Đề tài Tổ chức lãnh thổ ngành nông nghiệp

LỜI NÓI ĐẦU  
Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp của phần lớn các  
nước đang phát triển và xu thế chuyển một phần lương thực sang sản xuất nhiên  
liệu sinh học, thức ăn gia súc sẽ đẩy nhanh nhu cầu về lương thực, thực phẩm, làm  
tăng giá các nông sản này trong tương lai. Thêm vào đó, sự tăng trưởng kinh tế trên  
thế giới nói chung sẽ đẩy mạnh nhu cầu về các mặt hàng nguyên liệu phục vụ công  
nghiệp khác như cao su, gỗ... cũng như các mặt hàng nông sản thực phẩm. Mặt  
khác, biến đổi khí hậu, các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt bất thường sẽ dẫn đến  
sụt giảm sản lượng lương thực, đe dọa an ninh lương thực toàn cầu.  
Nông nghiệp hiện nay vẫn là ngành kinh tế cơ bản của Việt Nam với hơn 68%  
dân số sống ở khu vực nông thôn, lao động nông nghiệp chiếm hơn 47% lao động  
hội và giá trị tăng thêm của ngành nông nghiệp vẫn chiếm gần 20% tổng sản  
phẩm trong nước. vậy, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa là  
một trong những mục tiêu cơ bản nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa  
nền kinh tế Việt Nam.  
Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các hình thức tổ chức lãnh thổ  
nông nghiệp ở Việt Nam hình thành và phát triển góp phần thúc đẩy nông nghiệp  
Việt Nam phát triển theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa. Trong các hình  
thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở Việt Nam, một số hình thức đang phát triển và  
đạt hiệu quả cao như các trang trại, các vùng chuyên canh; một số hình thức mới  
hình thành và phát triển như khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng nông nghiệp;  
một số hình thức đang trong quá trình chuyển đổi để phù hợp hơn với nền kinh tế  
thị trường như hợp tác xã nông nghiệp, nông trường quốc doanh,…  
Trong bài điều kiện về Tổ chức lãnh thổ ngành nông nghiệp chúng em đã tìm  
hiểu một cách khái quát về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp: quan niệm, các nhân tố  
ảnh hưởng, các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp trên thế giới ở Việt  
Nam.  
Bài điều kiện được trình bày theo cấu trúc gồm 3 chương:  
Chương 1. Cơ sở luận về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp  
Chương 2. Các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp  
Chương 3: Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở Việt Nam  
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chúng em đã tham khảo kế thừa số liệu, tư  
liệu từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau cũng như nhận được nhiều nhận xét, góp ý  
quý báu của các thành viên trong lớp, đặc biệt sự góp ý, hướng dẫn của GS.TS  
Lê Thông. Nhóm chúng em xin trân trọng cảm ơn và mong được sự đóng góp  
nhiều hơn nữa để bài tập của chúng em được hoàn thiện hơn.  
1
MỤC LỤC  
2
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………..84  
3
CHƯƠNG I:  
CƠ SỞ LUẬN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG NGHIỆP  
I - TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ - XÃ HỘI.  
1. Một số thuyết về tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội  
Khái niệm tổ chức lãnh thổ (territorial organization) hay còn gọi tổ chức  
không gian (spatial organization) được sử dụng khi đề cập đến vấn đề tổ chức lãnh  
thổ cả theo chiều thẳng đứng chiều ngang. Khái niệm tổ chức lãnh thổ đã được  
dùng các nước phương Tây từ cuối thế kỉ XIX, được phát triển về mặt luận  
thông qua các lí thuyết về tổ chức lãnh thổ.  
1.1. Lí thuyết khu vị luận công nghiệp của A.Weber  
Mô hình tổ chức không gian công nghiệp ra đời trong thế kỉ XIX, được  
A.Weber là một đại diện tiêu biểu đưa lên thành lí thuyết "Khu vị luận công  
nghiệp". Tư tưởng chủ đạo của ông là coi thành phố những nút hay trọng điểm  
lãnh thổ. Sức lan tỏa ảnh hưởng của rất lớn. Xung quanh thành phố (nút) là các  
vành đai với các chức năng khác nhau, nhưng đều phục vụ cho một trung tâm. Lý  
thuyết này phù hợp với một nền kinh tế mà quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa  
chưa mạnh và có ý nghĩa trong việc xác định vai trò của trung tâm ở những khu  
vực nền kinh tế còn chậm phát triển.  
1.2. Lí thuyết phát triển các điểm trung tâm của W.Christaller  
Vào đầu những năm 1930, W.Christaller (Mỹ) đã đưa ra lí thuyết phát triển  
các điểm trung tâm (1933). W.Christaller đã góp phần to lớn vào việc tìm ra quy  
luật phát triển của toàn bộ hoạt động sản xuất vật chất và phi sản xuất theo không  
gian, là ý tưởng cho việc nghiên cứu tổ chức không gian kinh tế - xã hội sau này.  
Christaller cho rằng, không có nông thôn nào lại không chịu sự tác động của  
một cực hút, đó là thành phố.Thành phố là trung tâm đối vớitất cả các điểm dân cư  
còn lại trong vùng, đảm bảo cung cấp hàng hóa cho chúng. Các trung tâm tồn tại  
theo nhiều cấp, từ thấp đến cao. Các trung tâm cấp cao có khả năng lựa chọn hàng  
hóa và dịch vụ.Ông cho rằng, thành phố có vai trò như những cực phát triển và là  
hạt nhân cho sự phát triển.Nó trở thành đối tượng để đầu tư, trên cơ sở sức hút và  
mức độ ảnh hưởng đến các vùng xung quanh thông qua bán kính tiêu thụ các sản  
phẩm.  
thuyết trung tâm của W.Christaller đã được nhà bác học người Đức -  
A.Losch bổ sung và phát triển. Công lao của W.Christaller và A.Losch ở chỗ đã  
khám phá quy luật phân bố không gian từ tương quan giữa các điểm dân cư, phát  
hiện một trật tự được tính toán trong sự phân bố các thành phố và nông thôn. Điều  
đó được áp dụng khi quy hoạch các điểm dân trên những lãnh thổ mới khai phá,  
hoặc nghiên cứu các hệ thống không gian, hay làm cơ sở xác định các nút trọng  
điểm trong một lãnh thổ nhất định.  
1.3. Lí thuyết cực tăng trưởng của Francoi Perroux (1950)  
1
       
thuyết cực tăng trưởng của nhà kinh tế học người Pháp Francoi Perroux  
được đưa ra vào đầu những năm 1950. Ông quan niệm, một vùng không thể phát  
triển kinh tế đều đặn ở tất cả các điểm trên lãnh thổ vào cùng một thời gian. Xu  
hướng chung là có một hoặc một vài điểm phát triển mạnh nhất, trong khi đó các  
điểm khác lại chậm phát triển hay bị trì trệ. Tất nhiên, các điểm phát triển nhanh là  
các điểm lợi thế so với toàn vùng. Như vậy, thuyết cực phát triển chú ý đến  
những thay đổi trong phạm vi một khu vực của lãnh thổ làm phát sinh tăng trưởng  
kinh tế.  
thuyết cực tăng trưởng được áp dụng tương đối rộng rãi châu Á, nhất là  
các nước ASEAN. Nhiều kinh nghiệm đã được tích lũy và có giá trị đối với các  
quốc gia cần huy động vốn đầu tư từ nước ngoài. Đây cũng là lí thuyết giải thích  
sự cần thiết của việc phát triển kinh tế lãnh thổ theo hướng phát triển trọng  
điểm.  
2. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội  
Vấn đề tổ chức lãnh thổ hay tổ chức không gian các hoạt động của con  
người, trước hết hoạt động kinh tế, bắt nguồn từ những cơ sở thuyết kinh tế  
của Adam Smith và David Ricardo, từ các công trình nghiên cứu của Thunen vào  
1826, của Weber vào 1909 và một số tác phẩm khác, sau đó được phát triển về mặt  
luận ứng dụng thực tiễn vào những năm 50 của thế kỉ XX tại các nước Châu  
Âu, Liên Xô (cũ) Mỹ.  
Liên Xô (cũ) tổ chức lãnh thổ được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu  
của địa đã được nêu lần đầu tiên vào năm 1961 bởi Iu.G.Xauskin “lĩnh vực thực  
tiễn trực tiếp để tập trung nỗ lực của các nhà địa lí Xô Viết tổ chức lãnh thổ lực  
lượng sản xuất (ở đây bao gồm cả sơ đồ lãnh thổ và các dự án cải tạo sử dụng  
các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên)”. Những quan niệm về tổ chức  
lãnh thổ công nghiệp được trình bày trong các công trình của A.T.Khrutsov (1966,  
1969, 1972).Thuật ngữ “tổ chức lãnh thổ sản xuất” được đưa vào trong các nghiên  
cứu của A.E.Probxt và M.G.Skolnicov vào giữa thập k60 của thế kỉ XX.  
Vào đầu thập kỉ 70, quan niệm về tổ chức không gian xuất hiện được đưa  
vào các công trình của các nhà địa lí Xô Viết. Nhưng thể thấy rằng sợi dây  
xuyên suốt trong các nghiên cứu theo hướng này trong mấy thập kỉ qua là tổ chức  
lãnh thổ lực lượng sản xuất (từ tổ chức lãnh thổ sử dụng tự nhiên, tổ chức lãnh thổ  
các ngành kinh tế đến tổ chức không gian trú nông thôn đô thị,...)  
Các nhà khoa học Liên Xô (cũ) trước đây thường sử dụng khái niệm “phân  
bố lực lượng sản xuất”, nghĩa là phân bố sức sản xuất theo lãnh thổ. Nền tảng cơ sở  
luận của phân bố lực lượng sản xuất được bắt nguồn từ thuyết về chu trình  
năng lượng - sản xuất của N.N.Koloxopxki và thể tổng hợp lãnh thổ sản xuất của  
các nhà khoa học Viết. Theo họ, phân bố lực lượng sản xuất được thực hiện  
trên các lãnh thổ cụ thể ở những cấp độ khác nhau, phổ biến là trên các vùng kinh  
tế cơ bản và vùng kinh tế hành chínhtỉnh. Họ coi phân bố lực lượng sản xuất sự  
2
 
sắp xếp, btrí và phối hợp các đối tượng hay thực thể vật chất cụ thể, hay đó là các  
hệ thống sản xuất, hệ thống tự nhiên đã được sử dụng vào hệ thống dân cư. Các đối  
tượng này ảnh hưởng lẫn nhau, có liên hệ qua lại với nhau trong một lãnh thổ xác  
định, nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, cơ sở vật chất kĩ thuật  
của lãnh thổ để đạt hiệu quả kinh tế, hội, môi trường và nâng cao mức sống dân  
cư của lãnh thổ đó.  
Sách của E.B.Alaev "Địa lý kinh tế - xã hội", (1983), đã đưa ra nhận thức  
chung của các nhà địa lý Liên Xô về định nghĩa tổ chức lãnh thổ: "Khái niệm tổ  
chức lãnh thổ hội trong nghĩa rộng của từ này bao gồm các vấn đề liên quan  
đến phân công lao động theo lãnh thổ, phân bố các lực lượng sản xuất, các sự  
khác biệt về vùng trong quan hệ sản xuất, mối quan hệ tương hỗ giữa hội và  
thiên nhiên, cũng như các vấn đề chính sách vùng về kinh tế - xã hội. Ở một nghĩa  
hẹp hơn, nó bao gồm các phạm trù như tổ chức lãnh thổ - hành chính của Nhà  
nước, quản lý vùng về sản xuất, sự hình thành các thành tạo lãnh thổ về tổ chức -  
kinh tế, sự xác định các khách thể vùng của quản lý, sự phân vùng về kinh tế- xã  
hội..."  
Các nhà khoa học Viết sau này phát triển phân bố lực lượng sản xuất  
theo hướng tổ chức lãnh thổ. Theo Xauskin: Tổ chức hội theo lãnh thổ tạo ra  
một hệ thống sử dụng đất đai do những tập đoàn người khác nhau. Hệ thống này  
làm cho các tập đoàn người ấy thể cư trú được trên bề mặt trái đất, khai thác các  
tài nguyên thiên nhiên, phân bố các điểm dân cư, tái sinh sản nòi giống, phân bố  
các nguồn cung cấp nước thực phẩm, các địa điểm sản xuất ra các công cụ lao  
động, quần áo, giày dép và các vật liệu khác cần thiết cho đời sống, phân bố xí  
nghiệp và khu vực chữa bệnh, nghỉ ngơi, khoa học, văn hóa, các nhà hát, rạp chiếu  
phim,...  
Các nhà khoa học phương Tây lại thường sử dụng thuật ngữ “tổ chức không  
gian kinh tế - xã hội”. Khái niệm tổ chức không gian ra đời cuối thế kỉ XIX và đã  
phát triển thành một khoa học về “thiết lập” trật tự kinh tế, hội, môi trường  
trong phạm vi một lãnh thổ xác định.  
Quan niệm về tổ chức không gian (tổ chức lãnh thổ) cũng được coi trọng  
trong địa vào 1970 – 1971.Ở Mĩ có các công trình lớn của R.Abler, J.Adams,  
P.Gould “tổ chức không gian, cách nhìn thế giới của các nhà địa lí” và của  
R.Morill “Tổ chức không gian xã hội”.  
Anh, các quan niệm về tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội được phát triển  
theo hướng mô hình hóa, áp dụng các phương pháp định lượng. thể thấy tiêu  
biểu trong các công trình của Peter Haggett và các cộng sự “Phân tích không gian  
trong địa lí kinh tế” xuất bản năm 1965, “các mô hình địa lí” xuất bản năm 1967 và  
“Địa học: một sự tổng hợp hiện đại” xuất bản năm 1975.  
Theo Morrille (1970): Tổ chức không gian là khái niệm của loài người về sử  
dụng hiệu quả không gian trên trái đất. Nhiều tác giả Pháp nhưP.Brunet,  
3
J.Monod, P.de Castelbazac (1980), Jean Paulde Gaudemar (1992),...cho rằng: tổ  
chức không gian là sự tìm kiếm một sự phân bố tối ưu về vùng, các hoạt động và  
tài sản để tránh những sự mất cân đối trên lãnh thổ quốc gia hay một vùng.  
Quan niệm về tổ chức lãnh thổ những chuyển biến mới hơn từ những  
năm 1990 đến nay với những nghiên cứu của Paul Krugman, các Báo cáo phát  
triển thế giới,.... Paul Krugman (nhà kinh tế học người Mỹ) người đề xuất lí  
thuyết sau này được gọi tên là “địa lí kinh tế mới” (1991). Krugman phát triển lí  
thuyết về sự lựa chọn địa điểm của lao động và hãng kinh doanh, trong đó cốt lõi là  
hiệu quả kinh tế của quy mô lớn2.  
Theo Paul Krugman (1991): sản xuất có xu hướng tập trung vào những nơi  
“trung tâm” đông đúc dân vốn. Để phát triển nền kinh tế giảm thiểu chi  
phí vận chuyển, các công ty sản xuất có xu hướng tập trung vào những khu vực  
trung tâm vì tận dụng được lợi thế nhờ quy mô.Việc này sẽ dẫn đến dân cư sẽ càng  
di chuyển tới những “trung tâm” này.Sự hạn chế của tập trung hóa chính là chi  
phí vận chuyển.Chi phí vận chuyển tới người tiêu dùng sẽ cao nếu như các hãng  
tập trung hóa ở một khu vực nhất định trong quốc gia. Do đó, quyết định lựa chọn  
địa điểm sản xuất của các hãng phụ thuộc vào tương quan giữa việc tận dụng lợi  
thế quy mô và tiết kiệm chi phí vận chuyển. Giảm chi phí vận chuyển sẽ dẫn tới  
quá trình tập trung hóa và đô thị hóa2.  
Trong Báo cáo phát triển thế giới 2009 “Tái định dạng địa kinh tế” đã giải  
thích sự tăng trưởng kinh tế thể diễn ra không đồng đều, nhưng sự phát triển vẫn  
thể mang tính hòa nhập. Khi các nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất sẽ tập trung  
cao hơn theo không gian. Đây cũng những thuyết giải thích cho sự tập trung  
hóa và đô thị hóa các quốc gia. Báo cáo phát triển thế giới năm 2009 cho rằng:  
Các địa phương phát triển tốt nếu chúngthúc đẩy sự chuyển đổi của các khía cạnh  
địa kinh tế: mật đdày hơn khi các thành phố phát triển, khoảng cách ngắn hơn khi  
công nhân và doanh nghiệp di chuyển đến gần khu trung tâm hơn và có ít sự chia  
cắt hơn khi các quốc gia giảm bớt các biên giới kinh tế tiến vào thị trường thế  
giới để tận dụng quy mô kinh tế và buôn bán các sản phẩm chuyên biệt. Sự chuyển  
đổi của 3 khía cạnh địa kinh tế này (mật độ, khoảng cách và sự chia cắt) là then  
chốt cho sự phát triển. Như vậy, phát triển kinh tế sẽ tập trung cao hơn theo không  
gian, nhưng phát triển vẫn thể mang tính hòa nhập mang lại cho người dân mức  
sống đồng đều hơn giữa các vùng với các chính sách phù hợp đối với mỗi quốc gia.  
Ở Việt Nam, lí luận về tổ chức lãnh thổ như một trong những nội dung  
nghiên cứu cơ bản của địa học được đưa vào khá sớm, từ những năm 1970. Công  
việc này thu hút nhiều công sức đóng góp của các nhà địa lí, các nhà kinh tế vùng  
của các nhà kế hoạch cũng như các Bộ, ngành. Trong nhiều năm, hướng nghiên  
cứu được thể hiện qua việc lập tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất của từng  
ngành và của các cấp lãnh thổ trong cả nước. Kết tinh của các nghiên cứu theo  
hướng này là các công trình 70.01, lập Tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng  
4
sản xuất Việt Nam thời kì 1986– 2000 (tổng sơ đồ I) và chuẩn bị nội dung cho  
Tổng sơ đồ II (giai đoạn 1991 – 2005); “Dự thảo đề cương báo cáo tổng kết công  
tác phân vùng quy hoạch và phân bố lực lượng sản xuất cả nước trong 5 năm qua  
phương hướng, nhiệm vụ trong những năm tới”.  
Tổ chức lãnh thổ được coi trọng bằng những cách nhìn mới nhằm mục tiêu  
phát triển bền vững, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính sách phát  
triển vùng, đảm bảo sự công bằng hội ngay cả trong việc giảm sự chênh lệch  
giữa các đồng bằng, giảm sự phân hóa giàu nghèo. Các kết quả nghiên cứu liên  
ngành dưới sự chỉ đạo của Nhà nước được thể hiện ở việc lập các bản đồ quy  
hoạch tổng thể phát triển các ngành và các vùng lãnh thổ lớn như tổ chức lãnh thổ  
quốc gia Việt Nam và mô hình không gian của Việt Nam. Những nhiệm vụ chính  
của tổ chức lãnh thổ là phân bổ lạinguồn vốn và tài sản quốc gia, sửa chữa lại sự  
mất cân đối giữa các vùng, sử dụng hợp nhất các điều kiện tự nhiên và kinh tế -  
hội giải quyết công ăn việc làm...  
Đi đầu trong nghiên cứu tổ chức lãnh thổ là GS. Lê Bá Thảo. Trong báo cáo  
“Địa học Việt Nam và thử nghiệm tổ chức lãnh thổ”, Ông cho rằng: Về khía  
cạnh địa lí, có thể coi tổ chức lãnh thổ một hành động của địa học chủ ý  
(géographie volontaire) hướng tới một sự công bằng về mặt không gian.  
Như vậy, tổ chức không gian kinh tế - xã hội được xem như nghệ thuật kiến  
thiết sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn và có hiệu quả. Nhiệm vụ chủ yếu của  
tổ chức không gian là xác định được sức chứa của lãnh thổ, tìm kiếm quan hệ tỉ lệ  
hợp lí và liên hệ chặt chẽ trong phát triển kinh tế - xã hội giữa các ngành và giữa  
các lãnh thổ nhỏ hay tiểu vùng trong một vùng cũng như đảm bảo mối quan hệ  
giữa các vùng trong một quốc gia có tính tới mối quan hệ giữa các quốc gia với  
nhau. Nhờ sự sắp xếp trật tự và hài hòa giữa các đối tượng trong lãnh thổ mà  
tạo ra một giá trị mới lớn hơn, làm cho sự phát triển hài hòa và bền vững hơn. Tổ  
chức không gian kinh tế - xã hội dưới góc độ chính sách, xem như một trong  
những hành động hướng tới sự công bằng về mặt không gian, tối ưu hóa các mối  
quan hệ hữu cơ giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực với nhau và giữa các cực  
với các không gian còn lại, nhằm làm cho lãnh thổ phát triển bền vững, tạo được sự  
ổn định cần thiết để thiết lập tiền đề cho tăng trưởng, cho phát triển.  
Từ những quan niệm trên có thể hiểu "Tổ chức không gian kinh tế-xã hội là  
sự "sắp xếp" "phối hợp" các đối tượng trong mối liên hệ liên ngành, liên vùng  
nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lí kinh  
tế, chính trị cơ sở vật chất kĩ thuật đã sẽ được tạo dựng để đem lại hiệu quả  
kinh tế - xã hội cao và nâng cao mức sống, đảm bảo sự phát triển bền vững của  
một lãnh thổ".  
Tổ chức lãnh thổ "sự tìm kiếm trong khung cảnh địa quốc gia, sự phân  
bố tốt nhất vùng và các hoạt động tùy thuộc vào các tài nguyên tự nhiên".  
5
Tổ chức lãnh thổ một chính sách kinh tế dài hạn nhằm cải thiện môi  
trường trong đó diễn ra cuộc sống và các hoạt động của con người.  
- Tổ chức lãnh thổ một hành động của địa học chủ ý hướng tới một  
sự công bằng về mặt không gian giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực, và các  
không gian ảnh hưởng, nhằm giải quyết ổn định công ăn việc làm, cân đối giữa  
quần cƣ nông thôn và quần cư thành thị, bảo vmôi trường sống.  
- Các nút, các cực là: thành phố, thị trấn, làng xóm là những điểm trồi,  
những nơi tập trung dân cư, các cơ sở công nghiệp chế biến, cơ sở dịch vụ - kỹ  
thuật. Đó là các trung tâm dân kinh tế, đặc trưng bởi độ "đông đặc" hay mật độ  
dân số, mật đxây dựng tương đối cao.  
- Với cách nhìn của tổ chức lãnh thổ thì lãnh thổ một hệ thống trong đó có  
các cực, dải và không gian bề mặt, 3 yếu tố này có quan hệ, sức hút, lan tỏa và  
ảnh hƣởng lẫn nhau.  
- Sự khác nhau giữa các nút: thường thì các nút (cực) đa chức năng hay khác  
nhau vềsố lượng các chức năng, thang bậc các trình độ cao hay thấp, tính phức tạp  
nhiều hay ít, ý nghĩa lớn hay nhỏ, phạm vi ảnh hưởng rộng hay hẹp. Các mốc cũng  
khác nhau về tiềm năng phát triển.  
- Giữa các trung tâm, các nút có những liên hệ chức năng: chúng trao đổi  
hoạt động, biểu hiện qua các dòng người, dòng sản phẩm, dòng dịch vụ, dòng tiền  
tệ và dòng thông tin. Các nút, các dải nằm trong một mạng lưới, mà các chỗ hổng  
được lấp đầy, bằng những bề mặt, với tất cả hoạt động diễn ra ở đó, trong một hệ  
thống các quan hệ chức năng có thang bậc, tạo thành một hệ thống tổ chức không  
gian.  
Tổ chức không gian kinh tế - xã hội gồm nhiều thành phần liên kết chặt chẽ  
với nhau. Phân theo ngành, tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội gồm: tổ chức lãnh thổ  
công nghiệp, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tổ chức lãnh thổ dịch vụ. Phân theo  
không gian, tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội gồm các đô thị, các trung tâm kinh tế,  
các tuyến lực,…và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp một trong những hình thức của  
tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội.  
II. QUAN NIỆM, NGUYÊN TẮC VÀ Ý NGHĨA CỦA TỔ CHỨC LÃNH  
THỔ NÔNG NGHIỆP  
1. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp  
1.1. Các quan niệm về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp trên thế giới Việt Nam  
Vấn đề tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đã sức thu hút mãnh mẽ sự chú ý  
của nhiều nhà khoa học. Người đầu tiên đưa ra ý tưởng về tổ chức lãnh thổ nông  
nghiệp là nhà khoa học người Đức J.H.Von Thunen (1783 - 1850). Đầu những năm  
1800, Ông đã đề xuất "lí thuyết vành đai giữa trung tâm và ngoại vi". Dựa trên các  
kết quả tính toán của mình, Thunen kết luận rằng trồng trọt chỉ đem lại lợi nhuận ở  
một khoảng cách nào đó tính từ thành phố.Nếu vùng sản xuất ở quá xa trung tâm  
thành phố thì chi phí vận chuyển sẽ rất cao, hay quá gần trung tâm đô thị thì giá  
6
   
địa tô chênh lệch cũng rất lớn. Cả hai trường hợp trên đều không thu được lợi  
nhuận tối đa. Một sản phẩm nông nghiệp thu được lợi nhuận tối đa sẽ một  
khoảng cách tương ứng nhất định với nơi tiêu thụ. Khi chi phí vận chuyển biến  
thiên, trên vùng sản xuất nông nghiệp sẽ xuất hiện các vành đai sản xuất. Theo  
ông, xung quanh một thành phố trung tâm (với giả thiết là hoàn toàn cô lập với các  
trung tâm khác) có thể tồn tại và phát triển 5 vành đai sản xuất chuyên môn hóa  
nông nghiệp theo nghĩa rộng liên tục từ trong ra ngoài, gồm: vành đai 1 là thực  
phẩm tươi sống; vành đai 2 là lương thực, thực phẩm; vành đai 3 là vành cây ăn  
quả; vành đai 4 là vành lương thực chăn nuôi; vành đai 5 là vành lâm nghiệp.  
Tùy theođiều kiện cụ thể về điều kiện tự nhiên, tập quán sản xuất của cư dân và  
quymô của thành phố trung tâm mà xác định số lượng vành đai, cũng nbán kính  
của mỗi vành đai nông nghiệp.  
Mô hình 5 vành đai nông nghiệp thể hiện bước đầu về ý tưởng tổ chức lãnh  
thổ. Tuy nhiên, vành đai nông nghiệp theo lí thuyết của Thunen cũng bộc lộ hạn  
chế. Đó là các vành đai nông nghiệp này mới chỉ được nghiên cứu trong sự tương  
tác giữa hai nơi ở cùng một thời điểm, mà trên thực tế rất nhiều trung tâm cùng  
tồn tại và chúng đều những tác động khác nhau lên sự xuất hiện của các vành  
đai nông nghiệp.  
Trong trường phái địa lí Xô Viết, Nhà địa lí N.N.Kôlôxôpxki đưa ra lí thuyết  
chu trình năng lượng - sản xuất (năm 1947). Lí thuyết này cũng khẳng định tính  
liên tục giữa các khâu trong quá trình sản xuất khép kín để giải pháp phân bố  
chúng. Từ khai thác nguyên liệu ban đầu, nhiên liệu việc sử dụng các nguồn  
năng lượng khác để sơ chế nguyên liệu sản xuất ra bán thành phẩm và các chi tiết,  
đến sản xuất thành phẩm dưới dạng tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, đến tiến bộ  
khoa học kĩ thuật giao thông vận tải, thương nghiệp phục vụ sự tiêu dùng của dân  
cư. Từ đó, xuất hiện những nhu cầu khả năng mới liên quan ảnh hưởng tới tự  
nhiên, tới việc sử dụng các nguồn tài nguyên.  
Chu trình năng lượng sản xuất của N.N.Kôlôxôpxki đã nêu một phương  
pháp nghiên cứu liên ngành có hiệu quả, cho phép nghiên cứu vùng một cách đầy  
đủ và toàn diện hơn. Thực tiễn phân bố sản xuất trên thế giới ở Việt Nam trong  
những năm trước đây đã phần nào khẳng định ý nghĩa luận thực tiễn quan  
trọng của thuyết chu trình năng lượng - sản xuất. Trong lí thuyết này, khái niệm  
thể tổng hợp nông nghiệp được xem như một hình thức tổ chức lãnh thổ nông  
nghiệp.  
Một trong những chuyên gia Xô Viết hàng đầu nghiên cứu về tổ chức lãnh  
thổ sản xuất nông nghiệp là giáo sư tiến sĩ địa lí K.I.Ivanov. Trong luận án tiến sĩ  
với đề tài "Tổ chức lãnh thổ sản xuất các sản phẩm nông nghiệp việc tính toán  
điều kiện của địa phương" (1967), ông đãphát triển tư tưởng của N.N.Kôlôxôvxki  
về các thể tổng hợp lãnh thổ sản xuất đưa nó vào lĩnh vực nông nghiệp. Về  
phương diện thuyết, K.I.Ivanov xây dựng cơ sở cho phương pháp dòng (băng  
7
chuyền) trong việc tổ chức sản xuất của nhiều phân ngành nông nghiệp.Nhiều tư  
tưởng và quan niệm mới của ông đã được ứng dụng trong lĩnh vực lập mô hình các  
hệ thống lãnh thổ.  
Qua các công trình của K.I.Ivanov, của V.G.Kriutokov và một số tác giả  
khác thì: “Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu một hệ thống liên kết không  
gian của các ngành, các xí nghiệp nông nghiệp và các lãnh thổ dựa trên cơ sở các  
quy trình kĩ thuật mới nhất, chuyên môn hoá, tập trung hoá, liên hợp hoá và hợp  
tác hoá sản xuất; cho phép sử dụng hiệu quả nhất sự khác nhau theo lãnh thổ về  
các điều kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao động đảm bảo năng suất lao động xã  
hội cao nhất”.  
Vấn đề tổ chức lãnh thổ nông nghiệp ở nước ta cũng được nhà khoa học  
quan tâm. Tác giả Lê Thông đã có cùng quan điểm về tổ chức lãnh thổ nông  
nghiệp với các nhà địa lí Nga, trong đó đã đưa ra các hình thức tổ chức lãnh thổ  
nông nghiệp từ thấp đến cao, đó là xí nghiệp nông nghiệp, thể tổng hợp nông  
nghiệp, vùng nông nghiệp, băng chuyền địa lí trong nông nghiệp.... Các nội dung  
này cũng được đề cập đến trong “Địa lí kinh tế - xã hội đại cương”, “Địa lí kinh tế  
- xã hội Việt Nam”, “Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam”.... Trong các giáo  
trình này, các tác giả đã phân tích những hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đã  
đang phát triển ở Việt Nam như: trang trại, hợp tác xã, nông trường quốc doanh,  
vùng nông nghiệp.....  
Theo tác giả Nguyễn Viết Thịnh: tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tổ chức  
các không gian nông nghiệp (các tiểu vùng nông nghiệp) trên cơ sở đánh giá tác  
động tổng hợp của các nhân tố tương đối tĩnh (các điều kiện sinh thái nông nghiệp)  
và các nhân tố động (với các mức độ động khác nhau) như dân cư, lao động, mạng  
lưới đô thị, kết cấu hạ tầng sản xuất và sinh hoạt, thị trường nông sản, chính sách  
phát triển,... nhằm: đánh giá đượcsự phân hóa lãnh thổ nông nghiệp đã định hình,  
sự hợp lí và chưa hợp của nó; đưa một (hoặc 2, 3) phương án định hướng tổ chức  
lãnh thổ nông nghiệp, trong ra được đó phát hiện chính xác các địa bàn trọng điểm  
phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời phát  
hiện các vùng khó khăn để đề xuất các chính sách phát triển phù hợp.  
Một khía cạnh khác của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp cũng được tác giả  
Nguyễn Hiền đề cập đến, đó là chính sách định vị nông nghiệp. Theo tác giả: định  
vị nông nghiệp lựa chọn được vùng chuyên môn hóa nông nghiệp thích ứng với  
các điều kiện tự nhiên. Để phát triển được các vùng chuyên canh nông nghiệp cần  
thiết phải có chính sách năng lượng, đào tạo chuyên môn nhân lực kĩ thuật và kinh  
doanh gắn với thị trường tiêu thụ. Các vùng chuyên môn hóa nông nghiệp được  
thu nhập cao phải gắn với công nghiệp chế biến để phát triển chuyên môn hóa sâu,  
có giá trị cao, cạnh tranh được trên thị trường. Từ đây, sẽ hình thành các trung tâm,  
các đô thị, kéo theo là các kết cấu hạ tầng kĩ thuật và xã hội.  
8
Tác giả Ngô Doãn Vịnh cho rằng: tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là cách thức  
phối hợp, kết hợp các đối tượng nông nghiệp trong một lãnh thổ xác định có tính  
tới mối quan hệ với các đối tượng thuộc ngành và lĩnh vực khác trong thế vận động  
và phát triển.  
Trong xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, tác động vào mọi  
lĩnh vực trong cuộc sống, đòi hỏi chúng ta phải một tư duy mới về tổ chức lãnh  
thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói riêng. Rõ ràng, chúng ta không  
chỉ xem xét tổ chức lãnh thổ trong khuôn khổ khép kín, chỉ dựa vào những yếu tố  
sẵn để phát triển, phải nhìn nhận được mối liên kết giữa các lãnh thổ khác  
nhau, những lợi thế so sánh và chuỗi giá trị toàncầu. Ngày nay, biên giới giữa các  
quốc gia không chỉ là biên giới đất liền, biên giới biển, biên giới trên không mà  
còn là biên giới của hàng hóa, dịch vụ văn hóa.Các cường quốc sử dụng lí  
thuyết này để mở rộng tầm ảnh hưởng của mình bằng cách phát triển thị trường  
hàng hóa - dịch vụ mang đậm hàm lượng văn hóa ra các nước khác.  
Như vậy, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp hiện nay không chỉ dựa vào những  
điều kiện sản xuất hiện có, mà phải đặt trong mối quan hệ với các khu vực xung  
quanh, đặc biệt những nhu cầu của thị trường thì mới thể phát triển bền vững  
được. Hay nói cách khác, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải kết hợp được những  
yếu tố sẵn có và những yếu tbên ngoài để sản xuất một cách hiệu quả nhất về mặt  
kinh tế, hội và môi trường.  
Từ các nội dung đã phân tích trên, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp thể  
được tổng quát như sau: tổ chức lãnh thổ nông nghiệp sự sắp xếp vàphối hợp  
các đối tượng nông nghiệp trong mối liên hệ liên ngành, liên vùng, kết hợp với nhu  
cầu thị trường trên một lãnh thổ cụ thể nhằm sử dụng hợp nhất các tiềm năng tự  
nhiên, lao động, vị trí địa lí và cơ sở vật chất kĩ thuật để đem lại hiệu quả cao về  
mặt kinh tế, hội và môi trường.  
1.2. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp  
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp một hình thức của tổ chức kinh tế - xã hội.  
Theo K.I. Ivanov (1974), tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu hệ thống liên  
kết không gian của các ngành, các nghiệp trong nông nghiệp và các lãnh thổ dựa  
trên cơ sở, quy trình kĩ thuật mới nhất, chuyên môn hóa, tập trung hóa, liên hợp  
hóa và hợp tác hóa, cho phép sử dụng hiệu quả nhất sự khác nhau theo lãnh tổng về  
điều kiện tự nhiên, kinh tế, lao động đảm bảo năng suất lao động hội cao  
nhất. Vậy:  
- Phân công lao động theo lãnh thổ cùng với việc kết hợp với tự nhiên, kinh  
tế, lao động cơ sở đề hình thành các mối liên hệ qua lại theo không gian.  
- Khía cạnh ngành và khía cạnh lãnh thổ quyện chặt với nhau trong quá  
trình tổ chức lãnh thổ.  
- Các đặc điểm không gian của sản xuất phần lớn bắt nguồn từ tính chất của  
việc khai thác và sử dụng các điều kiện sản xuất hiện có.  
9
- Hiệu quả là tiêu chuẩn hàng đầu trong việc tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.  
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp không phải bất biến.Nói cách khác hình  
thái kinh tế - xã hội nào thì có kiểu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tương ứng như  
thế.Hiện nay, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp gắn mật thiết với cuộc cách mạng  
khoa học – công nghệ, một cuộc cách mạng phát triển rất mạnh mẽ đang trở  
thành lực lượng sản xuất trực tiếp.  
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp liên quan chặt chẽ với hệ thống lãnh thổ nông  
nghiệp.Đây là các phân hệ sản xuất chế biến nông phẩm mối quan hệ khắng  
khít với nhau. Hệ thống lãnh thổ nông nghiệp bao gồm: nhóm xí nghiệp liên quan  
trực tiếp đến đất đai và nhóm xí nghiệp liên quan gián tiếp đến đất đai và nhóm xí  
nghiệp có liên quan đến cả hai đặc điểm này tùy theo từng thời kì.  
Ở nhiều nước kinh tế phát triển đã hình thành các hệ thống lãnh thổ nông  
nghiệp, trong đó phẩm biến rộng rãi nhất là các hệ thống lãnh thổ sản xuất chế  
biến các sản phẩm chăn nuôi. Ví dụ như các hệ thống lãnh thổ sản xuất thịt sữa và  
các hệ thống lãnh thổ sản xuất chế biến sữa ở các nước Tây Âu, Bắc Mĩ. Quá  
trình xuất hiện các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp mới đang hoàn thiện các hệ  
thống lãnh thổ nông nghiệp hiện có trong điều kiện hiện nay không chỉ tiêu biểu  
cho ngành chăn nuôi.  
Quá trình này, ngày càng xâm nhập sâu vào ngành trồng trọt, nhất là các  
phân ngành sản xuất các sản phẩm phải qua chế biến công nghiệp. Việc hình thành  
các hệ thống lãnh thổ trong ngành trồng trọt cũng dựa trên cơ sở chuyên môn hóa  
theo giai đoạn, tập trung hóa, hợp tác hóa và liên hợp hóa sản xuất.  
Các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp không những không mâu thuẫn, mà còn  
làm rõ thêm nội dung và cấu trúc của các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp  
với tất cả các mối liên hệ qua lại phức tạp của chúng.Trong các loại hệ thống lãnh  
thổ thì các hệ thống lãnh thổ sản xuất vật chất đóng vai trò chủ đạo.  
Mặt khác, người ta coi các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp như một  
hệ thống động, phức tạp, nhiều thông số bao gồm một số hệ thống nhỏ mối  
liên hệ với nhau. Mỗi thành phần chủ yếu của hệ thống do các thành phần ở cấp  
thấp hơn chi phối. Đến lượt mình, thành phần này lại bị các thành phần cấp thấp  
hơn nữa quyết định… Từ đó muốn tìm tình trạng tối ưu của hệ thống thì phải xem  
xét các thành phần ở cấp thấp chứ không phải chỉ nghiên cứu những thành phần  
chủ yếu của nó.  
Như vậy, thể khẳng định rằng việc phát hiện dự báo các hệ thống lãnh  
thổ nông nghiệp có quan hệ hữu cơ với nghiên cứu vấn đề tổ chức lãnh thổ nông  
nghiệp.  
2. Nguyên tắc của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp  
- Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải phù hợp với điều kiện sinh thái có tính tới  
khả năng tài nguyên và yêu cầu thị trường  
10  
 
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tnhiên nhiều hơn các ngành  
sản xuất khác. Hoạt động nông nghiệp bao trùm phạm vi lãnh thổ rộng lớn với các  
điều kiện tự nhiên rất khác nhau. Trong chừng mực nhất định, các điều kiện tự  
nhiên nào đó thể thuận lợi hoặc không thuận lợi cho sự phát triển từng loại vật  
nuôi, cây trồng. Do vậy, khi tổ chức lãnh thổ nông nghiệp cần nghiên cứu kĩ các  
điều kiện tự nhiên, tiến hành đánh giá chúng về phương diện sinh thái. Điều đó có  
nghĩa là cây trồng, vật nuôi phải được phân bố ở những nơi điều kiện thích hợp  
nhất. Như các loại cây công nghiệp và cây ăn quả cần những điều kiện sinh thái  
chặt chẽ hơn so với cây lương thực; mặt khác sản phẩm của đòi hỏi phải được  
chế biến mới nâng cao được giá trị sản phẩm. Do đó, nhóm cây này cần được phân  
bố tập trung, hình thành những vùng sản xuất chuyên môn hoá lớn để kết hợp tốt  
với phát triển công nghiệp chế biến, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản  
xuất. thế, việc phân bố cây trồng, vật nuôi cần được tiến hành trên cơ sở vạch ra  
các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.  
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp không  
chỉ dựa vào thế mạnh của từng vùng, mà phải tính tới nhu cầu thị trường để giảm  
thiểu chi phí, tối đa hiệu quả.Thị trường có ý nghĩa quyết định sự lựa chọn địa  
điểm phân bố cơ sở sản xuất của các nhà đầu tư, các sản phẩm chính của nông  
nghiệp quyết định đến hiệu quả sự thành công của tổ chức lãnh thổ.  
Thỏa mãn yêu cầu về khả năng tài nguyên và yêu cầu của thị trường đó sự  
thỏa mãn các yếu tố đáp ứng nhu cầu cả đầu vào và đầu ra nhằm đem lại lợi ích  
kinh tế, hội và môi trường cho con người.  
- Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải đảm bảo lợi ích cộng đồng đạt hiệu quả  
kinh tế - xã hội cao  
Điều quan trọng nhất của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải đạt được hiệu  
quả kinh tế - xã hội cao nhất cho lãnh thổ và mang lại lợi ích cho cả cộng đồng,  
đặc biệt trong việc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của người  
dân ở những vùng khó khăn.  
- Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải đảm bảo sự phù hợp giữa trình độ  
nguồn nhân lực và trình độ khoa học công nghệ  
Mỗi loại cây trồng, vật nuôi đều những yêu cầu nhất định về các quy trình  
kĩ thuật như quy trình canh tác, kĩ thuật chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, chế biến…  
yêu cầu về máy móc, công cụ và yêu cầu về kĩ năng lao động, về trình độ nghiệp  
vụ quản lí. Như vậy, tổ chức lãnh thổ nông nghiệp phải dựa trên tính chất đặc  
điểm công nghệ cũng ntrình độ của người lao động để có cách thức tổ chức lãnh  
thổ hợp nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa các khâu trong quá trình sản xuất để  
đạt hiệu quả cao nhất.  
3. Vai trò của tổ chức lãnh thổ nông nghiệp  
3.1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp  
11  
 
Việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa to lớn  
không chỉ về mặt luận, mà còn cả về mặt thực tiễn.  
Việc xem xét tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói chung và việc vạch ra các  
hình thức tổchức của nó theo lãnh thổ nói riêng trước hết tạo ra những tiền đề cần  
thiết nhằm sử dụng hợp lý các điều kiện tự nhiên, kinh tế, hội của cả nước cũng  
như của từng địa phương.  
Trên thực tế, nhiều hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp mối liên hệ  
chặt chẽ với nhau.Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hội đã hình thành các  
hình thức mới về tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.Việc nhận thức chúng một cách  
đúng đắn chiếc chìa khóa để sử dụng hợp hơn các điều kiện hiện của đất  
nƣớc.  
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tnhiên nhiều hơn các ngành  
sản xuất khác. Hoạt động nông nghiệp bao trùm phạm vi lãnh thổ rộng lớn với các  
điều kiện tự nhiên rất khác nhau. Trong chừng mực nhất định, các điều kiện tự  
nhiên nào đó thể thuận lợi hoặc không thuận lợi cho sự phát triển từng loại vật  
nuôi, cây trồng. Do vậy, khi vạch ra các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp,  
cần nghiên cứu kỹ các điều kiện tự nhiên, tiến hành đánh giá chung về phương  
diện sinh thái. Điều đó nghĩa là cây trồng, vật nuôi phải được phân bố ở những nơi  
điều kiện thích hợp nhất.Vì thế, việc phân bố vật nuôi, cây trồng cần được tiến  
hành trên cơ sở vạch ra các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.  
Việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tạo nên những điều kiện  
nhằm đẩy mạnh và làm sâu sắc chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp.  
Quá trình chuyên môn hóa trong nông nghiệp có tính chất đặc biệt.Đó là  
hiện tượng khách quan gắn liền với sự phát triển và hoàn thiện nền sản xuất hội.  
Đồng thời, chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp dựa vào sự tác động của các qui  
luật kinh tế khách quan trong các hình thái kinh tế, hội khác nhau, liên quan mật  
thiết nhất với trình độ phát triển của sức sản xuất và quan hệ sản xuất của một quốc  
gia.  
Chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp một trong những biểu hiện của  
phân công lao động hội. Trong khi chuyên môn hóa những nông phẩm nào đấy,  
một lãnh thổ giữ một địa vị nhất định trong sự phân công lao động hội. Địa vị  
này đƣợc xác định chủ yếu bởi sản phẩm hàng hóa sản xuất ra để thỏa mãn nhu  
cầu của hội.Dƣới ảnh hưởng của quá trình này, từng bộ phận lãnh thổ trong  
nƣớc đều chuyên môn hóa những nông phẩm nhất định. Từ đó, quá trình chuyên  
môn hóa ngày càng tiếp tục đƣợc đẩy mạnh trở nên sâu sắc trên phạm vi toàn  
quốc.  
Việc hoàn thiện các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp còn tạo ra  
cả những điều kiện nhằm nâng cao năng suất lao động.  
Việc nâng cao năng suất lao động kết quả của hàng loạt các yếu tố gắn  
liền với sự thay đổi của ba thành phần thuộc quá trình lao động: phương tiện lao  
12  
động, đối tượng lao động lực lượng lao động. Một trong những con đường nâng  
cao năng suất lao động sử dụng tối ưu nguồn lao động tăng số lượng nông phẩm  
trên một đơn vị diện tích với chi phí ít nhất trên một đơn vị sản phẩm việc xác  
định một cách khoa học các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.  
Việc nghiên cứu các hình thức tổ chức nông nghiệp theo lãnh thổ góp  
phần vào công tác lập kế hoạch theo lãnh thổ.  
Trong hoàn cảnh hiện nay, việc lập kế hoạch phải linh hoạt.Tránh sự cứng  
nhắc, áp đặt. Thực chất đây việc xác định một cách có căn cứ khoa học những  
mối quan hệ cần thiết giữa các ngành trong nền sản xuất hội, việc đảm bảo sự  
cân đối giữa các yếu tố sản xuất (đất đai, máy móc, sức lao động...) đưa ra hệ  
thống các giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra trong điều kiện nền kinh  
tế thị trường.  
Trên cơ sở các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, từng đơn vị sản xuất  
tiến hành xây dựng kế hoạch sao cho phù hợp với các điều kiện cụ thể của mình,  
đồng thời thỏa mãn sự cân đối nhất định giữa các ngành, giữa các yếu tố của sản  
xuất, giữa tích lũy và tiêu dùng.  
Việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp gắn liền với việc giải quyết  
hiệu quả vấn đề phân bổ lực lượng sản xuất theo lãnh thổ trong cả nước nói  
chung và trong từng vùng nói riêng.  
3.2. Vai trò của sự lựa chọn các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đối với  
phát triển nông nghiệp  
Tổ chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói riêng có nội  
dung rất rộng bao gồm về nhiều mặt, từ sản xuất chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Tất  
cả những hoạt động đó diễn ra các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp, ở một  
số hình thức tổ chức lãnh thổ nhất định.Vì vậy, muốn có các hoạt động sản xuất  
kinh doanh nông nghiệp trước hết phải hình thành nên các hình thức tổ chức lãnh  
thổ nông nghiệp tổ chức ra các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp.Trong hệ  
thống nông nghiệp nhiều hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp khác nhau.Mỗi  
hình thức có vai trò, vị trí và thích hợp với những điều kiện sản xuất khác nhau.Vì  
vậy, các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp có vai trò rất quan trọng. Cụ thể:  
- Lựa chọn các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp thích  
hợp cho phép khai thác một cách đầy đủ hợp nhất các nguồn lực của nông  
nghiệp, làm cho sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao. Ngược lại, nếu lựa  
chọn các hình thức sản xuất kinh doanh nông nghiệp không thích hợp sẽ cản trở  
quá trình khai thác các nguồn lực, không đáp ứng yêu cầu thường xuyên và khắt  
khe của sản xuất nông nghiệp.  
- Thực tế nền nông nghiệp nước ta cũng các nước hội chủ nghĩa những  
năm gần đây những minh chứng sống động về sự chọn không thích hợp các loại  
hình sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Việc xóa bỏ tính độc lập của hình thức kinh  
tế hộ nông dân và thay vào đó là xây dựng các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp  
13  
kiểu cũ, các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp theo mô hình kế hoạch hóa  
tập trung đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của ngành cũng như của từng  
loại hình sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Nước ta đã đang được đổi mới bằng  
việc lựa chọn và xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp theo yêu cầu của nền  
kinh tế thị trường.  
Một số nguyên tắc cơ bản khi lựa chọn tổ chức các hình thức tổ chức  
lãnh thổ nông nghiệp:  
- Đảm bảo sự hoạt động hiệu quả của các loại hình sản xuất kinh doanh  
nông nghiệp đã được lựa chọn.Đây là nguyên tắc quan trọng cơ bản nhất khi lựa  
chọn tổ chức các loại hình sản xuất nông nghiệp.Vì hiệu quả là tiêu chuẩn để  
đánh giá mọi hoạt động sản xuất của các loại hình sản xuất nhất định về mặt kinh  
tế, hội và môi trường.Trong đó, hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn đánh giá cao hoạt  
động kinh tế, mục tiêu trực tiếp của hoạt động sản xuất. Việc lựa chọn cũng như  
tổ chức các loại hình sản xuất có liên quan trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của  
chúng:  
+ Hiệu quả kinh tế như việc sử dụng các nguồn lực hiệu quả cuối cùng,  
được xem xét và đánh giá trong nhiều năm liên tục.  
+ Hiệu quả hội được xem xét trên phạm vi rộng, liên quan đến các vấn đề  
hội, nhưng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến các hình thức tổ chức sản xuất nông  
nghiệp nhất là trong quá trình đổi mới các doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước.  
+ Hiệu quả môi trường có tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh tế hiệu  
quả hội trong hoạt động của các loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp. sản  
xuất nông nghiệp luôn gắn liền với môi trường cả môi trường tự nhiên lẫn môi  
trường nhân văn.Lựa chọn các loại hình sản xuất nông nghiệp phù hợp với các điều  
kiện cụ thể đạt hiệu quả cao về môi trường cho phép giải quyết hiệu quả kinh tế với  
hiệu quả hội.  
vậy, chúng ta cần phân tích các nhân tố ảnh hưởng tìm ra loại hình thích  
hợp với các nhân tố điều kiện cụ thể. Các nhân tố gồm: điều kiện tự nhiên, kinh  
tế, hội, đặc điểm kinh tế kĩ thuật của ngành sản xuất, trong đó lưu ý tới đặc điểm  
kinh tế kĩ thuật của ngành và về quy mô sản xuất.  
- Các loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp phải tổ chức kinh tế tự chủ,  
là các đơn vị kinh tế độc lập, quyền sở hữu, sử dụng tài sản, lựa chọn hình thức  
phương hướng sản xuất kinh doanh, chủ động tổ chức các hoạt động sản xuất và  
phân phối phù hợp với mục đích sản xuất nhẳm đạt hiệu quả kinh tế, hội cao,  
quyền lựa chọn các đối tác hợp tác, liên kết, liên doanh có hiệu quả nhất.  
- Phù hợp với các đặc điểm kinh tế, hội của nông nghiệp, nông thôn nước  
ta: do nông nghiệp nông thôn nước ta chủ yếu sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất kĩ  
thuật còn thấp… vậy, bên cạnh xây dựng các loại hình doanh nghiệp: đa thành  
phần, đa sở hữu, phải chú ý đến hoạt động của 10 triệu hộ nông dân, từng bước  
chuyển các hộ nông dân sang hình thức kinh tế trang trại. Lựa chọn các mô hình  
14  
sản xuất nông nghiệp tiếp tục chuyển đổi các doanh nghiệp nông nghiệp là yêu  
cầu cần thiết.  
- Đảm bảo tính thống nhất trên 3 mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và  
quan hệ phân phối của các hình thức sản xuất nông nghiệp. Sự thống nhất có tính  
nguyên tắc này cần được lưu ý không chỉ trong lựa chọn mà còn đổi mới các hình  
thức tổ chức sản xuất, nhất đổi mới các doanh nghiệp từ cơ chế kế hoạch hóa tập  
trung chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước  
trong nông nghiệp.  
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG  
NGHIỆP  
1. Vị trí địa lí  
Vị trí địa lí có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã  
hội của một lãnh thổ vị trí địa như một yếu tố khác biệt có tác động đến tổ  
chức lãnh thổ lãnh thổ kinh tế - xã hội nói chung và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp  
nói riêng. Trong điều kiện kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu,  
yếu tố vị trí địa lí càng được đánh giá cao khi lựa chọn các địa bàn để đầu tư, phát  
triển các lãnh thổ trọng điểm tạo ra các mối liên kết liên vùng, liên khu vực.  
2. Các nhân tố tự nhiên  
Các nhân tố tự nhiên thường được coi là yếu tố tiền đề, có tính vật chất để  
tổ chức lãnh thổ kinh tế. Điều này càng đặc biệt quan trọng đối với vấn đề tổ chức  
lãnh thổ nông nghiệp, bởi đất đai tư liệu sản xuất của nông nghiệp và nông  
nghiệp là ngành phụ thuộc nhiều vào tự nhiên.  
a. Đất đai  
Nông nghiệp những đặc điểm đặc thù khác với các ngành sản  
xuất khác. Đặc điểm đầu tiên phải đề cập đến đất đai được coi là tư liệu sản xuất  
quan trọng nhất của nông nghiệp. Quy mô sản xuất, trình độ phát triển, mức độ  
thâm canh, phương hướng sản xuất cả việc tổ chức lãnh thổ nông nghiệp lệ  
thuộc số lượng chất lượng của đất đai. Sự phân hóa lãnh thổ của đất trồng là  
nhân tố có ý nghĩa rất lớn đối với sự phân bố nông nghiệp. Trên thế giới,  
những vùng đất màu mỡ, phì nhiêu đều những vùng nông nghiệp trù phú.  
Do đất đai tư liệu sản xuất chủ yếu nên hoạt động nông nghiệp phân bố trong  
phạm vi không gian rộng lớn. Trong nông nghiệp, không thể đầu tư (vốn, tư liệu  
sản xuất,…) quá nhiều trên một đơn vị diện tích, bởi vì làm như vậy sẽ không đem  
lại hiệu quả kinh tế cao. Điều này khác hẳn trong sản xuất công nghiệp.  
Khi nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp không thể bỏ qua các đặc điểm  
nói trên. Sự ra đời của một hoạt động nghiệp nào đó (đặc biệt trong ngành trồng  
trọt) trước hết phải gắn liền với tư liệu sản xuất hàng đầu này. Mặc sản xuất  
nông nghiệp trải rộng theo không gian, nhưng điều đó hoàn toàn không mang tính  
chất tùy tiện. Khi xác định quy mô, cơ cấu sản xuất của các hình thức tổ chức lãnh  
15  
   
thổ nông nghiệp, nhất thiết phải chú ý đến mối tương tác từ các đặc điểm của sản  
xuất nông nghiệp.  
b. Khí hậu  
Khí hậu với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, độ ẩm, chế độ gió  
cả những bất thường của thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán, gió  
nóng…có ảnh hưởng rất lớn với việc xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu  
mùa vụ, khả năng xen canh, tăng vụ hiệu quả sản xuất nông nghiệp.  
Tính mùa của khí hậu quy định tính mùa trong sản xuất cả trong tiêu thụ  
sản phẩm. Mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ thích hợp với những điều kiện khí hậu  
nhất định, nghĩa là trong giới hạn cho phép.  
Những vùng có độ ẩm lượng mưa phong phú, thời gian có ánh nắng  
mặt trời nhiều, cường độ bức xạ lớn…sẽ cho phép trồng nhiều vụ trong năm với cơ  
cấu cây trồng, vật nuôi phong phú, đa dạng khả năng xen canh, gối vụ cao. Tuy  
nhiên, để tổ chức lãnh thổ nông nghiệp một cách hiệu quả cũng cần chú ý đến tính  
chất biến động thất thường của khí hậu, thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán, sương  
muối…để giảm thiểu những tác hại của chúng đến năng suất của cây trồng và  
vật nuôi, tránh tác hại đến sản xuất nông nghiệp.  
c. Nguồn nước  
Nước ngọt một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu của nông nghiệp  
nước cần thiết cho sự sinh trưởng phát triển của cây trồng, vật nuôi.  
ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi và hiệu quả sản  
xuất nông nghiệp. Những nền nông nghiệp trù phú trên thế giới đều nằm ở  
những nơi nguồn nước dồi dào. Ngược lại nông nghiệp khó phát triển được ở  
những nơi khan hiếm nước. Tuy nhiên, ở những nơi nguồn nước phong phú thì  
vẫn sự phân hóa theo thời gian: mùa khô và mùa mưa. Do đó, để thể phát  
triển một nền nông nghiệp ổn định tổ chức lãnh thổ nông nghiệp hiệu quả cần  
phải giải pháp đảm bảo cấp nước vào mùa khô và tiêu nước vào mùa mưa.  
Bên cạnh đó, hiện nay loài người còn phải đối mặt với hiện tượng  
thiếu nước do nguồn nước ngọt bị ô nhiễm. Tài nguyên nước ngầm cũng phần  
quan trọng cho nông nghiệp, nguồn dự trữ quan trọng bổ sung cho nguồn nước  
mặt nhất là trong mùa khô và một số nơi nguồn nước trên mặt bị hạn chế về số  
lượng chất lượng.  
d. Sinh vật  
Sinh vật cơ sở để thuần dưỡng, tạo nên các giống cây trồng, vật nuôi. Sự  
đa dạng về thảm thực vật hệ động vật tiền đề hình thành và phát triển các  
giống vật nuôi, cây trồng tạo khả năng chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp phù hợp  
với điều kiện tự nhiên và sinh thái. Trên thế giới, khu vực nhiệt đới nơi tập  
trung nhiều giống động, thực vật tự nhiên nhất thì đây cũng nơi sản lượng  
nông sản cao nhất cơ cấu sản phẩm nông nghiệp đa dạng nhất.  
16  
Các diện tích đồng cỏ, bãi chăn thả diện tích mặt nước tự nhiên là cơ sở  
thức ăn tự nhiên để phát triển ngành chăn nuôi. Ngày nay, mặc dù ngành  
chăn nuôi được đẩy mạnh nhờ áp dụng phương pháp chăn nuôi công nghiệp, dựa  
trên nguồn thức ăn được chế biến công nghiệp, nhưng thức ăn tự nhiên vẫn còn vai  
trò quan trọng.  
3. Các nhân tố kinh tế - xã hội  
a. Dân nguồn lao động  
Dân nguồn lao động ảnh hưởng tới tổ chức lãnh thổ nông  
nghiệp dưới hai góc độ: lực lượng sản xuất trực tiếp và là nguồn tiêu thụ các  
nông sản.  
Dưới góc độ lực lượng sản xuất trực tiếp để tạo ra các sản phẩm nông  
nghiệp, nguồn lao động được coi là nhân tố quan trọng để tổ chức lãnh thổ nông  
nghiệp. Số lượng chất lượng nguồn lao động quyết định phương hướng phát  
triển nông nghiệp cũng như quyết định đến hình thức nội dung của tổ  
chức lãnh thổ nông nghiệp.  
Sự phân bố dân cư ảnh hưởng lớn đến các hình thức tổ chức lãnh thổ nông  
nghiệp. Dân cư ở các vùng đồng bằng phân bố tập trung thì sản xuất ở đó điều  
kiện thuận lợi để bố trí tập trung. dân các vùng miền núi thường sinh sống  
phân tán sẽ gắn liền với các kiểu tổ chức sản xuất không tập trung quy mô lớn.  
Tập quán, kinh nghiệm sản xuất chế biến sản phẩm nông nghiệp của  
người dân có ảnh hưởng nhất định đến quá trình tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.  
Trong những vùng dân có trình độ canh tác cao, có kinh nghiệm sản xuất chế  
biến, thì sản phẩm nông nghiệp năng suất cao, chất lượng tốt, sớm tiếp cận với  
nền sản xuất hàng hóa. Ngược lại, ở những vùng dân mức sống thấp, tập  
quán canh tác lạc hậu,… việc áp dụng khoa học kĩ thuật mới sẽ gặp nhiều khó khăn  
sản xuất không đáp ứng được sự thay đổi nhanh chóng của thị trường.  
b. Tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ  
Khoa học công nghệ yếu tố quan trọng để thực thi các phương án tổ  
chức lãnh thổ nông nghiệp. Tiến bộ công nghệ đã tạo khả năng sử dụng các nguồn  
tài nguyên theo cả chiều rộng chiều sâu, giảm thiểu mức độ phụ thuộc vào tự  
nhiên của sản xuất nông nghiệp, nâng cao giá trị của các sản phẩm đầu ra. Sự phát  
triển của khoa học công nghệ thúc đẩy sự hình thành và phát triển các hình  
thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp mang lại hiệu quả cao như trang trại, vùng  
chuyên canh, vùng nông nghiệp…  
c. Cơ sở hạ tầng cơ sở vật chất kĩ thuật  
Cơ sở hạ tầng bao gồm đường giao thông, thông tin liên lạc, hệ  
thống điện nước ảnh hưởng rệt tới việc tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. Để thể  
phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, thì một trong những điều  
kiện quan trọng đầu tiên là cơ sở hạ tầng. Thực tiễn cho thấy,  những vùng có cơ  
sở hạ tầng tốt cơ sở để hình thành và phát triển các hình thức tổ chức lãnh thổ  
17  
 
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 90 trang yennguyen 04/04/2022 4020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Tổ chức lãnh thổ ngành nông nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docde_tai_to_chuc_lanh_tho_nganh_nong_nghiep.doc