Giá chuyển nhượng - Những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý hiện nay

GIAÙ CHUYEÅN NHÖÔÏNG - NHÖÕNG VAÁN ÑEÀ  
ÑAËT RA TRONG COÂNG TAÙC QUAÛN LYÙ HIEÄN NAY  
HOÀNG THùY DƯƠNG*  
rong xu thế hội nhập, tăng cường giao lưu hợp tác quốc tế, Việt Nam là quốc gia thu hút  
nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (“FDI”) ngày càng  
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trong quá trình hoạt động kinh doanh,  
T
các công ty này thường thực hiện các GDLK đáng kể, bao gồm mua nguyên vật liệu, bán  
thành phẩm, trả phí dịch vụ, v.v. cho công ty mẹ và các bên liên kết khác là các công ty cùng tập đoàn. Vấn  
đề quản lý thuế với các doanh nghiệp có GDLK là một vấn đề trọng tâm của Chính phủ và các bộ ngành  
nhằm mục đích tránh thất thu thuế.  
Bài viết này sẽ tổng hợp cơ sở pháp lý về quản lý thuế với các doanh nghiệp có GDLK; phân tích thực  
trạng hoạt động kiểm soát GCN của Nhà nước trong các cuộc thanh tra, kiểm tra GCN tại doanh nghiệp;  
các biện pháp khác để quản lý vấn đề GCN trong GDLK và cuối cùng, đưa ra những đề xuất cho Cơ quan  
uế và doanh nghiệp Việt Nam, nhằm tạo ra một môi trường hoạt động kinh doanh minh bạch, lành  
mạnh, đem đến hiệu quả tối đa không chỉ đối với nguồn thu của Nhà nước mà còn đối với các công ty đã  
và sẽ có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam.  
Từ khóa: Giao dịch liên kết, giá chuyển nhượng  
Transfer price - the arise issues in current management (Dương)  
In the trend of international integration, Vietnam has become an attracting destination of foreign  
investment. FDI enterprises is playing an increasingly important role in the Vietnamese economy. In the  
course of their business operations, these companies typically carry out related party transactions, including  
the purchase of raw materials, semi-finished products, service fees, etc. For the parent corporations and other  
associated parties in the same multinational enterprises. e problem of tax administration with related party  
transactions of enterprises is a central issue of the Government and Ministries to avoid tax losses.  
is article synthesizes the legal basis for tax administration with enterprises with related party  
transactions; analyzes the status of transfer pricing control activities of the State during transfer pricing  
inspections enterprises; Other measures to manage transfer pricing issues in related party transactions and  
finally, makes recommendations to the tax authorities and Vietnamese businesses, to create a transparent,  
healthy business environment, bringing not only for state revenues but also for companies that have and will  
invest in Vietnam.  
key words: Related party transactions, transfer price  
1. Mở đầu  
v.v và chủ yếu đóng vai trò sản xuất hoặc gia công  
trong chuỗi giá trị của Tập đoàn. Trong quá trình  
hoạt động kinh doanh, các công ty này thường thực  
hiện các GDLK đáng kể, bao gồm mua nguyên vật  
liệu, bán thành phẩm, trả phí dịch vụ, v.v. cho công  
ty mẹ và các bên liên kết khác là các công ty cùng  
tập đoàn.  
eo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan,  
tổng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp  
FDI đạt 123,93 tỷ USD, chiếm 70% tổng kim ngạch  
xuất khẩu của cả nước năm 2016, tăng trưởng từ  
mức 37% trong năm 2006. Các doanh nghiệp FDI ở  
Việt Nam hầu hết là các công ty con của các công ty  
thuộc các Tập đoàn đa quốc gia đặt tại các quốc gia  
như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan  
Vấn đề quản lý thuế với các doanh nghiệp có  
GDLK là một vấn đề trọng tâm của Chính phủ và  
*FCPA, Phó Tổng Giám đốc, Dịch vụ Tư vấn thuế Quốc tế, KPMG Việt Nam  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 129 - tháng 7/2018 23  
QUAÛN LYÙ NHAØ NÖÔÙC VEÀ CHUYEÅN GIAÙ - THÖÏC TRAÏNG, THAÙCH THÖÙC VAØ VAI TROØ CUÛA KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC  
các bộ ngành nhằm mục đích tránh thất thu thuế.  
Trong những năm gần đây, Bộ Tài chính và Tổng  
cục uế đã đưa ra hành lang pháp lý để quản lý  
GCN, cũng như đẩy mạnh hoạt động thanh tra,  
kiểm tra vấn đề GCN tại doanh nghiệp. Về phía  
doanh nghiệp, các công ty phát sinh GDLK thường  
là doanh nghiệp FDI và các tập đoàn lớn tại Việt  
Nam có chuỗi giá trị phức tạp, doanh thu và chi  
phí tính thuế phụ thuộc nhiều vào các thỏa thuận  
giá trong GDLK giữa các công ty trong Tập đoàn.  
Việc chứng minh sự tuân thủ pháp luật về xác định  
GCN vì thế cũng gặp nhiều khó khăn và là một  
trong những rủi ro hàng đầu với các doanh nghiệp  
này. êm vào đó, Cơ quan uế và doanh nghiệp  
cũng chưa có quan điểm thống nhất về tuân thủ  
thuế đối với GCN, dẫn đến nhiều vướng mắc trong  
quá trình thanh tra, kiểm tra.  
và doanh nghiệp Việt Nam, nhằm tạo ra một môi  
trường hoạt động kinh doanh minh bạch, lành  
mạnh, đem đến hiệu quả tối đa không chỉ đối với  
nguồn thu của Nhà nước mà còn đối với các công  
ty đã và sẽ có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam.  
2. Cơ sở pháp lý về quản lý giá chuyển nhượng  
Quy định đầy đủ về vấn đề quản lý GCN được  
Bộ Tài chính ban hành lần đầu tiên với ông tư  
117/2005/TT-BTC vào ngày 19 tháng 12 năm 2005  
(“ông tư 117”) có hiệu lực từ năm 2006 đến năm  
2009, trong đó đưa ra định nghĩa về nguyên tắc  
GTT, cũng như những hướng dẫn về phương pháp  
xác định giá GDLK, phân tích so sánh và nghĩa vụ  
tuân thủ của doanh nghiệp có GDLK.  
ông tư 66/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính  
ban hành vào ngày 22 tháng 4 năm 2010 và có hiệu  
lực từ ngày 6 tháng 6 năm 2010 (“ông tư 66”)  
thay thế cho ông tư 117, đã quy định rõ hơn về  
việc áp dụng nguyên tắc giá thị trường.  
Bài viết này sẽ tổng hợp cơ sở pháp lý về quản  
lý thuế với các doanh nghiệp có GDLK, bao gồm  
quy định từ năm 1997 đến năm 2016 và Nghị định  
mới có hiệu lực từ năm 2017 đánh dấu sự nâng  
tầm hòa nhập của quy định pháp lý Việt Nam với  
thông lệ quốc tế. Tiếp theo đó, bài viết sẽ phân  
tích thực trạng hoạt động kiểm soát GCN của Nhà  
nước trong các cuộc thanh tra, kiểm tra GCN tại  
doanh nghiệp. Các biện pháp khác để quản lý vấn  
đề GCN trong GDLK, bao gồm thỏa thuận trước  
về phương pháp xác định giá và thủ tục thỏa thuận  
song phương, cũng sẽ được xem xét. Cuối cùng,  
bài viết sẽ đưa ra những đề xuất cho Cơ quan uế  
Năm 2017 đánh dấu một bước ngoặt lớn trong  
quy định về vấn đề xác định giá thị trường trong  
GDLK tại Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đã giao  
cho Bộ Tài chính đưa ra các chương trình cải cách  
thuế và cập nhật các quy định thuế hiện tại, có xem  
xét đến các chương trình hành động chống xói  
mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận ra nước  
ngoài (“BEPS”) theo khuyến nghị của Tchức Hợp  
tác và Phát triển Kinh tế (OECD).  
24 Số 129 - tháng 7/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
Kể từ tháng 7 năm 2013, OECD ban hành 15  
chương trình hành động chống xói mòn cơ sở thuế  
và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài (“BEPS”) được  
xác nhận bởi các quốc gia G20, nhằm xác định và  
hạn chế các kế hoạch thuế tích cực và hiện đại hóa  
hệ thống thuế quốc tế. Đặc biệt, chương trình hành  
động số 13 ban hành ngày 5 tháng 10 năm 2015  
đưa ra phương pháp tiếp cận ba tầng liên quan  
đến việc lập Hồ sơ xác định giá GDLK cùng với  
kế hoạch thực hiện nhằm khuyến nghị cho các Cơ  
quan uế các nước trên thế giới trong việc quản lý  
doanh nghiệp thực hiện GDLK. Nhiều quốc gia đã  
thông qua hoặc sẵn sàng áp dụng những thay đổi  
về hệ thống thuế quốc tế dựa trên các khuyến nghị  
của OECD.  
Người nộp thuế có trách nhiệm lập các Mẫu 01  
- Kê khai các thông tin về GDLK, Mẫu 02 - Danh  
sách thông tin, tài liệu trong Hồ sơ quốc gia, Mẫu  
03 - Danh sách thông tin, tài liệu trong Hồ sơ toàn  
cầu và Mẫu 04 - Báo cáo lợi nhuận liên quốc gia  
(“CbCR”). Các mẫu này được nộp cùng hồ sơ quyết  
toán thuế TNDN trong vòng 90 ngày kể từ ngày kết  
thúc năm tài chính.  
Bên cạnh đó, người nộp thuế cần lập và lưu giữ  
bộ Hồ sơ xác định giá GDLK gồm có: Hồ sơ thông  
tin tập đoàn toàn cầu; Hồ sơ quốc gia và Báo cáo lợi  
nhuận liên quốc gia (“CbCR”) nếu doanh nghiệp  
thuộc một trong hai trường hợp: Một là, người nộp  
thuế là công ty mẹ tối cao tại Việt Nam có doanh  
thu hợp nhất toàn cầu trong kỳ tính thuế trên 18  
nghìn tỷ đồng; Hai là, trường hợp công ty mẹ tối  
cao của người nộp thuế phải nộp CbCR ở nước sở  
tại. CbCR là một yêu cầu hoàn toàn mới với các  
doanh nghiệp có GDLK, phản ánh xu hướng thế  
giới hiện nay phải tăng cường quản lý xác định  
GCN, đấu tranh chống xói mòn cơ sở thuế và  
chuyển lợi nhuận (BEPS) của các công ty đa quốc  
gia thông qua xác định GCN trên cơ sở nhất thể  
hóa thông tin quản lý. Trong đó, Cơ quan uế cho  
phép người nộp thuế không phải nộp CbCR trường  
hợp công ty mẹ tối cao không phải nộp CbCR, với  
điều kiện doanh nghiệp phải gửi công văn giải  
trình rõ lý do cho Cơ quan uế.  
Trong bối cảnh đó, ngày 24 tháng 2 năm 2017,  
Chính phủ đã ban hành Nghị định 20/2017/NĐ-CP  
quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có  
GDLK (“Nghị định 20”) và ông tư 41/2017/  
TT-BTC (“ông tư 41”) hướng dẫn thực hiện  
một số điều của Nghị định 20 có hiệu lực từ ngày 1  
tháng 5 năm 2017. Đây là lần đầu tiên sau hơn 10  
năm, công tác quản lý vấn đề GCN đã được nâng  
tầm từ cấp độ ông tư lên cấp độ Nghị định, thể  
hiện sự quan tâm của Chính phủ Việt Nam, cũng  
như đòi hỏi có sự phối kết hợp của tất cả các bộ ban  
ngành trong vấn đề quản lý GCN.  
Nghị định 20 đã cân nhắc các chương trình  
hành động BEPS, bao gồm hành động số 4 - Hạn  
chế xói mòn cơ sở thu thuế thông qua việc các  
khoản lãi vay được trừ và các khoản thanh toán tài  
chính khác; hành động số 8 - Đảm bảo phân bổ  
GCN phù hợp với giá trị tạo ra - Tài sản vô hình;  
hành động số 9 - Đảm bảo phân bổ GCN phù hợp  
với giá trị tạo ra - Rủi ro và vốn; hành động số 10  
- Đảm bảo phân bổ GCN phù hợp với giá trị tạo  
ra - Các giao dịch có rủi ro cao; và hành động số  
13 - Xem xét lại hồ sơ xác định giá GDLK.  
Hồ sơ xác định giá GDLK bằng tiếng Việt được  
lập trước thời điểm kê khai quyết toán thuế TNDN  
hàng năm và phải lưu giữ, xuất trình theo yêu cầu  
cung cấp thông tin của Cơ quan uế. Trong quá  
trình tham vấn trước khi tiến hành thanh tra, thời  
hạn cung cấp Hồ sơ xác định giá GDLK là không  
quá 30 ngày làm việc kể từ khi nhận được văn bản  
yêu cầu của Cơ quan uế. Trường hợp người nộp  
thuế có lý do chính đáng thì thời hạn cung cấp Hồ  
sơ xác định giá GDLK được gia hạn 1 lần không  
quá 15 ngày làm việc, kể từ ngày hết hạn. Khi Cơ  
quan uế thực hiện thanh tra, kiểm tra người nộp  
thuế, thời hạn cung cấp Hồ sơ xác định giá GDLK  
không quá 15 ngày làm việc kể từ khi nhận được  
yêu cầu của Cơ quan uế.  
Dựa trên cơ sở áp dụng các kiến nghị của OECD  
và chương trình hành động BEPS, Nghị định 20 đã  
có nhiều điểm mới so với các quy định trước đây.  
ứ nhất, trách nhiệm cũng như nghĩa vụ tuân  
thủ của doanh nghiệp liên quan đến GCN có sự  
thay đổi đáng kể.  
ứ hai, lần đầu tiên thuật ngữ “nguyên tắc giao  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 129 - tháng 7/2018 25  
QUAÛN LYÙ NHAØ NÖÔÙC VEÀ CHUYEÅN GIAÙ - THÖÏC TRAÏNG, THAÙCH THÖÙC VAØ VAI TROØ CUÛA KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC  
dịch độc lập” được sử dụng thay thế cho cụm từ  
“giá thị trường. eo Nghị định 20, nguyên tắc  
giao dịch độc lập là nguyên tắc về việc đánh giá  
mức độ tương đương của các giao dịch liên kết  
(“GDLK”) với các giao dịch độc lập.  
ứ bảy, Nghị định 20 giải thích về việc sử dụng  
dữ liệu nội bộ và cơ sở dữ liệu (“CSDL) thương  
mại/được công bố đại chúng. eo đó, việc sử dụng  
đối tượng so sánh độc lập từ CSDL của Cơ quan  
uế chỉ được sử dụng cho mục đích đánh giá rủi  
ro. êm vào đó, trong quá trình thanh tra về GCN,  
nếu người nộp thuế không nộp Mẫu kê khai hoặc  
không xuất trình Hồ sơ xác định giá GDLK trong  
thời hạn quy định, Cơ quan uế sẽ có quyền tuyệt  
đối trong việc ấn định giá và/hoặc lợi nhuận của  
người nộp thuế dựa trên CSDL của Cơ quan uế.  
Về phía người nộp thuế, CSDL thương mại và các  
thông tin công bố công khai là những nguồn thông  
tin có thể sử dụng để xác định giá GDLK. Tuy  
nhiên, Nghị định chưa nêu rõ trường hợp CSDL  
thương mại và thông tin công bố công khai sẽ được  
ưu tiên sử dụng trong quá trình thanh tra về GCN;  
chỉ trong trường hợp người nộp thuế không đưa ra  
những phân tích đúng đắn từ các CSDL này hoặc  
không lưu giữ hồ sơ xác định giá GDLK thì Cơ  
quan uế mới sử dụng CSDL nội bộ để ấn định.  
ứ ba, Nghị định 20 cũng cân nhắc toàn bộ  
quá trình phát triển, gia tăng, duy trì, bảo vệ và khai  
thác tài sản vô hình. Như vậy, khi phân tích GCN  
đối với những GDLK đặc thù như giao dịch trả phí  
bản quyền, trả phí giấy phép, người nộp thuế cần  
đưa ra một phân tích đầy đủ về chức năng của mỗi  
công ty trong chuỗi giá trị tập đoàn.  
ứ tư, nguyên tắc “Bản chất quyết định hình  
thức” thể hiện việc phân tích xác định giá GDLK  
có thể vượt ra ngoài hình thức của giao dịch được  
thể hiện trong hợp đồng, văn bản nhằm mục đích  
xác định bản chất của các GDLK liên quan đến  
hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra giá trị cho  
doanh nghiệp. Đây là cơ sở để Cơ quan uế so  
sánh GDLK với các giao dịch độc lập trong điều  
kiện tương đồng, không phụ thuộc vào hình thức  
của giao dịch được thể hiện trong hợp đồng.  
Cuối cùng, song song với việc đưa ra quy định  
về nghĩa vụ tuân thủ của các doanh nghiệp có  
GDLK, Nghị định 20 và ông tư 41 đưa ra cơ sở rõ  
ràng hơn để Cơ quan uế thực hiện ấn định thuế.  
ứ năm, sửa đổi định nghĩa về các bên có  
quan hệ liên kết. Cụ thể, mối quan hệ liên kết trong  
trường hợp kiểm soát đầu vào và đầu ra được loại  
bỏ (cụ thể là một doanh nghiệp cung cấp trực tiếp  
hoặc gián tiếp trên 50% tổng giá trị nguyên vật liệu,  
vật tư hoặc sản phẩm đầu vào) bị loại bỏ.  
Nhìn chung, Nghị định 20 thể hiện sự hội nhập  
của pháp luật Việt Nam về quản lý GCN với thông  
lệ quốc tế, cũng như hiện đại hóa hệ thống quản lý  
thuế theo hướng rõ ràng, minh bạch hơn, tạo thuận  
lợi cho người nộp thuế trong quá trình tự tuân thủ,  
cũng như hạn chế thất thu thuế cho Nhà nước. Tuy  
nhiên, quy định mới cũng đưa ra yêu cần tuân thủ  
cho doanh nghiệp, cũng như đặt ra yêu cầu có sự  
hướng dẫn cụ thể hơn từ phía cơ quan thuế để tạo  
ra sự minh bạch, rõ ràng trong quá trình thực hiện  
của doanh nghiệp.  
ứ sáu, Nghị định 20 quy định về các GDLK  
không được khấu trừ thuế. Cụ thể, những GDLK  
không phù hợp với bản chất của các giao dịch độc  
lập sẽ được xem là chi phí không được trừ vào chi  
phí tính thuế trong kỳ.  
Ngoài ra, tổng chi phí lãi vay phát sinh trong  
kỳ của người nộp thuế nếu vượt quá 20% tổng  
lợi nhuận trước thuế chưa trừ khấu hao và lãi vay  
(EBITDA) của người nộp thuế sẽ không được xem  
là chi phí được trừ cho mục đích tính thuế TNDN.  
Đây là biện pháp để hạn chế tình trạng một số tập  
đoàn đa quốc gia góp vốn dưới hình thức cho vay  
để được hạch toán khấu trừ chi phí lãi vay, tập  
trung lãi vay vào các quốc gia có mức thuế TNDN  
cao để chuyển lợi nhuận sang các quốc gia khác.  
3. Hoạt động kiểm soát GCN của Nhà nước  
Bên cạnh việc xây dựng cơ sở pháp lý, trong  
những năm gần đây, Cơ quan uế đã dành nhiều  
nguồn lực vào hoạt động kiểm soát GCN của các  
doanh nghiệp có GDLK thông qua hoạt động  
thanh tra GCN. Hoạt động thanh tra GCN được  
thực hiện trong các cuộc thanh tra thuế hoặc thanh  
tra chuyên đề về GCN.  
26 Số 129 - tháng 7/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
Cơ quan uế đã triển khai rất nhiều nỗ lực và  
nguồn lực để thực thi và quản lý việc tuân thủ các  
quy định về quản lý GCN trong GDLK cả ở cấp  
trung ương và cấp địa phương, với việc thành lập  
các phòng thanh tra GCN chuyên trách. Tổng cục  
uế đã ban hành Quyết định số 1574/QĐ-TCT  
và số 1575/QĐ-TCT có hiệu lực từ ngày 1 tháng  
9 năm 2015 quy định chi tiết chức năng nhiệm vụ  
của Phòng thanh tra GCN thuộc anh tra Tổng  
cục uế, Cục uế các tỉnh, thành phố Hà Nội,  
Hồ Chí Minh, Bình Dương và Đồng Nai. Đây là  
bước phát triển đáng chú ý, đưa việc thanh tra  
GCN lên một giai đoạn mới.  
ông thường, đối tượng bị thanh tra GCN là  
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh  
nghiệp trong nước có GDLK, hoặc các doanh  
nghiệp chủ chốt trong ngành. Nhìn chung, có ba  
trường hợp thường bị thanh tra GCN.  
ứ nhất, các doanh nghiệp không tuân thủ các  
quy định về xác định GTT, ví dụ như không có đầy  
đủ hồ sơ tài liệu về xác định GTT, không nộp mẫu  
kê khai về GDLK đúng thời hạn. Đây sẽ là cơ sở  
để Cơ quan uế ấn định thuế đối với các doanh  
nghiệp này.  
ứ hai, các doanh nghiệp có kết quả kinh  
doanh không tốt, ví dụ như lỗ liên tục trong nhiều  
năm hay lợi nhuận rất thấp; lợi nhuận bị thay đổi  
đột ngột so với các năm hoạt động trước đây; lợi  
nhuận đột ngột giảm sau thời kì được hưởng ưu  
đãi thuế; tỷ suất lợi nhuận thấp hơn mức trung  
bình của ngành trong khi các bên này lại phát sinh  
giao dịch chủ yếu với bên liên kết. Đây là dấu hiệu  
để Cơ quan uế thanh tra, kiểm tra sự tuân thủ  
trong chính sách xác định giá GDLK của các doanh  
nghiệp này so với các doanh nghiệp cùng ngành  
trên thị trường.  
Về kết quả của các cuộc thanh tra, theo số liệu  
thống kê của Tổng cục uế, trong năm 2016, Cơ  
quan uế đã tiến hành thanh tra 84.472 công ty,  
truy thu 17.164 tỷ đồng tiền thuế. Trong đó, thanh  
tra GCN là 329 trường hợp, với số thuế bị truy thu  
và tiền phạt chậm nộp là 607,52 tỷ đồng, điều chỉnh  
giảm lỗ 5.612,21 tỷ đồng1. Hoạt động thanh tra  
của Cơ quan uế dự kiến sẽ mạnh mẽ hơn trong  
những năm tới, nhằm đạt được mục tiêu của kế  
hoạch tài khóa là giảm thâm hụt ngân sách xuống  
mức có thể chấp nhận (3,5% GDP vào năm 2020  
theo Kế hoạch tài chính quốc gia do Quốc hội phê  
duyệt theo Nghị quyết số 25/2016/QH14).  
ứ ba, những doanh nghiệp có mô hình hoạt  
động tập trung tại những thiên đường thuế hoặc  
lãnh thổ có thuế suất thấp hoặc các doanh nghiệp  
1Nguồn: ông tin tổng hợp, Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính (http://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/thanhtrabtc/r/m/page1/ttthttth1_  
chitiet?dDocName=MOFUCM095496&_afrLoop=21592434215182439#!%40%40%3F_afrLoop%3D21592434215182439%26dDocName%3DMOFUCM095496%26_  
adf.ctrl-state%3D12mmzgsrpd_4)  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 129 - tháng 7/2018 27  
QUAÛN LYÙ NHAØ NÖÔÙC VEÀ CHUYEÅN GIAÙ - THÖÏC TRAÏNG, THAÙCH THÖÙC VAØ VAI TROØ CUÛA KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC  
phát sinh các giao dịch đặc thù như giao dịch trả  
phí bản quyền, hỗ trợ kỹ thuật hay trả phí dịch  
vụ nội bộ tập đoàn cũng sẽ thuộc đối tượng bị Cơ  
quan uế thanh tra, kiểm tra.  
uế. Cơ quan uế cần công bố các thông tin  
minh bạch về các công ty, giao dịch được lựa chọn  
để phân tích so sánh. Tuy nhiên, khó khăn của Cơ  
quan uế là phải thực hiện bảo mật thông tin của  
người nộp thuế theo quy định của Luật Quản lý  
thuế. Việc CSDL thương mại chưa được Cơ quan  
uế sử dụng cũng gây ra những tranh cãi về sự  
nhất quán về thông tin, đặc biệt đối với các Đoàn  
thanh tra của Cục uế tại các địa phương.  
Trên thực tế, có nhiều vấn đề vướng mắc nảy  
sinh trong các cuộc thanh tra, kiểm tra GCN.  
ứ nhất, Cơ quan uế chưa có quy trình  
thanh kiểm tra chuyên biệt đối với thanh tra GCN,  
dẫn đến việc thực hiện không đồng nhất giữa  
các địa phương. Hơn nữa, do không có quy trình  
chuyên biệt nên hiện nay các cuộc thanh tra GCN  
được thực hiện theo quy trình thanh tra thuế trong  
Luật quản lý thuế, trong đó quy định về thời hạn  
thanh tra tối đa 30 ngày là không phù hợp với mức  
độ phức tạp trong các cuộc thanh tra GCN. eo  
thông lệ quốc tế, một số nước OECD đã đề xuất  
thời hạn thanh tra GCN kéo dài lên đến 90 ngày.  
êm vào đó, nguồn lực về chất lượng và số lượng  
của đội ngũ cán bộ quản lý GCN còn hạn chế. Về  
mặt số lượng, ngoài Tổng cục uế và bốn Cục  
uế lớn có phòng thanh tra GCN để đảm nhận  
chức năng thanh tra, các Cục uế khác hiện chưa  
bố trí nguồn lực chuyên môn để quản lý vấn đề  
này; nhiệm vụ này được thực hiện mang tính chất  
kiêm nhiệm tại các phòng thanh tra, kiểm tra do đó  
thiếu tính chuyên sâu và không thực sự hiệu quả.  
Về mặt chất lượng, mức độ hiểu biết của cán bộ  
thuế về GCN còn mới dừng ở cấp độ cơ bản, kiến  
thức về kinh tế ngành và quản lý GCN còn hạn chế,  
dẫn đến khó khăn trong việc phân tích hồ sơ xác  
định GCN trong công tác thanh tra, kiểm tra.  
Từ góc độ người nộp thuế, doanh nghiệp thường  
sử dụng các nguồn thông tin được công bố công  
khai hoặc các CSDL thương mại, trong đó phần lớn  
là sử dụng số liệu của các công ty nước ngoài, do số  
lượng các công ty niêm yết trên thị trường chứng  
khoán Việt Nam còn hạn chế. Tuy nhiên, trong giai  
đoạn từ 2012 đến 2015, cơ quan uế có xu hướng  
không chấp nhận các công ty tương đương được  
lựa chọn để so sánh là công ty nước ngoài trong Hồ  
sơ xác định GTT của doanh nghiệp cũng như nghi  
ngờ việc sử dụng CSDL thương mại. Đây là vấn đề  
gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc chứng  
minh sự tuân thủ với các quy định về quản lý GCN.  
Một thay đổi tích cực trong thời gian gần đây, đặc  
biệt là từ năm 2017, là cơ quan uế đã chấp nhận  
phân tích so sánh dựa trên CSDL thương mại trong  
trường hợp những phân tích này là chặt chẽ, khách  
quan. Điều này đã thể hiện tinh thần của Cơ quan  
uế trong việc công nhận CSDL thương mại, cũng  
như chứng minh vai trò của việc lập và lưu giữ Hồ  
sơ xác định GTT với doanh nghiệp.  
ứ ba, doanh nghiệp có thể thường gặp khó  
khăn trong việc chứng minh vai trò của các giao  
dịch liên quan đến tài sản vô hình và dịch vụ tới hoạt  
động sản xuất kinh doanh. Như đã đề cập ở trên, Cơ  
quan uế thường tập trung vào các giao dịch đặc  
thù, áp dụng nguyên tắc “Bản chất quyết định hình  
thức” qua đó không chấp nhận các GDLK do không  
phù hợp với nguyên tắc giao dịch độc lập hoặc  
không tạo ra lợi ích kinh kế và giá trị gia tăng trực  
tiếp cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.  
Ngoài ra, một vấn đề gây tranh cãi trong các cuộc  
thanh tra thời gian gần đây là mặc dù Nghị định 20  
có hiệu lực từ năm 2017, trên thực tế Cơ quan uế  
đã áp dụng nguyên tắc này cho cả các GDLK phát  
sinh trước thời điểm có hiệu lực của Nghị định 20.  
ứ hai, Cơ quan uế và doanh nghiệp cũng  
có những quan điểm không thống nhất về việc lựa  
chọn các đối tượng độc lập được lựa chọn để so  
sánh làm cơ sở xác định GCN.  
Từ góc độ Cơ quan uế, đoàn thanh tra sử dụng  
CSDL nội bộ để làm căn cứ ấn định thu nhập chịu  
thuế của doanh nghiệp, bao gồm các doanh nghiệp  
độc lập báo cáo theo chế độ quy định gửi cho Cơ  
quan uế, trong đó số lượng các công ty niêm yết  
công khai dữ liệu tài chính còn hạn chế. Vì thế, việc  
sử dụng dữ liệu này để ấn định, điều chỉnh thường  
không có cơ sở rõ ràng, làm giảm tính minh bạch,  
gây tranh cãi giữa người nộp thuế và Cơ quan uế  
trong quá trình thanh tra, kiểm tra của Cơ quan  
28 Số 129 - tháng 7/2018 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN  
ứ tư, với những doanh nghiệp hoạt động trong  
nhiều phân khúc, cách tiếp cận của Cơ quan uế  
trong việc ấn định điều chỉnh có thể rất linh hoạt.  
Cụ thể, Cơ quan uế có thể sử dụng dữ liệu giao  
dịch trên giao dịch hay số liệu theo phân khúc thay  
vì sử dụng số liệu trên toàn công ty cho mục đích  
điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận của người nộp thuế.  
Vấn đề vướng mắc trong việc sử dụng các số liệu  
này nằm ở tính hợp lý trong cách thức phân bổ chi  
phí giữa các giao dịch hoặc phân khúc. Trước đây,  
nguyên tắc phân bổ chi phí cho mục đích xác định  
giá GDLK không được quy định một cách rõ ràng, vì  
thế việc lựa chọn cách thức phân bổ là vấn đề nội bộ  
của từng doanh nghiệp, và các doanh nghiệp thường  
phân bổ theo doanh thu hoặc chi phí theo quy định  
tại Luật thuế TNDN. Tuy nhiên, Nghị định 20 đã tạo  
ra cơ sở thống nhất hơn cho các doanh nghiệp thông  
qua việc nêu rõ quy tắc phân bổ các loại chi phí này  
được xác định dựa trên doanh thu.  
thuế hoặc giữa Cơ quan uế với người nộp thuế  
và Cơ quan uế các nước, vùng lãnh thổ mà Việt  
Nam đã ký Hiệp định thuế cho một thời hạn nhất  
định, trong đó xác định cụ thể các căn cứ tính thuế,  
phương pháp xác định giá tính thuế hoặc giá tính  
thuế theo giá thị trường. APA được xác lập trước  
khi người nộp thuế nộp hồ sơ khai thuế TNDN.  
Các hình thức thỏa thuận APA bao gồm thỏa  
thuận APA đơn phương được đàm phán và ký kết  
giữa Cơ quan uế Việt Nam và người nộp thuế  
đứng đơn đề nghị áp dụng APA, và thỏa thuận APA  
song phương/đa phương được đàm phán và ký  
kết giữa Cơ quan uế Việt Nam, người nộp thuế  
và một hoặc nhiều Cơ quan uế đối tác có liên  
quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế của người  
nộp thuế đứng đơn đề nghị áp dụng APA trên cơ  
sở Hiệp định thuế.  
Hiện tại, có trên mười (10) trường hợp đang  
tiến hành đàm phán APA tại Việt Nam. Đa số  
những APA này đều là các thỏa thuận APA đơn  
phương. Các thỏa thuận này đang được tiến hành  
tại các bước tham vấn trước khi nộp hồ sơ, thẩm  
định hồ sơ, trao đổi và đàm phán.  
Cuối cùng, việc xác định sự tuân thủ các nguyên  
tắc về GCN của các doanh nghiệp chịu tác động  
của những yếu tố khách quan ngoài GCN đến hoạt  
động sản xuất kinh doanh còn nảy sinh những  
quan điểm không thống nhất, đặc biệt với các  
doanh nghiệp thường phát sinh lỗ trong những  
năm đầu hoạt động.  
Bên cạnh đó, vấn đề khiếu nại hành chính trong  
thanh tra GCN, thủ tục tư pháp và thủ tục thỏa thuận  
song phương (MAP) cũng được người nộp thuế và  
Cơ quan uế nhìn nhận như một biện pháp nhằm  
giải quyết vấn đề đánh thuế trùng liên quan đến điều  
chỉnh GCN trong GDLK. Bộ Tài chính đã ban hành  
Quy định về MAP thông qua ông tư 205/2013/  
TT-BTC có hiệu lực từ ngày 6 tháng 2 năm 2014.  
4. Các biện pháp khác để quản lý giá trong  
GDLk  
Những quy định mới về xác định GCN cùng với  
những vấn đề thực tiễn trong hoạt động thanh tra,  
kiểm tra đòi hỏi doanh nghiệp và Cơ quan uế  
cần có những biện pháp giải quyết trong việc tuân  
thủ với các quy định về GCN hiện hành. Luật Quản  
lý uế sửa đổi, có hiệu lực từ năm 2013, đưa ra  
những quy định liên quan đến Phương pháp thỏa  
thuận trước về phương pháp xác định giá (APA)  
và ủ tục thỏa thuận song phương (“MAP”) qua  
đó đem lại những biện pháp khác giúp Cơ quan  
uế và doanh nghiệp có thêm những lựa chọn để  
ứng phó với sự gia tăng của các vấn đề tranh chấp,  
khiếu nại liên quan đến GCN.  
Hiện tại, Việt Nam đã và đang giải quyết tất cả  
bảy (07) trường hợp về MAP, sáu (06) trong số đó  
đến từ Hàn Quốc và trường hợp còn lại đến từ Nhật  
Bản. Đa phần các trường hợp giải quyết thông qua  
MAP tập trung vào hai (02) điểm trọng tâm là vấn  
đề xác định cơ sở thường trú và kết quả giải quyết  
tranh chấp trong vấn đề GCN.  
Việt Nam đã chính thức tuyên bố thực hiện cam  
kết đối với bốn chuẩn mực BEPS tối thiểu sẽ tạo  
môi trường thuận lợi cho cả người nộp thuế và Cơ  
quan uế trong vấn đề đẩy mạnh các trường hợp  
liên quan đến MAP trên cả bình diện chiều rộng  
(số lượng) và chiều sâu (tính đa dạng của các vấn  
đề được đưa vào MAP).  
Quy định về APA được ban hành với ông  
tư 201/2013/TT-BTC của Bộ Tài Chính ngày 20  
tháng 12 năm 2013. ỏa thuận APA là thỏa thuận  
bằng văn bản giữa Cơ quan uế với người nộp  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 129 - tháng 7/2018 29  
pdf 7 trang yennguyen 18/04/2022 1000
Bạn đang xem tài liệu "Giá chuyển nhượng - Những vấn đề đặt ra trong công tác quản lý hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgia_chuyen_nhuong_nhung_van_de_dat_ra_trong_cong_tac_quan_ly.pdf