Đề tài Thử nghiệm khả năng thích nghi độ mặn của cá basa (Pangasius bocourti) bột, hương, giống

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG  
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN  
THỬ NGHIỆM KHẢ NĂNG THÍCH NGHI  
ĐỘ MẶN CỦA CÁ BASA (Pangasius  
bocourti) BỘT, HƯƠNG, GIỐNG  
Ks. BÙI THỊ KIM XUYẾN  
AN GIANG, THÁNG 9 NĂM 2014  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG  
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN  
THỬ NGHIỆM KHẢ NĂNG THÍCH NGHI  
ĐỘ MẶN CỦA CÁ BASA (Pangasius  
bocourti) BỘT, HƯƠNG, GIỐNG  
Ks. BÙI THỊ KIM XUYẾN  
AN GIANG, THÁNG 9 NĂM 2014  
Đề tài nghiên cứu khoa học “Thử nghiệm khả năng thích nghi độ mặn của  
cá Ba sa (Pangasius bocourti) bột, hƣơng, giống”, do tác giả Bùi Thị Kim Xuyến,  
công tác tại khoa Nông nghiệp - Tài nguyên thiên nhiên thực hiện. Tác giả đã báo  
cáo kết quả nghiên cứu và đã được Hội đồng Khoa học và Đào tạo Trường Đại học  
An Giang thông qua ngày 16/01/2014.  
Thƣ ký  
Phản biện 1  
Phản biện 2  
Chủ tịch Hội đồng  
i
LỜI CẢM TẠ  
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý Khoa học và  
Hợp tác Quốc tế, Phòng Kế hoạch - Tài vụ, Phòng Quản trị thiết bị, Ban Chủ nhiệm  
Khoa Nông nghiệp & Tài nguyên thiên nhiên, Trường Đại học An Giang đã tạo mọi  
điều kiện thuận lợi giúp cho tôi hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này.  
Xin chân thành cám ơn quý Thầy Cô trong Bộ môn Thủy sản, đặc biệt Công ty  
TNNH Tống Minh Chánh đã nhiệt tình hỗ trợ và giúp đỡ tôi hoàn thành tốt đề tài  
nghiên cứu này.  
Xin cám ơn tất cả các đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình thực  
hiện đề tài.  
ii  
 
LỜI CAM KẾT  
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong công  
trình nghiên cứu này có xuất xứ rõ ràng. Những kết luận mới về khoa học của công  
trình nghiên cứu này chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.  
An Giang, ngày 16 tháng 01 năm 2015  
Ngƣời thực hiện  
Bùi Thị Kim Xuyến  
iii  
 
TÓM TẮT  
Đề tài: “Thử nghiệm khả năng thích nghi độ mặn của cá Ba sa (Pangasius  
bocourti) bột, hƣơng, giống” thực hiện tại trường đại học An Giang trong thời gian  
70 ngày với mục tiêu cung cấp một số dẫn liệu cho qui trình sản xuất giống cá Ba sa  
trong điều kiện biến đổi khí hậu, gồm 3 thí nghiệm. Kết quả cho thấy LC50-48giờ  
của cá Ba sa bột ở độ mặn 10 ‰.  
Thời gian thí nghiệm 30 ngày: cá tăng trưởng về khối lượng, chiều cao, chiều dài cao  
nhất ở nghiệm thức 9 ‰, thấp nhất là ở nghiệm thức 0 ‰, chiều cao thấp nhất ở  
nghiệm thức 3 ‰. Độ mặn không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá.  
Thời gian thí nghiệm cá từ 40 ngày đến 70 ngày tuổi: ở nghiệm thức 0 ‰ có tăng  
trưởng về khối lượng, chiều dài, chiều cao lớn nhất, thấp nhất ở 13 ‰. Ở giai đoạn  
này độ mặn không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá.  
Như vậy, cá ở giai đoạn dưới 30 ngày tuổi tốc độ tăng trưởng về khối lượng ở độ  
mặn 9 ‰ cao hơn các nghiệm thức có độ mặn thấp hơn. Ngược lại, khi cá ở giai  
đoạn 30 ngày tuổi trở lên, ở 0 ‰ lại có tốc độ tăng trưởng cao nhất và thấp nhất ở  
13‰. Độ mặn không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá.  
Từ khóa: LC50-48 giờ, khả năng thích nghi, nồng độ muối, Pangasius bocourti.  
iv  
 
ABSTRACT  
“Test the salinity adaptability of Ba sa catfish (Pangasius bocourti) fry,  
fingerling, juvenile” was carried out at An Giang University with third experiments.  
Determine LC50-48h, the results showed that the lethal concentration was on the  
salinity 10 ‰ and more than.  
The highest weight, the highest length and the highest height were on the salinity 9  
‰. Furthermore, the survival rate was insignificant difference between four  
treatments in the first 30 days. Moreover, from 40 experiment days to 70 experiment  
days the control treatment was the good results. In addition, the survival rate was  
insignificant difference. Thus, the results showed that the good growth was in the  
first days of the experiment which was in the high salinity concentration, and vice  
versa.  
Keyword: LC50-48h, salinity adaptability, lethal concentration, Pangasius bocourti.  
v
 
MỤC LỤC  
vi  
 
4.2.4. Nồng độ NO2 mg/l .......................................................................................... 19  
4.2.5 Hàm lượng NH3/NH4 mg/l............................................................................... 20  
vii  
DANH SÁCH HÌNH  
Hình 13. Biến động hàm lượng NH3/NH4 giai đoạn cá hương đến 30 ngày ............ 20  
Hình 14. Biến động hàm lượng NH3/ NH4 giai đoạn ương từ 30 đến 60 ngày........ 21  
ix  
 
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT  
FW: fresh water  
SW: sea water  
ASTT: áp suất thẩm thấu  
DO:  
oxy hòa tan  
NO:  
ngưỡng oxy  
CĐHH: cường độ hô hấp  
TGGC: thời gian gây chết  
ĐBSCL: Đồng Bằng Sông Cửu Long  
l: lít  
LC50: nồng độ gây chết 50%  
LD50: liều lượng gây chết 50%  
ĐBSCL: Đồng Bằng Sông Cửu Long  
NT: nghiệm thức  
ĐC: đối chứng  
TLS: tỷ lệ sống (%)  
xi  
 
CHƢƠNG 1  
GIỚI THIỆU  
1.1.  
Lý do chọn đề tài  
Nghề nuôi cá Tra, cá Ba sa xuất khẩu là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn  
của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt  
Nam, xuất khẩu cá Tra, Ba sa 11 tháng đầu năm 2013 đạt 1,59 tỷ USD trên tổng số  
kim ngạch xuất khẩu của ngành thủy sản là 6,23 tỷ USD (Bản tin Thương mại Thủy  
sản số 48-2013 ngày 27/12/2013). Bên cạnh đó, nghề nuôi trồng thuỷ sản nước lợ ở  
các vùng ven biển nước ta nói chung và ĐBSCL nói riêng ngày một phát triển.  
Bên cạnh đó, hiện tượng biến đổi khí hậu nóng lên toàn cầu dẫn tới việc việc xâm  
thực mặn ngày càng tăng, một số vùng đất ven biển có nguy cơ mặn hoá và việc  
nuôi các loài thuỷ sản nước ngọt sẽ gặp nhiều khó khăn do lượng  
70  
km, tiêu diệt và phá huỷ nhiều loài sinh vật nước ngọt ở 8 vườn quốc gia, 11 khu dự  
trữ thiên nhiên sẽ nằm trong diện tích bị ngập. Hệ thống sinh thái cũng bị tác động  
tiêu cực, tại 2 vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long, các hệ sinh thái rừng  
và đất ve  
.
xâm mặn cần chuyển dịch cơ cấu nuôi trồng thủy sản sang hướng nước lợ để đáp  
ứng nhu cầu lương thực nội địa và xuất khẩu. Theo Worldwildlife.org (2014) cá  
Tra, Ba sa được xuất khẩu chiếm hơn 90% trên toàn thế giới, tăng hơn 50 lần trong  
thập kỉ qua. Tổng diện tích nuôi ở 9 tỉnh ở ĐBSCL đạt 137.000 ha Tra, Ba sa và  
một số loài cá nước ngọt khác. Năm 2011, tổng sản lượng cá Tra, Ba sa chiếm  
600.000 tấn. Với phương pháp nuôi thâm canh hiệu quả, các chuyên gia dự đoán cá  
Tra, Ba sa là nguồn cung cấp protein chủ yếu trong tương lai và con số này sẽ đạt 9  
tỷ vào năm 2015. Tuy nhiên, cá Ba sa chủ yếu chỉ nuôi  
“Thử nghiệm khả năng thích  
nghi độ mặn của cá Ba sa (Pangasius bocourti) bột, hƣơng, giống”  
1.2.  
Mục tiêu nghiên cứu  
Xác định ngưỡng chết của cá Ba sa bột ở độ mặn nhất định (LC50-96 giờ) để từ đó  
tìm ra được độ mặn thích hợp khi ương cá Ba sa ở giai đoạn bột.  
Xác định độ mặn thích hợp của cá Ba sa ở giai đoạn hương, giống cho kết quả tăng  
trưởng và tỷ lệ sống cao nhất. Để từ đó tìm ra nồng độ mặn thích hợp cho cá khi  
ương ở vùng có nguy cơ nhiễm mặn trong tương lai.  
1
       
1.3.  
Đối tƣợng nghiên cứu  
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: cá Ba sa (Pangasius bocourti) bột và cá Ba sa  
giống.  
1.4.  
Nội dung nghiên cứu  
Theo dõi tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng (khối lượng, chiều dài tổng, chiều cao thân)  
của cá Ba sa từ bột lên giống ở các độ mặn khác nhau.  
Theo dõi các yếu tố môi trường nhiệt độ, pH, NO2, NH3, DO trong quá trình ương.  
- Thí nghiệm 1: Xác định ngưỡng chết của cá Ba sa bột ở độ mặn nhất định bằng  
cách kiểm tra (LC50-96 giờ) ở các độ mặn 0 (đối chứng), 5, 10, 15, 18, 20 ‰.  
- Thí nghiệm 2: So sánh tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá Ba sa từ giai đoạn 7  
ngày đến 37 ngày tuổi ở các độ mặn 0, 3, 6, 9 ‰.  
- Thí nghiệm 3: So sánh tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá Ba sa từ 40 đến 70  
ngày ở các độ mặn 0, 9, 11, 13 ‰.  
Những đóng góp của đề tài:  
- Đóng góp về mặt khoa học: Cung cấp một số dẫn liệu liên quan đến tốc độ  
tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá Ba sa trong quá trình thí nghiệm như xác định  
được ngưỡng chết của cá Ba sa bột, làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện qui  
trình ương nuôi cá Ba sa ở vùng nước lợ. Tìm ra độ mặn thích hợp để ương cá Ba  
sa từ giai đoạn bột lên giống cho tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống cao. Ngoài ra, đề  
tài sẽ là cơ sở cho các nghiên cứu về cá Ba sa tiếp theo như: ngưỡng chết của cá  
hương, giống, thịt hay các nghiên cứu về chỉ tiêu sinh lí của cá Ba sa.  
- Đóng góp phát triển kinh tế xã hội: Đây là đối tượng nuôi mới có thể nuôi  
ở các vùng nước lợ hoặc nhiễm mặn.  
- Đóng góp bảo vệ môi trường: Góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi, giúp  
cân bằng sinh thái, tận dụng những vùng đất hoang hóa.  
2
   
CHƢƠNG 2  
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU  
2.1.  
Sơ lƣợc về cá Ba sa  
2.1.1.Đặc điểm sinh học của cá Ba sa  
2.1.1.1.  
Hệ thống phân loại  
Theo (Itis.gov, 2014) cá Ba sa được phân loại như sau:  
Tổng bộ: Ostariophysi  
Bộ :  
Họ :  
Siluriformes  
Pangasiidae (Bleeker, 1858)  
Giống: Pangasius (Valenciennes, 1840)  
Loài: Pangasius bocourti (Sauvage, 1880)  
Hình 1. Cá Ba sa (Pangasius bocourti)  
2.1.1.2. Đặc điểm phân bố  
Cá Ba sa là loài phân bố rộng trong tự nhiên cá được tìm thấy ở các nước: Myanma,  
Java, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam. Cá sống chủ yếu ở những sông rộng, nơi có  
nước chảy mạnh (Mai Đình Yên, Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Thiện, Lê  
Hoàng Yến và Ha Bch Loan, 1992).  
năm trước đây khi chưa có cá sinh sản nhân tạo, cá bột và cá giống tra và Ba sa  
được vớt trên sông Tiền và sông Hậu.  
2.2.2. Đặc điểm dinh dƣỡng và sinh trƣởng(fishbase)  
Tỷ số Li/Lt trung bình ở hai nhóm kích thước cá khảo sát (từ 24 – 50 và từ 50 – 72  
cm) có khác nhau có biến động không lớn từ 2,52 – 2,74. Điều này cho thấy trong  
3
         
điều kiện môi trường sống khác nhau (bè, ao, sông) hay điều kiện thức ăn khác  
nhau (thức ăn chế biến, thức ăn tự nhiên) chỉ số Li/Lt cũng khác nhau. Như vậy, cá  
Ba sa có tính ăn tạp khá rõ. Thành phần thức ăn có tính đa dạng về động vật và có  
lẫn thêm thức ăn thực vật trong dạ dày của cá. Kết quả khảo sát: các loại thức ăn có  
trong dạ dày của cá Ba sa gồm cá, tôm, cua, thân mềm, trái cây, lá cây (Nguyễn  
Văn Thường, 2009).  
Đối vi cá Ba sa, ương cá bột trên bể xi măng với thức ăn là moina hoặc u trùng  
artemia, sau 1 tun cung cp bsung thêm trùng ch. Sau 2 tun chuyn cá xung  
ương trong ao đất hoặc sang thưa ương trong bể. Thức ăn là moina + trùn chỉ +  
thức ăn chế biến (cá tươi xây nhuyễn và cám) cho đến khi 2 tháng tuổi. Sau đó cá  
ging tiếp tục được ương nuôi trong bè cỡ nhtrong khong 4-5 tháng, khi cá đạt  
c10-15 con/kg schuyển sang nuôi bè. Đối vi cá Ba sa ging nhthu gom ttự  
nhiên vi ccá 5-6 g/con, sau khi thu mua hoc đánh bắt vcần ương tiếp trong bè  
nh3-4 tháng cho đến khi đạt c80-100g/con mới đưa vào nuôi cá thịt (Phạm Văn  
Khánh, 2003).  
Theo Lê Thanh Hùng (2009) nhu cu protein ca cá Ba sa ở giai đoạn ging 15-20g  
mức năng lượng 20 kJ/kg có giá trlà 27,8% và nhu cầu Protein tương đối là 16,6g  
protein/kg cá/ngày.  
2.2.3. Đặc điểm sinh sản  
Trong tnhiên, có 2 qun thể cá Ba sa di cư sinh sản ở 2 hướng khác nhau, Lào  
và Thái Lan thi gian di bắt đầu di cư sinh sản tháng 5 - 9 khi mực nước sông  
Mekong bắt đầu tăng lên tương ứng vi thời gian đầu mùa lũ. Ở Vit Nam và  
Campuchia thi gian di cư sinh sản trên 6 tháng và thời điểm chính để di cư sinh  
sn là khong thi gian tháng 6 7, cá di cư theo từng nhóm nhkhong 60-80 cá  
th(Chhea, 2000).  
Hơn nữa, tui thành thc t3-4 tui. Trong tnhiên vào mùa sinh sn (tháng 3-4  
âm lịch hàng năm) cá bơi ngược dòng tìm các bãi đẻ thích hợp và đẻ trng, hsố  
thành thc ca cá (nuôi vỗ trong ao và bè) đạt 4,03-6,2%, sc sinh sản đạt ti  
67.000 trứng (cá 7 kg), đường kính trng t1,7-2,2 mm. Trước đây, cá Ba sa giống  
hoàn toàn vt ngoài tnhiên bng câu hoc các hình thc thu bt cá giống khác để  
ương thành giống ln và cung cấp cho các bè khác để ương thành giống ln và  
cung cp cho các bè nuôi tht. Từ năm 1999 mt số cơ quan nghiên cứu: Trường  
Đại hc Cần Thơ, Viện nghiên cu nuôi trng Thusn II, Công ty AGIFISH An  
Giang đã nghiên cứu và sn xut thành công vic nuôi vthành thc cá bmcho  
đẻ nhân tạo cá Ba sa, đã mở ra trin vng chủ động con ging nuôi cá Ba sa (Phm  
Văn Khánh, 2003).  
4
 
2.2.  
Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc  
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc  
Một số n  
ảnh hưởng của độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của một  
số loài cá nước ngọt khác như cá tra, bống tượng đã được nghiên cứu và bước đầu  
ứng dụng thử nghiệm. Đối với cá Tra (Pangasianodon hypopthalmus) ương cá bột  
ở nồng độ muối 2 ‰ – 4 ‰ cho tỷ lệ sống cao nhất và tăng trưởng tốt khi ương  
trong nước ngọt (Huỳnh Thị Minh Tuyền và Trịnh Thị Thanh Hòa, 2009). Mt  
nghiên cứu khác về ảnh hưởng của độ mặn lên sinh lý và tăng trưởng cá tra  
(Pangasianodon hypophthalmus) có khối lượng trung bình 23,5 g cho thấy cá đạt  
tốc độ tăng trưởng cao nhất ở 9 ‰ và tỷ lệ sống cao nhất 12 ‰ sau 90 ngày ương  
(Nguyễn Chí Lâm, Đỗ Thị Thanh Hương, Vũ Nam Sơn và Nguyễn Thanh Sơn,  
2010). Từ hai nghiên cứu này cho thấy cá tra thích nghi rộng muối đặc biệt giai  
đoạn trưởng thành, cá càng lớn khả năng chịu độ mặn càng cao. Với cá bống tượng  
(Oxyeleotris marmoratus) ở kích thước (12,2 ± 3,24) gam/con có tốc độ tăng trưởng  
cao nhất ở độ mặn 10 ‰, nhưng tỷ lệ sống đạt cao nhất ở độ mặn 5 ‰ (Huỳnh Hiếu  
Lộc và Đỗ Thị Thanh Hương, 2010). Đồng thời về ảnh hưởng của độ mặn, nghiên  
cứu về tiêu hao oxy và tiêu hóa thức ăn cũng trên đối tượng Oxyeleotris  
marmoratus cho thấy độ mặn 5 ‰ là tốt nhất cho cá phát triển, đồng thời với kết  
luận thời gian tiêu hóa thức ăn sẽ tăng khi độ mặn tăng (Nguyễn Thị Nhất Phương  
và Đỗ Thị Thanh Hương, 2010). Đối với độ mặn ương ấu trùng cá đối (Liza  
subviridis) là loài thích nghi rộng cả ở môi trường ngọt, lợ, mặn thì tốc độ tăng  
trưởng và tỷ lệ sống đạt tốt nhất ở 20 ‰ – 30 ‰, ấu trùng chết hoàn toàn sau 4 - 8  
ngày ở 5 ‰ (Lê Quốc Việt, Trần Ngọc Hải và Nguyễn Anh Tuấn, 2010). Hay một  
nghiên cứu khác của Cao Mỹ Án, Lê Quốc Việt, Lý Văn Khánh và Trần Ngọc Hải  
(2011) “Ảnh hưởng của độ mặn lên tăng trưởng, tỷ lệ sống và khả năng thành thục  
của cá Ngát (Plotosus canius)” nghiệm thức gồm các độ mặn khác nhau: 0, 15, 30  
, cá ngát có khối lượng ban đầu 5,16 gram/con được bố trí ngẫu nhiên với mật độ  
30con/bể. Cá được xác định tăng trưởng và tỷ lệ sống 1 lần/tháng và sau 10 tháng  
nuôi xác định giai đoạn thành thục. Kết quả cho thấy, tăng trưởng và tỷ lệ sống cao  
nhất ở nghiệm thức có độ mặn 30 ‰, đạt 124,7 ± 6,33 gram và 96,6%. Hệ số thành  
thục trung bình của cá cái dao động từ 0,276 - 0,567% và 0,042 – 0,075% đối với  
cá đực, tương ứng với tuyến sinh dục của cá cái ở giai đoạn I – III. Tương tự,  
“Nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn lên tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá dìa  
(Siganus guttatus)” Kết quả cho thấy ở các nghiệm thức 5, 10, 15, 20, 25 ‰.  
Ngưỡng độ mặn thích hợp để ương cá dìa là 15 ‰. Tuy nhiên, giai đoạn nuôi cá  
thương phẩm độ mặn không có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng cũng như tỷ lệ  
sống của cá (Nguyễn Tử Minh, Nguyễn Văn Huy, Hoàng Nghĩa Khang và Hồ Hiền  
Quyên, 2011). Từ những nghiên cứu này về các đối tượng nuôi từ thích nghi thiên  
về nước ngọt như cá tra, bống tượng đến thích nghi thiên về nước mặn như cá đối,  
cá dìa hay cá có độ rộng muối như cá ngát, các tác giả đưa ra kết luận chung nhất  
đó là khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu, khả năng thích nghi nồng độ muối, các  
5
   
đối tượng nuôi có một điểm đẳng áp và khả năng nhất định về điều hòa nồng độ  
muối trong cơ thể, từ đó mà tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống cũng biến đổi theo các  
độ mặn khác nhau khi ương.  
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc  
Nghiên cứu “Ảnh hưởng của độ mặn đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của giống  
Pangasius” được 40 ngày tuổi có khối lượng tương ứng là 1,1 g và được bố trí trong  
bể composite với mật độ 9 cá thể trên bể 50 lít và độ mặn bố trí thí nghiệm là 3, 5,7,  
9, 11 và 13 ‰, sau 27 ngày bố trí độ mặn đã được nâng lên với các nghiệm thức  
tương đương với độ mặn như sau: 3, 13, 18, 20, 22, 24 ‰. Kết quả thí nghiệm cho  
thấy, tỷ lệ sống 100% sau 63 ngày ương ở nghiệm thức 3 ‰, 100% sau 51 ngày  
ương ở nghiệm thức 13 ‰ và 100 % sau 22 ngày ương ở nghiệm thức 18 và 20 ‰  
và 80% cá chết sau 3 ngày ương ở độ mặn 24 ‰, 60% cá chết sau 9 ngày ương ở  
nghiệm thức 22 ‰. Thí nghiệm cho thấy không có sự khác biệt về khối lượng ở  
nghiệm thức 3 và 13 ‰. Kết quả thí nghiệm cho thấy rằng cá tăng trưởng tốt ở 13  
‰ và cá bị ảnh hưởng xấu khi ương ở độ mặn trên 13 ‰ (Raquel Castañeda,  
Michael McGee, Mario Velases, 2010).  
Một nghiên cứu khác “Ảnh hưởng của độ mặn ở các giai đoạn phát triển của cá  
Heterobranchus longifilis”sự thích nghi độ mặn của trứng thụ tinh, giai đoạn noãn  
hoàng, cuối thời kỳ noãn hoàng, cá hương và cuối thời kỳ cá hương. Thí nghiệm  
được bố trí ở các độ mặn như sau: 0, 1,5; 3,0; 4,5; 6; 7,5; 9,0; 10,5; 12; 13,5 và 15  
‰. Kết quả thí nghiệm cho thấy tỷ lệ khả năng nở tại thời điểm đầu khi bắt đầu nở  
cao nhất (75%) ở nghiệm thức 3 ‰. Tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa so với  
nghiệm thức 0 ‰ (71%) và 1,5 ‰ (74%). Ở thời điểm cuối ở giai đoạn cá nở, thí  
nghiệm cho thấy tỷ lệ nở cao nhất ở nghiệm thức 0 ‰ với (88%) và theo sau là các  
nghiệm thức 1,5, 3, 4,5, 6 và 7,5 ‰ với phần trăm theo thứ tự là 81%, 78%, 73%,  
69% và 53%. Trứng thụ tinh, cá bột, cá hương, giai đoạn cuối của cá hương khả  
năng chịu đựng được độ mặn thấp, ở giai đoạn cá hương và cuối giai đoạn cá hương  
có sức chịu đựng là trên 6 . Ngoài ra, khi ương ở độ mặn này giúp cá phòng ngừa  
được một số bệnh (H.A. Fashina-Bombataa và A.N. Busarib, 2003).  
Một thí nghiệm tương tự “Độc chất của đồng thông qua độ mặn” Thí nghiệm 1  
được tiến hành trong 30 ngày với cá loài Fundulus heteroclitus ở các độ mặn 0 ‰  
(nghiệm thức đối chứng), 5, 11, 22 và 28 ‰ với 3 nồng độ đồng như sau: 0, 30 và  
150 g/đồng/lít. Tỷ lệ chết giảm ở độ mặn trung bình và tăng cao ở nghiệm đối  
chứng và nghiệm thức cao 28 ‰. Khi thu mẫu kiểm tra cho thấy Na+/ K+ adenosine  
triphosphatase (Na+/K+ ATPase) and carbonic anhydrase (CA) hiện ở trong mang,  
ruột cũng như Na+và Cl- hiện diện trong toàn bộ cơ thể. Ở nghiệm thức có hàm  
lượng đồng cao ghi nhận được hàm lượng Na+ giảm sau 4 ngày, ở nghiệm thức FW  
chỉ ảnh hưởng đến thông số sinh lí. Thí nghiệm 2 đánh giá tác hại của đồng trong  
24 giờ ở các nghiệm FW, 5, 13 và 29 ‰ (SW) với 2 nồng độ đồng như sau: 0 và  
110 g/đồng/lít. Thêm vào đó, amonia thay đổi liên tục được đo ở tất cả các nghiệm  
thức độ mặn và Na+ biến đổi ở nghiệm thức FW. Như vậy, đồng đã ảnh hưởng đến  
6
 
ion ở nghiệm thức FW, cũng ở nghiệm thức này hàm lượng ion Na+ giảm sự hấp  
thu với sự kiềm chế (Na+/K+ ATPase) làm giảm Na+ trong toàn bộ cơ thể cá sau 24  
giờ. Trong khi đó, ở các nghiệm thức còn lại đồng không ảnh hưởng gây độc cho  
cá. Từ kết quả thí nghiệm ta thấy được sinh lí của cá chịu ảnh hưởng rõ hơn bởi đặc  
tính hóa học của độc chất đồng thông qua nồng độ muối khác nhau (Jonathan  
Blanchard và Martin Grosell, 2006).  
2.3. Một số nghiên cứu liên quan đến chỉ tiêu LC50  
2.3.1. Định nghĩa LC50  
LC50 là nồng độ gây chết 50% cá thể của các chất hóa học trong không khí và  
nước. LC50 được kiểm tra qua thực nghiệm bằng cách cho sinh vật hít vào lượng  
nồng độ chất hóa học trong không khí sẽ gây chết 50% cá thể thí nghiệm trong  
khoảng thời gian đưa ra (thường là 4 ngày). LC50 là chỉ tiêu kiểm tra rất quan  
trọng, bởi vì chất hóa học có thể ảnh hưởng lên sức khỏe của động vật trong một  
giới hạn nhất định. Có nhiều loại chất độc được kiểm tra. Chất hóa học khác nhau  
sẽ dẫn đến gây độc khác nhau. LC50 là cách thức kiểm tra để đo lường hàm lượng  
chất độc là bao nhiêu gây chết. Đồng thời nó sẽ cho biết ảnh hưởng sẽ xảy ra hay  
2.3.2.Độc tính cấp  
Độc tính cấp được định nghĩa là độc tính diễn ra trong thời gian phơi nhiễm ngắn.  
Độc tính cấp trong môi trường thường liên quan đến tai nạn (ví dụ: sự rò rỉ của hóa  
chất vào trong một con sông do tai nạn của một tàu chở hóa chất) hoặc sự bất cẩn  
trong việc sử dụng hóa chất (ví dụ: sự phun hóa chất của các máy bay nhưng không  
đúng mục tiêu). Các giới hạn xả thải được đưa ra dựa vào chất thải công nghiệp  
hoặc chất thải sinh hoạt, khi được tuân thủ, thường thành công trong việc bảo vệ  
sinh vật trong các vùng tiếp nhận khỏi bị độc tính cấp. Độc tính cấp của một chất  
thường được đánh giá qua giá trị LC50 hoặc LD50. Những thông số này thường có  
ý nghĩa thống kê để đánh giá độc tính cấp tương đối của độc chất. LC50 và LD50  
biến động đối với sinh vật trong nước và trong đất theo thứ tự. Độc tính cấp của các  
độc chất môi trường được xác định qua thí nghiệm với sự lựa chọn các loài đại diện  
trong hệ thống sinh thái. Ví dụ: động vật có vú, chim, cá, động vật không xương  
sống, thực vật có mạch, tảo (Lê Quốc Tuấn, 2007).  
2.3.3 Nghiên cứu LC50 của một số độc chất trong nuôi trồng thủy sản  
Hiện nay chưa có nghiên cứu nào về chỉ số LC50 ở khác độ mặn cho cá hay các  
sinh vật khác nhau. Tuy nhiên, có rất nhiều nghiên cứu về chỉ tiêu LC50 ở các độc  
chất khác nhau ở một số loài sinh vật như sau:  
Đề tài: “Ảnh hưởng của nitrite lên các chỉ tiêu sinh lý trên cá tra (Pangasianodon  
hypophthalmus)” ở giai đoạn giống (15–20 g) Thí nghiệm xác định giá trị LC50-96  
giờ được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 8 nghiệm thức từ 50 đến 140 mg NO2-N  
7
       
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 52 trang yennguyen 04/04/2022 8620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Thử nghiệm khả năng thích nghi độ mặn của cá basa (Pangasius bocourti) bột, hương, giống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfde_tai_thu_nghiem_kha_nang_thich_nghi_do_man_cua_ca_basa_pan.pdf