiền khả thi dự án (Pre-feasibility  
án được cân nhắc trên nhiều khía cạnh đặc biệt study), nhằm mục đích ra quyết định: dự án có  
là dự án có phù hợp bổ trợ cho chiến lược chung nên phát triển tiếp sang giai đoạn chuẩn bị đầu tư  
của công ty hay không? Rất nhiều phân tích được chi tiết hay không (Giai đoạn 2).  
4
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019  
-Giaiđoạn2(Intermediate-Development): công tác thiết kế chi tiết cho dự án, tạm ứng vốn  
Giai đoạn này quan trọng nhất trong thời kỳ cho các hợp đồng tư vấn, mua sắm thiết bị, và  
chuẩn bị đầu tư thể hiện bằng nghiên cứu khả thi thuê mướn nhà thầu thi công dự án. Đến đây,  
dự án (Feasible study – F/S). Các yếu tố đầu vào hầu như các dự án không thể đảo ngược được  
của dự án được chi tiết hóa định lượng chính xác do nếu hủy bỏ dự án kết quả đến thời điểm hủy  
nhất có thể. Phân tích tài chính thể hiện bằng các bỏ không thể dùng cho mục đích khác, toàn bộ  
chỉ số tài chính dự án (NPV, IRR, B/C,…) được chi phí đến thời điểm đó là khá lớn và sẽ là chi  
trình bày trong giai đoạn này. Quyết định đầu tư phí mất đi không thể phục hồi (sunk cost).  
của dự án được thực hiện vào cuối giai đoạn này  
- Giai đoạn 4 (Final phase- Transfer): Sau  
khi mà tổng mức đầu tư dự án đã được xác định  
khi hoàn thành giai đoạn thực thi (giai đoạn 3)  
chính xác nhất có thể, các chỉ số tài chính dự án  
dự án đi vào thời kỳ vận hành thử nghiệm và  
được tính toán với các giả định được cho là hợp  
chuyển giao sang thời kỳ vận hành thương mại  
lý nhất. Tuy nhiên, trong thời gian ra quyết định  
cung cấp sản phẩm/dịch vụ ra thị trường.  
đầu tư này, nếu thị trường xuất hiện các yếu tố  
Đến hết giai đoạn 2, nhà đầu tư thường tiêu  
bất định có tác động lớn đến các chỉ số tài chính  
tốn đến từ 5-10%3 tổng mức đầu tư của dự án  
dự án, nhà đầu tư có thể tạm dừng dự án và chờ  
cho công tác nghiên cứu, khảo sát thị trường,  
đợi thông tin tốt hơn hay mức độ bất định của các  
thiết kế các hạng mục của dự án (Burke, 2003).  
yếu tố bất định giảm đến mức chấp nhận được.  
Việc dừng đầu tư sẽ làm toàn bộ các chi phí  
Tình trạng tạm dừng việc ra quyết định đầu tư  
đã đầu tư mất đi và không thể phục hồi hay sử  
dự án chờ thông tin tốt hơn hay rõ ràng hơn như  
dụng cho dự án khác. Nếu nhà đầu tư phát hiện  
vậy được gọi là tình trạng “Đợi và Xem –Wait  
yếu tố bất định lớn, nhà đầu tư có thể tạm dừng  
and See” (Bjerksund & Ekern, 1990; Stokey,  
và chờ đợi các thông tin mới tích cực hơn cho  
2016). Đối với doanh nghiệp, ra quyết định đầu  
việc ra quyết định đầu tư và khi đó tình trạng  
tư vào trong các dự án đầu tư không hủy ngang  
“wait-and-see” xuất hiện.  
(Dixit & Pindyck, 1994), là một trong các quyết  
Việc ra quyết định đầu tư vào dự án của  
định tài chính chiến lược bên cạnh các quyết  
doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố  
định tài chính quan trọng khác như quyết định  
bao gồm cả nhân tố định tính (factor) lẫn định  
phân chia cổ tức (dividend policy), quyết định  
lượng (determinant) ở cả 2 góc độ vi mô và vĩ  
tài trợ (financing decision). Ngay trong giai đoạn  
mô. Các nhân tố vĩ mô có thể bao gồm tình hình  
chuẩn bị đầu tư khi doanh nghiệp còn đầu tư rất  
chính trị của quốc gia nhận đầu tư, mức độ phát  
ít chi phí, nếu phát triển dự án tốt và thực hiện tốt  
triển và tốc độ tăng trưởng của ngành hàng dự  
công tác quan hệ công chúng quảng bá, giá trị thị  
kiến đầu tư, ổn định của tỷ giá của đồng nội tệ  
trường của dự án có thể tăng, giúp gia tăng giá  
và ngoại tệ, ổn định của luật pháp và chính sách  
trị doanh nghiệp nói chung (Fuss & Vermeulen,  
liên quan đến đầu tư như thủ tục hành chính về  
2008).  
3
Chi phí này tương đương hàng chục triệu USD với  
- Giai đoạn 3 (Intermediate - Execution):  
các dự án điện, dầu khí, nhà máy sản xuất thép,…  
Sau khi ra quyết định đầu tư, nhà đầu tư bắt đầu  
chi một lượng đáng kể trong vốn đầu tư vào các  
và sẽ mất đi nếu nhà đầu tư hủy bỏ dự án. Do vậy,  
nhà đầu tư thường trì hoãn đầu tư và chờ đợi khi  
có nhân tố bất định quan trọng chưa thể làm rõ.  
5
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019  
đầu tư, đất đai, thuế, nhân lực địa phương cho  
Hay có thể rút ngắn là:  
dự án. Ngoài ra, doanh nghiệp luôn quyết định  
đầu tư vào dự án, khi các chỉ số tài chính của  
dự án (NPV, IRR) lớn đáng kể theo tâm lý đầu  
tư duy lý của nhà đầu tư/doanh nghiệp. Các chỉ  
số trên được tính toán dựa trên phương pháp  
truyền thống là DCF và sau này được mở rộng  
bằng RO.  
Trong đó B là doanh số bán hàng của doanh  
nghiệp, C0 là chi phí đầu tư ban, Ct là chi phí  
hoạt động kinh doanh trong các năm vận hành  
thương mại, t là vòng đời dự án có thể tính bằng  
số năm, và r là suất chiết khấu của dự án có thể  
lấy bằng chi phí vốn bình quân (WACC) qua  
các năm của dự án.  
3. Phương pháp DCF và RO  
3.1. Phương pháp DCF  
Thẩm định dự án là công việc quan trọng  
trước khi ra quyết định dự án bao gồm nhiều  
công việc như thẩm định pháp lý, thẩm định  
công nghệ/kỹ thuật và trọng tâm là thẩm định tài  
chính dự án, được thực hiện bằng nhiều phương  
pháp khác nhau. Tiêu biểu là phương pháp chiết  
khấu dòng tiền (DCF) thể hiện bằng hai chỉ số  
cơ bản NPV, IRR và phương pháp quyền chọn  
thực (RO). Nếu xét một dự án một cách đơn lẻ,  
doanh nghiệp khi quyết định đầu tư vào dự án,  
thường căn cứ trên 3 tiêu chí quan trọng sau để  
ra quyết định đầu tư: (1) dự án là hợp pháp và  
rủi ro pháp lý là nhỏ và không có rủi ro chính  
trị hay chiến tranh; (2) lợi ích tài chính thể hiện  
bằng các chỉ số NPV, IRR là đáng kể (3) rủi ro  
tài chính là chấp nhận được bởi doanh nghiệp.  
Phương pháp chiết khấu dòng tiền thể hiện  
bằng việc tính toán các chỉ số tài chính dự án  
mà điển hình là NPV, IRR, là một phương pháp  
có tính truyền thống cao, đơn giản dễ hiểu, dễ  
thực hiện. Cho đến nay, hầu hết các dự án đầu  
tư đều được áp dụng phương pháp DCF nhằm  
tính toán các chỉ số tài chính dự án, hỗ trợ công  
tác quyết định của nhà đầu tư. Công thức tính  
NPV được thể hiện như sau:  
Trong phương pháp chiết khấu dòng tiền  
tính NPV hàm chứa nhiều điểm mà nhà đầu tư  
cần thận trọng. Mặc dù công thức tính NPV là  
định lượng rõ ràng nhưng được xây dựng trên  
nền tảng nhiều yếu tố giả định có tính định tính  
cao (Zopounidis,1999). Cụ thể và có lẽ là quan  
trọng nhất là doanh số của dự án qua các năm  
được tính bằng số lượng sản phẩm bán được  
của dự án nhân với giá bán kỳ vọng hay giá bán  
tính toán/dự báo trải dài toàn bộ các năm trong  
vòng đời dự án. Tính bất định đã thể hiện ít nhất  
ở các điểm sau: (1) Giả định dự án luôn bán hết  
sản phẩm tại mức giá dự báo; (2) Giả định mức  
giá là ổn định tại mức giá dự báo; (3) Chi phí  
đầu vào cả trong thời kỳ đầu tư ban đầu và vận  
hành thương mại rất nhiều năm trong tương lai  
là ổn định. Có thể thấy rõ các chỉ số này, mặc  
dù được thể hiện dưới dạng định lượng nhưng  
được xây dựng trên cơ sở các tiêu chí định tính/  
dự báo/tiên lượng và do vậy không thể không  
bị tác động của thị trường có thể dẫn đến kết  
quả NPV có thể có độ dao động nhất định.  
Tương tự như vậy, chi phí vận hành Ct của dự  
án bao gồm rất nhiều thành tố bị tác động từ  
môi trường ngoài doanh nghiệp như chính sách  
thuế, giá bán nguyên liệu đầu vào, chi phí môi  
trường,… Với các chi phí đầu vào của nguyên  
(B0 C0 ) (B1 C1) (B2 C2 )  
(Bn Cn )  
(1+ r)n  
NPV =  
+
+
+.......... +  
(1+ r)0  
(1+ r)1  
(1+ r)2  
6
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019  
nhiên liệu, doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều có đến 75-85% các doanh nghiệp sử dụng NPV  
công cụ phòng ngừa làm giảm biên độ dao động trong khi đó RO chỉ khoảng 6-28%. Tuy nhiên  
nếu có xảy ra như xây dựng giá mua theo công RO lại chứng tỏ hữu hiệu hơn áp dụng cho các  
thức dài hạn cho nhiều năm, hợp đồng mua dài dự án không hủy ngang có các nhân tố bất định  
hạn, hợp đồng mua trọn gói. Tuy nhiên, với các cao trong tương lai. Phương pháp quyền chọn  
bất định liên quan đến chính sách, đặc biệt là thực (RO) được Myers (1977) sử dụng trong  
chính sách thuế hầu như nằm ngoài khả năng nghiên cứu về đầu tư các dự án đầu tư mới vào  
chi phối của doanh nghiệp. Trong thực tiễn, các tài sản sản cố định lớn. Phương pháp này được  
doanh nghiệp lớn có thể liên kết tạo thành các cho là rất hữu ích trong thẩm định các loại dự  
hiệp hội và thực hiện vận động hành lang chính án có dòng doanh thu không chắc chắn hay dao  
thức/không chính thức theo hướng có lợi cho động lớn do ảnh hưởng của bất định. Trong các  
doanh nghiệp.  
Có thể kết luận rằng phương pháp tính toán  
loại dự án này, năng lực tự học hỏi trong quá  
trình vận hành dự án của doanh nghiệp nâng  
cao khả năng chắc chắn hơn cho doanh thu của  
doanh nghiệp có tác động lớn đến khả năng  
sinh lời của dự án. Nhiều nghiên cứu tương tự  
khác cũng có những kết luận khá đồng nhất như  
Pindyck (1991) đã chứng minh rằng RO rất phù  
hợp cho dự án không hủy ngang có nhiều bất  
định do RO cung cấp một khung định lượng  
cho ra nhiều giải pháp khác nhau về các giá trị  
quyền chọn cũng như thời điểm đầu tư thích  
hợp nhất. Adner & Levinthal (2004) cho rằng  
nếu mức độ bất định và tính không hủy ngang  
của dự án thấp thì NPV phù hợp hơn RO và  
ngược lại. Theo Krychoowski & Quélin (2010),  
RO đã khắc phục được yếu điểm của NPV là  
đối phó tốt hơn với các bất định bằng việc cấu  
trúc quyết định đầu tư theo ít nhất 3 cách: (1)  
RO kích thích, cho phép nhà đầu tư thực hiện  
các dự án có độ rủi ro cao hơn; (2) RO cho phép  
dự án đầu tư được phân kỳ tiếp nối nhau và  
giảm chi phí quản lý rủi ro; (3) RO có xu hướng  
tạo áp lực cho nhà quản trị chủ động hơn trong  
việc dẫn dắt dự án do giá trị dự án có thể thay  
đổi tùy thuộc vào các bất định trong tương lai,  
nên việc chủ động tìm hiểu làm rõ khẳng định là  
cần thiết. Áp dụng các nghiên cứu lý thuyết vào  
NPV tuy rõ ràng, dễ thực hiện nhưng hàm chứa  
nhiều số liệu giả định và/hoặc dự báo trên nền  
tảng định tính mà độ chính xác của các số liệu  
dự báo/giả định này phụ thuộc vào năng lực,  
kinh nghiệm, trình độ và cả đạo đức của chuyên  
gia thực hiện (Trần Ngọc Thơ, 2014). Do vậy  
chỉ số NPV có tính chất tương đối phụ thuộc  
nhiều vào nỗ lực, kinh nghiệm, trình độ và đạo  
đức của chuyên gia lập dự án và thẩm định.  
Phương pháp này bộc lộ hạn chế lớn trong các  
dự án không hủy ngang, có vòng đời dự án dài  
chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố bất định như  
giá đầu ra sản phẩm và dịch vụ biến động lớn,  
các chính sách thay đổi làm thay đổi các chi phí  
hoạt động kinh doanh. Với các biến động trong  
tương lai, áp dụng chỉ số NPV thể hiện sự cứng  
nhắc và thiếu uyển chuyển, đóng khung dự án  
đầu tư và do vậy hạn chế các cơ hội có thể có  
trước các bất định trong tương lai.  
3.2. Phương pháp RO  
Mặc dù phương pháp NPV là phổ biến như  
theo tổng kết của Krychowski & Quélin (2010)  
dựa theo khảo sát từ Rigby & Gillies (2000);  
Graham & Harvey (2001); Ryan & Ryan (2002),  
7
pdf 7 trang yennguyen 19/04/2022 1300
Bạn đang xem tài liệu "Thẩm định dự án không hủy ngang trong điều kiện bất định: Trường hợp bất định về thuế Carbon", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftham_dinh_du_an_khong_huy_ngang_trong_dieu_kien_bat_dinh_tru.pdf