Nghiên cứu gây trồng cây sa nhân tím (Amomum longiligulare T. L.Wu) dưới tán rừng tự nhiên ở vùng miền núi Nghệ An

Đ. T. M. Châu, N. T. Hải / Nghiên cứu gây trồng cây Sa nhân tím (Amomum longiligulare T. L. Wu)…  
NGHIÊN CỨU GÂY TRỒNG  
CÂY SA NHÂN TÍM (Amomum longiligulare T. L.Wu)  
DƯỚI TÁN RỪNG TỰ NHIÊN Ở VÙNG MIỀN NÚI NGHỆ AN  
Đào Thị Minh Châu (1), Nguyễn Thượng Hải (2)  
1 Viện Công nghệ Hóa Sinh - Môi trường, Trường Đại học Vinh  
2 Trung tâm Giáo dục thường xuyên Cửa Lò, Nghệ An  
Ngày nhận bài 16/9/2020, ngày nhận đăng 11/12/2020  
Tóm tắt: Sa nhân tím (Amomum longiligulare) là loài cây thuốc quý, tinh dầu Sa  
nhân cũng được dùng nhiều trong sản xuất hoá mỹ phẩm. Trong quy hoạch phát triển  
dược liệu tỉnh Nghệ An, Sa nhân là một trong 3 nhóm loài được đề xuất trồng trên diện  
tích 100 ha ở vùng miền núi. Tuy nhiên, ở Nghệ An, loài này phân bố rất ít trong tự  
nhiên, khó phát triển thành vùng nguyên liệu. Vì vậy, nghiên cứu đã tiến hành đưa  
giống Sa nhân tím nuôi cấy mô vào trồng thí điểm dưới tán rừng tự nhiên tái sinh nhằm  
tìm hiểu điều kiện sinh thái tối ưu, từ đó có các khuyến cáo cho việc gây trồng, phát  
triển cây Sa nhân tím ở miền núi Nghệ An. Kết quả cho thấy, Sa nhân tím phù hợp  
trồng dưới tán rừng tự nhiên, nơi có độ che tán 30% - 50%, độ cao 100 - 800 m so với  
mực nước biển, lượng mưa 2.000 - 3.000 mm/năm, độ ẩm đất trên 20%. Sau 2 năm cây  
cho quả, có 2 vụ quả, thu được khoảng 120 kg quả khô/1 ha/vụ.  
Từ khoá: Sa nhân tím; điều kiện sinh thái; gây trồng dưới tán rừng.  
1. Đặt vấn đề  
Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất cả nước với gần 1 triệu ha rừng, trong đó  
chủ yếu là rừng tự nhiên. Có gần 300.000 người dân sống phụ thuộc trực tiếp hoặc gián  
tiếp vào rừng, với sinh kế chủ yếu là khai thác tài nguyên rừng và đốt nương làm rẫy.  
Cho đến nay, các nguồn thu từ công tác quản lý, bảo vệ rừng rất ít. Vì thế, rất cần có  
các biện pháp canh tác rừng bền vững để người dân vừa sống tốt vừa bảo vệ, phát triển  
rừng [4]. Ở Nghệ An, Sa nhân đã được quy hoạch trồng ở các huyện Con Cuông,  
Tương Dương, Quỳ Hợp, Quỳ Châu và Anh Sơn trong quy hoạch phát triển dược liệu  
của tỉnh [4].  
Sa nhân là 1 chi thực vật có nhiều loài cây thuốc quí, được sử dụng phổ biến  
trong đông y và làm hương liệu. Sa nhân tím (Amomum longiligulare) là loài khá dễ  
trồng, cho nhiều quả, khối hạt chắc, nhiều tinh dầu. Sau 2 - 3 năm trồng, có thể thu hoạch  
từ 150 - 250 kg quả khô/1ha, giá thu mua tại chỗ 200.000 đ/kg khô. Như vậy, bình quân  
mỗi ha trồng Sa nhân tím dưới tán rừng có thể thu lợi từ 30 - 50 triệu đồng/năm. Hàng  
năm, cả nước có thể khai thác được một nghìn tấn quả sa nhân khô, chủ yếu dành cho  
xuất khẩu. Hiện nay, nhu cầu trong nước đối với quả và hạt Sa nhân khô rất lớn, để phục  
vụ sản xuất dược phẩm và tinh dầu [2].  
Vì thế, nghiên cứu trồng thử nghiệm 1 ha cây Sa nhân tím dưới tán rừng tự nhiên  
ở huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An nhằm xác định được các điều kiện sinh thái phù hợp  
để hoàn chỉnh quy trình nhân giống và trồng Sa nhân tím (Amomum longiligulare) dưới  
tán rừng tự nhiên vùng miền núi Nghệ An là việc làm rất cần thiết cho việc đề xuất các  
biện pháp phát triển vùng dược liệu dưới tán rừng ở Nghệ An.  
Email: daochau27@gmail.com (Đ. T. M. Châu)  
12  
Trường Đại học Vinh  
Tạp chí khoa học, Tập 49 - Số 4A/2020, tr. 12-19  
2. Đối tượng, ni dung và phương pháp nghiên cu  
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cu  
Đối tượng nghiên cu: Sa nhân tím (Amomum longiligulare) là một loài thuộc chi  
Sa nhân (Amomum), họ Gừng (Zingiberaceae). Chi Sa nhân có khoảng 250 loài phân bố  
chủ yếu ở vùng nhiệt đới, đặc biệt là khu vực nhiệt đới Đông Nam và Nam Á. Ở Việt  
Nam, đã thống kê được trên 30 loài thuộc chi Sa nhân, chúng phân bố tập trung ở các  
tỉnh Tây Nguyên (Đắc Lắc, Gia Lai) và Khu vực Trung du miền núi phía Bắc (Yên Bái,  
Phú Thọ, Hoà Bình…) [1].  
Sa nhân tím còn gọi là Sa nhân lưỡi dài, là loài thân thảo sống nhiều năm, cao 1,5  
- 2,5m, ưa ẩm, chịu bóng nên có thể trồng được dưới tán rừng, vừa giúp tăng độ che phủ  
đất rừng, giữ nước, chống xói mòn, vừa giúp tăng thu nhập cho người dân. Loài Sa nhân  
tím cũng có thể trồng ở những nơi tráng nắng (trên đất sau nương rẫy) tạo thành những  
quần thể lớn thuần loài. Loài Sa nhân tím là cây dễ trồng vì chúng thích nghi tốt với các  
loại đất, có khả năng tái sinh vô tính khỏe và tái sinh tự nhiên từ hạt lớn [2].  
Ging cây Sa nhân tím (Amomum longiligulare T.L.Wu) được đưa vào trồng  
trong mô hình thử nghiệm là giống cây nuôi cấy mô được lấy từ Trạm giống cây lâm sản  
ngoài gỗ Hoành Bồ thuộc Trung tâm Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam.  
Thi gian nghiên cu: Mô hình bắt đầu trồng từ tháng 2 năm 2018. Theo dõi sự  
sinh trưởng và phát triển của cây trong 2 năm. Tháng 7 năm 2020 thì nghiệm thu mô  
hình.  
Địa điểm: Mô hình trồng thử nghiệm dưới tán rừng tự nhiên tái sinh trong Phân  
khu dịch vụ hành chính của Vườn quốc gia Pù Mát, tại xã Lục Dạ, huyện Con Cuông,  
tỉnh Nghệ An.  
2.2. Phương pháp nghiên cu  
Kế thừa tài liệu về Quy trình nhân giống, gây trồng, thu hái Sa nhân tím của  
Trung tâm Nghiên cứu Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam và Trung tâm Cây giống cây nguyên  
liệu Tam Đảo [3].  
Để xác định được điều kiện sống phù hợp và điều kiện sinh trưởng tối ưu của cây  
Sa nhân tím dưới tán rừng, các yếu tố sinh thái tự nhiên có ảnh hưởng chính đến sự sinh  
trưởng và phát triển của loài như độ che bóng, độ ẩm, độ dốc đã được bố trí trên mô hình  
và được đo đạc, theo dõi trong suốt quá trình. Độ che bóng, độ dốc được xác định bằng  
phần mềm HabitApp; độ ẩm được xác định bằng sự tổn thất khối lượng của mẫu đất sau  
khi sấy khô.  
Mô hình bố trí thành 20 khu vc nh, mi khu vc khong 500 m2. Cthể như sau:  
- Khu vc 1: Địa hình bng phẳng, được chia thành các khu nhỏ hơn có các điều  
kin sinh thái khác nhau (ven sui, xa sui; che tán 10%, 25%, 40%, 55%, 70%).  
- Khu vc 2: Địa hình dc khong 35o, chia thành các khu nhỏ hơn có các điều  
kin sinh thái khác nhau (ven sui, xa sui, che tán 10%, 25%, 40%, 55%, 70%).  
13  
Đ. T. M. Châu, N. T. Hải / Nghiên cứu gây trồng cây Sa nhân tím (Amomum longiligulare T. L. Wu)…  
3. Kết quả nghiên cứu  
3.1. Ảnh hưởng của độ che bóng đến cây Sa nhân tím  
3.1.1. Ảnh hưởng của độ che bóng đến tỷ lệ sống của cây con  
Tháng 8/2018, đưa 1.500 cây giống nuôi cấy mô (giống do Trung tâm Nghiên  
cứu Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam sản xuất) đặt vào vườn ươm, tưới nước đủ. Trên diện  
tích 1 ha dưới tán rừng, chuẩn bị 1500 hố, bón lót phân chuồng, ủ trong 1 tháng, chờ cây  
ổn định và đưa ra trồng. Ngay sau khi trồng, các cây được tưới nước 2 ngày. Sau đó để  
cây tự phát triển dựa vào độ ẩm của đất.  
Theo dõi mô hình từ tháng 9/2018 đến tháng 12/2018 thấy nhiều cây con bị chết  
khi phơi trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời, đặc biệt ở những vị trí vừa nắng vừa khô hạn.  
Bảng 1 trình bày tỷ lệ sống sót của cây con sau 3 tháng trồng dưới các điều kiện che  
bóng khác nhau, tỷ lệ cây chết cao nhất ở nơi che bóng 10% và tỷ lệ sống sót cao nhất ở  
nơi che bóng 55%.  
Bảng 1: Ảnh hưởng của che bóng đến tỷ lệ sống sót của cây con sau 3 tháng trồng  
Độ che bóng  
Tỷ lệ sống của cây con  
10%  
15%  
25%  
30%  
40%  
60%  
55%  
85%  
70%  
80%  
Che bóng: 10%  
25%  
55%  
70%  
Hình 1: Các cây con sau khi trồng 2 tháng trong các điều kiện che bóng khác nhau.  
14  
Trường Đại học Vinh  
Tạp chí khoa học, Tập 49 - Số 4A/2020, tr. 12-19  
3.1.2. Ảnh hưởng của độ che bóng đến sự sinh trưởng của cây  
Tiếp tục theo dõi mô hình từ tháng 1/2019 đến tháng 6/2020, một số cây ở những  
nơi tán che bóng 10% tiếp tục không chịu được nắng hạn nên héo, úa dần và chết. Những  
cây sống khỏe và tăng chiều cao nhanh hơn ở các khu vực che bóng 40% và 55%. Đặc  
biệt vào mùa hè, các cây ở khu vực che bóng thấp (10%, 25%) yếu, tăng trưởng chiều  
cao ít và có xu hướng còi cọc. Còn các cây ở khu vực che bóng 70% có lá xanh thẫm, cây  
nhỏ và có xu hướng vươn cao.  
Mùa mưa năm 2019 và mùa xuân năm 2020, các cây ở khu vực che bóng 40% và  
55% phát triển thân ngầm mạnh, đầu đẻ nhánh nhiều, tạo nên các cây con mới, mỗi gốc  
phát triển thành từng khóm có 5 - 6 cây. Ở các khu vực che bóng 10%, 25%, 70% các  
cây ít phát triển thân ngầm và đẻ nhánh.  
Bảng 2: Ảnh hưởng của độ che bóng đến sự sinh trưởng của cây  
Độ che bóng  
Chiều cao của cây trung bình của cây 0,6 m  
Phát triển thân ngầm và nhánh con 20%  
10%  
25%  
1 m  
40%  
1,3 m 1,4 m 1,5 m  
80% 60% 40%  
55% 70%  
50%  
3.1.3. Ảnh hưởng của độ che bóng đến sự ra hoa kết trái  
Cuối hè năm 2019, một số gốc Sa nhân tím sống khỏe ở khu vực có độ che bóng  
40%, 55% đã cho ra quả bói. Đến tháng 7/2020, hầu hết các cây ở khu vực che bóng  
40%, phần lớn các cây ở khu vực che bóng 55% và một số ít cây ở khu vực che bóng  
25% đã cho ra nhiều hoa và quả. Tuy nhiên các cây ở khu vực che bóng 10% vẫn còn  
thấp còi và ít đẻ nhánh. Còn các cây ở khu vực che bóng 70% lại mọc cao, thân mảnh và  
chưa hoa, quả (Bảng 3).  
Bảng 3: Ảnh hưởng của độ che bóng lên tỷ lệ ra hoa, kết trái  
Độ che bóng  
10%  
0%  
25%  
40%  
40%  
85%  
55%  
60%  
70%  
5%  
Tỷ lệ ra hoa, kết trái  
3.2. Ảnh hưởng của độ ẩm và lượng mưa đến loài Sa nhân tím  
3.2.1. Ảnh hưởng của độ ẩm và lượng mưa đến tỷ lệ sống của cây con  
Sa nhân tím là cây ưa ẩm, phát triển mạnh ở những khu vực có lượng mưa cao  
(2.000 - 3.000 mm/năm). Vì thế, độ ẩm và lượng mưa ảnh hưởng rất lớn đến cây.  
Ở các khu vực che bóng thấp (10%), đất sau khi bị phát bỏ lớp thực bì thì bị  
phơi dưới nắng nóng nên khô và nóng. Hơn nữa, lớp tàn tích thực vật ở khu vực này  
cũng kém phát triển hơn nên không che phủ được mặt đất và gốc cây Sa nhân vào mùa  
hè. Vì thế, những cây con ở nơi tráng nắng bị chết nhiều sau khi trồng và tiếp tục héo  
úa vào mùa hè.  
Bảng 4 trình bày tỷ lệ sống của cây con trong các điều kiện khác nhau của độ ẩm  
đất. Theo dõi độ ẩm của đất 3 đợt trong 3 tháng sau khi trồng cho thấy: Khu vực đất thấp  
và bằng phẳng gần suối (Bvs) có độ ẩm cao nhất, trung bình 28% và tỷ lệ sống của cây  
con cao nhất (60%). Khu vực tiếp theo là khu vực đất dốc ở gần suối (Dvs), khu vực đất  
thấp và bằng xa suối (Bxs) và ít ẩm nhất là ở khu vực đất dốc xa suối (Dxs).  
15  
Đ. T. M. Châu, N. T. Hải / Nghiên cứu gây trồng cây Sa nhân tím (Amomum longiligulare T. L. Wu)…  
Bảng 4: Ảnh hưởng của độ ẩm đất trồng đến tỷ lệ sống của cây con  
Độ ẩm đất  
28% (Bvs) 24% (Dvs) 20% (Bxs) 17% (Dxs)  
62% 54% 55% 38%  
Tỷ lệ sống của cây con  
Cây Sa nhân không chịu được khô, nắng nên cần trồng vào đầu mùa xuân hoặc  
mùa thu, khi lượng mưa lớn, độ ẩm cao và nắng nóng vừa phải. Sau khi cây con được  
trồng, cần phải tưới nước ngay nếu không có mưa. Nếu đất kém ẩm thì phải tưới trong  
vòng 15 - 20 ngày để duy trì độ ẩm của đất, đảm bảo tỷ lệ sống của cây con cao.  
3.2.2. Ảnh hưởng của độ ẩm và lượng mưa đến sự tăng trưởng chiều cao cây và  
đẻ nhánh  
Tại mô hình thí điểm cho thấy, ở những khu vực có độ ẩm cao và đặc biệt là  
nhiều tàn tích thực vật che phủ gốc thì các thân ngầm phát triển mạnh, đẻ nhánh khỏe  
hơn. Về chiều cao cây (đo vào tháng 12/2019), không có sự khác biệt nhiều giữa các khu  
vực (Bảng 5).  
Bảng 5: Ảnh hưởng của độ ẩm đất đến sự tăng trưởng chiều cao cây và đẻ nhánh  
Độ ẩm đất  
28% (Bvs) 24% (Dvs) 20% (Bxs) 17% (Dxs)  
Chiều cao trung bình của cây  
Phát triển nhánh con (số cây nhánh)  
1,35 m  
6,3  
1,35 m  
5,5  
1,3 m  
4
1,2 m  
2
Khu vực xây dựng mô hình là nơi có lượng mưa cao (2.300 mm/ năm), tầng đất  
dày, lớp thảm mục nhiều, giữ được độ ẩm của đất cao. Các cây ở khu vực thấp, gần suối  
tăng trưởng mạnh hơn các khu vực còn lại. Đặc biệt, ở những khu vực có lớp tàn tích  
thực vật lớn, tàn tích phủ dày trên mặt đất thì các thân ngầm phát triển mạnh, đẻ nhánh  
con nhiều. Cây Sa nhân thường phát triển thân ngầm và đẻ nhánh con vào các mùa mưa  
ẩm (xuân và thu).  
Vào cuối mùa xuân và mùa thu, Sa nhân tím cần được tưới nước và vun tấp gốc  
để giữ ẩm, đảm bảo sự phát triển của thân ngầm, cây con vào mùa hè và mùa đông. Vật  
liệu dùng để vun tấp vào gốc gồm các tàn tích thực vật rụng dưới tán rừng, rơm rạ và các  
phụ phẩm nông nghiệp (nếu có) trộn với đất.  
3.2.3. Ảnh hưởng của độ ẩm và lượng mưa đến sự ra hoa kết trái  
Sa nhân tím ra hoa kết trái 2 lần trong năm, từ tháng 6 - tháng 8 (vụ - vụ chính)  
hoặc từ tháng 10 - tháng 12 (vụ đông). Vào những mùa khô, cây thường ít phát triển thân  
ngầm và đẻ nhánh mà tập trung vào ra hoa và kết trái. Ghi chép và kiểm tra sự ra hoa,  
quả của cây Sa nhân vào tháng 6, tháng 7/2020 cho thấy độ ẩm không chênh lệch nhiều  
giữa các khu vực khác nhau. Tuy nhiên, những khóm cây, gốc cây được vun tấp dày, có  
độ che bóng trung bình thì số hoa nhiều hơn, đậu quả tốt hơn, từ 10 - 12 quả/gốc (Hình  
2a). Còn ở những gốc cây không được vun tấp, ít tàn tích thực vật che phủ gốc thì hoa  
thường bị lụi, ít đậu quả (Hình 2b).  
16  
Trường Đại học Vinh  
Tạp chí khoa học, Tập 49 - Số 4A/2020, tr. 12-19  
Hình 2a: Cụm hoa và quả ẩn  
dưới lớp lá mục  
Hình 2b: Hoa lụi sớm và  
ít hình thành quả  
3.3. Ảnh hưởng của độ dốc địa hình đến loài Sa nhân tím  
Theo kết quả ghi chép được trong quá trình theo dõi thì độ dốc địa hình không phải  
là yếu tố ảnh hưởng nhiều đến tỷ lệ sống của cây con. Tuy nhiên, địa hình có ảnh hưởng  
đến độ ẩm của đất và lớp tàn tích thực vật, mùn bã hữu cơ được giữ lại trên mặt đất… nên  
địa hình tác động gián tiếp để tỷ lệ sống của cây con, sự tăng trưởng về chiều cao thân, khả  
năng phát triển thân ngầm và đẻ nhánh, mức độ ra hoa kết trái của Sa nhân tím.  
Bảng 6 trình bày một số khác biệt về sự sự tăng trưởng chiều cao cây, phát triển  
thân ngầm, đẻ nhánh cây con ở 2 khu vực khác nhau: Khu vực có địa hình dốc từ 25 - 30  
độ và khu vực khá bằng phẳng.  
Bảng 6: Ảnh hưởng của độ dốc địa hình đến tỷ lệ sống của cây con,  
sự tăng trưởng chiều cao cây, phát triển thân ngầm, đẻ nhánh cây con  
Tỷ lệ sống Sự tăng trưởng  
của cây con chiều cao cây  
Phát triển  
thân ngầm  
Đẻ nhánh  
cây con  
Độ ẩm đất  
Khu vực có địa hình dốc  
Khu vực khá bằng phẳng  
55%  
61%  
1,30 m  
1,35 m  
Bán kính 0,9 m 5 nhánh  
Bán kính 1,2 m 6 nhánh  
Các cây sa nhân phát triển  
nhiều nhánh (tháng 3)  
Các cây chồi nhánh  
và cụm hoa quả (tháng 6)  
Hình 3: Một số hình ảnh của mô hình Sa nhân tím  
vào thời điểm tháng 3 và tháng 6 năm 2020  
17  
Đ. T. M. Châu, N. T. Hải / Nghiên cứu gây trồng cây Sa nhân tím (Amomum longiligulare T. L. Wu)…  
4. Kết luận  
Cây Sa nhân tím rất phù hợp để trồng dưới tán rừng tự nhiên, nơi có độ che tán từ  
30% - 50%, lượng mưa từ 2.000 - 3.000 mm/năm, trên địa hình có độ dốc dưới 30o, độ  
cao 100 - 800 m so với mực nước biển, độ ẩm đất trên 18%. Sau 2 năm thu được khoảng  
120 kg quả khô/1 ha/vụ.  
- Độ che bóng phù hợp nhất trong giai đoạn cây con là từ 50 - 60%; giai đoạn cây  
trưởng thành là 40 - 50%; giai đoạn cây ra hoa, kết trái là 30 - 40%. Cây ra hoa, kết trái  
vào mùa hè và mùa đông, ở thời điểm này nên chặt tỉa bớt cành lá để giảm độ che bóng.  
- Độ ẩm đất phù hợp nhất đối với giai đoạn cây con là 20 - 30%; giai đoạn trưởng  
thành và ra hoa kết trái có thể giảm xuống khoảng từ 15 - 20%. Cây tăng trưởng chiều  
cao, thân ngầm và đẻ nhánh tốt vào mùa mưa, ẩm (tháng 2 - 4 và tháng 7 - 10 hàng năm).  
- Nên vun tấp gốc bằng đất trộn rơm, rạ hoặc các tàn tích thực vật, mùn bã hữu cơ  
để đất giữ được độ ẩm giúp cây đẻ nhánh, ra hoa, kết quả tốt hơn.  
- Hiện nay, trên mô hình thử nghiệm có 800 cây trồng ở những nơi có điều kiện  
sinh thái phù hợp đã phát triển thành 800 khóm (5 cây/ khóm), mỗi gốc bình quân cho  
0,1 kg quả khô, 30% số cây cho ra quả ở năm đầu. Như vậy, đã thu được 120 kg khô/1  
ha/vụ hè.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
[1] Nguyn Quc Bình, Nghiên cu phân loi hGng (Zingiberaceae Lindl.) Vit  
Nam, Hà Ni: Lun án Tiến sĩ Sinh học, 2011.  
[2] BNông nghip và Phát trin Nông thôn, Quyết định số 89/QĐ-BNN-TCLN ngày  
1/01/2018 công bQuy trình sn xut và cho phép phbiến gây trng cây Sa nhân  
tím ti những nơi có điều kiện sinh thái tương tự nơi khảo nghim, 2018.  
[3] Trung tâm Nghiên cu Lâm sn ngoài gVit Nam và Trung tâm Cây ging cây  
nguyên liệu Tam Đảo, Quy trình nhân ging, trng và thu hái Sa nhân tím, 2017.  
[4] UBND tnh NghAn, Quyết định số 1187/QĐ-UBND phê duyt Quy hoch tng thể  
phát triển dược liu tnh Nghệ An đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, 2017.  
18  
Trường Đại học Vinh  
Tạp chí khoa học, Tập 49 - Số 4A/2020, tr. 12-19  
SUMMARY  
STUDY ON PLANTING Amomum longigulare T.L.Wu  
UNDER CANOPY OF NATURAL FOREST  
IN THE MOUNTAINOUS REGION OF NGHE AN  
Dao Thi Minh Chau (1), Nguyen Thuong Hai (2)  
1 School of Biochemical Technology - Environment, Vinh University  
2 Cua Lo Continuing Education Center, Nghe An Province  
Received on 16/9/2020, accepted for publication on 11/12/2020  
Amomum longiligulare is a valuable medicinal plant. Essential oils of A.  
longiligulare also widely used in the production of cosmetics. In the plan of Nghe An  
pharmaceutical development, A. longiligulare is one of three species groups proposed to  
be planted on an area of 100 hectares in mountain areas. However, in Nghe An, this  
species is distributed very few in the wild, difficult to develop into a pharmaceutical  
materials area. This study was conducted on a 1-ha model of A. longiligulare cultivation  
under the regenerated natural forest canopy in order to find out some suitable ecological  
conditions to recommend for the cultivation and development of the area of A.  
longiligulare under a natural forest canopy. The results show that A. longiligulare are  
suitable for planting under the canopy of natural forests, where canopy cover is 30% -  
50%, altitude 100 - 800m above sea level, rainfall 2,000 - 3,000mm/ year, humidity land  
over 17%. After 2 years the tree bears fruit, about 120kg of dried fruit/1 ha/crop.  
Keywords: Amomum longiligulare; ecological conditions; planting under forest  
canopy.  
19  
pdf 8 trang yennguyen 18/04/2022 1440
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu gây trồng cây sa nhân tím (Amomum longiligulare T. L.Wu) dưới tán rừng tự nhiên ở vùng miền núi Nghệ An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_gay_trong_cay_sa_nhan_tim_amomum_longiligulare_t.pdf