Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại Bệnh viện Sản nhi Bắc Giang

TNU Journal of Science and Technology  
225(11): 215 - 220  
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC LÂM SÀNG BỆNH HO GÀ Ở TRẺ EM  
ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI BẮC GIANG  
Nguyễn Thị Kim Thoa*1, Nguyễn Đình Học1,  
Nguyễn Thị Lê2, Bùi Thị Thu Hương2, Đỗ Thái Sơn1  
1Trường Đại học Y Dược – ĐH Thái Nguyên,  
2Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang  
TÓM TẮT  
Bài báo mô tả đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại Bệnh viện Sản Nhi  
Bắc Giang. Nghiên cứu mô tả hồi cứu được thực hiện trên 48 bệnh nhi mắc ho gà điều trị tại Bệnh  
viện Sản Nhi Bắc Giang từ năm 2016- 2020. Kết quả cho thấy bệnh ho gà thường gặp ở trẻ ≤ 3  
tháng tuổi. Bệnh xảy ra rải rác quanh năm nhưng gặp nhiều ở các tháng từ tháng 3 đến tháng 10.  
Đa số trẻ bị phơi nhiễm với nguồn lây ho gà là không rõ nguyên nhân (83,3%). Trẻ thường nhập  
viện trong tuần đầu tính từ ngày khởi phát triệu chứng đầu tiên (60,4%). Tỷ lệ bệnh nhi mắc ho gà  
ở thể không nặng là 54,2%, ở thể nặng là 45,8%. Biểu hiện lâm sàng thường gặp là ho cơn đỏ mặt,  
ho cơn kịch phát và chảy mũi. Các biến chứng của ho gà thường gặp là viêm phế quản phổi  
(87,5%), suy hô hấp (43,8%), tiếp đến là xuất huyết (2,1%).  
Từ khóa: Bệnh ho gà; dịch tễ học; lâm sàng ; biến chứng; Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang  
Ngày nhận bài: 22/10/2020; Ngày hoàn thiện: 30/10/2020; Ngày đăng: 31/10/2020  
CLINICAL EPIDEMIOLOGICAL CHARACTERS OF PERTUSSIS AT  
CHILDREN AT BAC GIANG WOMEN’S AND CHILDREN’S HOSPITAL  
Nguyen Thi Kim Thoa*1, Nguyen Dinh Hoc1,  
Nguyen Thi Le2, Bui Thi Thu Huong2, Do Thai Son1  
1TNU University of Medicine and Pharmacy,  
2Bac Giang Women’s and Children’s Hospital  
ABSTRACT  
To describe the clinical epidemiological character of pertussis at children at Bac Giang Women’s  
anhd Children’s Hospital from 2016 to 2020. A retrospective descriptive study was carried out on  
48 children suffering from pertussis treated at Bac Giang Women’s and Children’s Hospital from  
2016 to 2020. Results showed the age group of ≤ 3 months was accounted for most cases. The  
disease occurred around year but concentrated from March to October. The source of infection of  
the disease was not unclear (83.3%). The day of hospitalization was always in the first week of  
illness (60.4%). The percentage of pertussis patients in non-severe was 54.2%, in severe form was  
45.8%. The most frequent symptoms of pertussis were coughing bout blush, long duration  
paroxysmal cough and rhinorrhea. Most complications of pertussis in children were pneumonia  
(87.5%), respiratory failure (43.8%) and hemorrhage (2.1%).  
Keywords: Pertussis; epidemiology; clinical symptoms; complication; Bac Giang Women’s and  
Children’s Hospital  
Received: 22/10/2020; Revised: 30/10/2020; Published: 31/10/2020  
* Corresponding author. Email: dr.kimthoanguyen@gmail.com  
215  
Nguyễn Thị Kim Thoa Đtg  
1. Đặt vấn đề  
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN  
225(11): 215 - 220  
Tất cả các trường hợp dưới 16 tuổi được chẩn  
đoán mắc ho gà tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc  
Giang.  
Ho gà là bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp  
tính gây ra bởi vi khuẩn Bordetella pertussis,  
có khả năng lây nhiễm cao và là một trong  
những bệnh gây tử vong nhiều trong các loại  
bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc xin.  
Mặc dù đã có vắc xin phòng bệnh nhưng trên  
thế giới bệnh vẫn chưa hoàn toàn được kiểm  
soát và có thể gây tử vong, đặc biệt là trẻ nhỏ  
[1]. Theo ước tính của WHO, trong năm  
2008, toàn thế giới có khoảng 16 triệu người  
mắc bệnh ho gà trong đó có 195.000 trẻ em tử  
vong, hầu hết là ở các nước đang phát triển.  
Tại Mỹ, năm 2012, có tổng số 48.000 trường  
hợp ho gà được báo cáo, trong đó có 20  
trường hợp tử vong chủ yếu ở trẻ dưới ba  
tháng tuổi [2]. Tại Việt Nam, mặc dù trẻ em  
đã được tiêm phòng theo chương trình tiêm  
chủng mở rộng quốc gia nhưng bệnh vẫn tái  
xuất hiện và thường gặp ở trẻ dưới 6 tháng  
tuổi. Tại Bệnh viện Nhi Trung ương, từ năm  
2012 - 2014, có 226 trẻ mắc ho gà với tỉ lệ tử  
vong là 2,8%, 5% ở thể ho gà nặng [3], [4].  
Tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang, trong  
những năm gần đây nhờ áp dụng phương  
pháp xét nghiệm PCR ho gà vào trong chẩn  
đoán đã giúp phát hiện và điều trị được nhiều  
ca bệnh mắc ho gà. Tuy nhiên, có những thể  
bệnh không điển hình trên lâm sàng cũng có  
thể khiến bác sĩ bỏ sót bệnh. Nghiên cứu này  
được thực hiện nhằm đánh giá các đặc điểm  
dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh ho  
gà ở trẻ em tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang  
giai đoạn 2016 – 2020.  
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu  
Thời gian thu thập số liệu: Từ tháng 1 năm  
2020 đến tháng 8 năm 2020.  
Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Sản Nhi Bắc  
Giang.  
2.3. Phương pháp nghiên cứu  
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.  
2.3.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu  
Cỡ mẫu: Tất cả các đối tượng dưới 16 tuổi  
được chẩn đoán và điều trị ho gà tại Bệnh  
viện Sản Nhi Bắc Giang.  
Chọn mẫu: thuận tiện.  
2.3.3. Kỹ thuật thu thập số liệu: Số liệu được  
thu thập từ bệnh án qua mẫu phiếu nghiên cứu  
in sẵn.  
2.4. Quản lý, xử lý và phân tích số liệu  
Số liệu sau khi thu thập, được làm sạch và  
nhập vào máy tính bằng phần mềm Epidata  
3.1, sau đó được xử lý và phân tích số liệu  
trên phần mềm SPSS 22.0.  
2.5. Đạo đức trong nghiên cứu  
Nghiên cứu đã được Hội đồng Y đức, trường  
Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên  
thông qua và chấp nhận.  
3. Kết quả và bàn luận  
3.1. Kết quả  
Khảo sát trên 48 bệnh nhi được chẩn đoán ho  
gà tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang từ  
01/01/2016 đến 31/07/2020.  
2. Phương pháp nghiên cứu  
2.1. Đối tượng nghiên cứu  
Bảng 1. Phân bố bệnh ho gà theo tuổi và giới (n = 48)  
Tuổi  
≤ 3 tháng  
Từ 4 tháng - ≤ 9 tuổi  
Số lượng (SL)  
Tỉ lệ (%)  
54,2  
Tuổi  
26  
22  
22  
26  
48  
45,8  
45,8  
54,2  
100  
Nam  
Nữ  
Giới tính  
Tổng  
Nhận xét: Bảng 1 cho kết quả bệnh gặp chủ yếu ở nhóm trẻ dưới 3 tháng, với tỷ lệ 54,2%. Tuổi  
nhỏ nhất của nhóm trẻ bị ho là 7 ngày tuổi, lớn nhất là 60 tháng. Bệnh nhi nam chiếm 45,8%  
(22/48), nữ chiếm 54,2% (49/108). Tỷ lệ nam nữ xấp xỉ 1/1.  
216  
Nguyễn Thị Kim Thoa Đtg  
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN  
225(11): 215 - 220  
Hình 1. Phân bố bệnh theo các tháng trong năm (n = 48)  
Nhận xét: Hình 1 cho kết quả tỷ lệ bệnh nhi mắc ho gà rải rác ở các tháng trong một năm. Tháng  
3 và tháng 7 có tỷ lệ mắc ho gà cao nhất, chiếm 22,9% và 14,6%.  
Bảng 2. Tình trạng bị phơi nhiễm với người bệnh bị ho gà  
Tình trang bị phơi nhiễm với nguồn lây  
SL  
8
40  
48  
Tỉ lệ (%)  
16,7  
Cộng đồng  
Không rõ  
Tổng  
83,3  
100  
Nhận xét: Bảng 2 cho thấy có 83,3% (40/48) trẻ bị phơi nhiễm với nguồn lây là không rõ nguyên  
nhân. Tình trạng bị phơi nhiễm nguồn lây ở cộng đồng chiếm 16,7%.  
Bảng 3. Thời gian nhập viện theo ngày khởi phát triệu chứng đầu tiên  
Thời gian nhập viện  
< 7 ngày  
7 14 ngày  
> 14 ngày  
SL  
29  
18  
1
Tỉ lệ (%)  
60,4  
37,5  
2,1  
Tổng  
48  
100  
Nhận xét: Số liệu nêu trong bảng 3 cho thấy theo ngày khởi phát triệu chứng đầu tiên, thời gian  
nhập viện dưới 7 ngày chiếm 60,4%, từ 7 - 14 ngày chiếm 37,5%.  
Bảng 4. Phân bố bệnh theo thể bệnh  
Thể bệnh  
Thể không nặng  
Thể nặng  
SL  
26  
22  
48  
Tỉ lệ (%)  
54,2  
45,8  
100  
Tổng  
Nhận xét: Bảng 4 cho kết quả trong số 48 bệnh nhi mắc ho gà, có 45,8% trẻ mắc với thể nặng,  
54,2% trẻ bị bệnh ở thể không nặng.  
Bảng 5. Các biểu hiện lâm sàng của bệnh ho gà theo các nhóm tuổi  
≤ 3 tháng (n = 26) Từ 4 tháng đến ≤ 9 tuổi (n = 22)  
Tổng (n = 48)  
Đặc điểm  
Chảy mũi  
SL  
26  
26  
24  
17  
1
5
22  
16  
%
SL  
20  
22  
21  
7
%
SL  
46  
48  
45  
24  
2
15  
39  
28  
%
100  
100  
92,3  
65,4  
3,8  
19,2  
84,6  
61,5  
90,9  
100  
95,5  
31,8  
4,5  
45,5  
77,3  
54,5  
95,8  
100  
93,8  
50  
Ho cơn kịch phát  
Ho cơn đỏ mặt  
Ho cơn có tím  
Cơn ngừng thở  
Tiếng rít sau ho  
Nôn sau ho  
1
4,2  
10  
17  
12  
31,3  
81,3  
58,3  
Tăng tiết đờm dãi  
217  
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn  
Nguyễn Thị Kim Thoa Đtg  
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN  
225(11): 215 - 220  
Nhận xét: Bảng 5 cho kết quả 100% bệnh nhi  
có cơn ho kịch phát, 95,8% trẻ có chảy mũi;  
93,8% ho cơn đỏ mặt; với trẻ dưới 3 tháng tỉ  
lệ trẻ ho cơn có tím, nôn sau ho cao hơn trẻ từ  
4 tháng trở lên (tương ứng 65,4% với 31,8%  
và 84,6% với 77,3%). Riêng tiếng thở rít thì  
gặp nhiều hơn (45,5%) ở trẻ từ 4 tháng trở lên  
(trẻ < 3 tháng chỉ 19,2%).  
Wales đều cho thấy bệnh thường xuất hiện  
cao điểm từ tháng 4 đến tháng 9 [6]. Tại Việt  
Nam, theo báo cáo thông kê bệnh truyền  
nhiễm từ năm 1984 đến 2014, tỷ lệ mắc ho gà  
được báo cáo luôn cao nhất trong khoảng thời  
gian từ tháng 4 đến tháng 8 [7]. Cũng giống  
như mô hình chung tại Việt Nam cũng như  
trên thế giới, các trường hợp mắc bệnh ho gà  
ở nghiên cứu của chúng tôi cũng tập trung chủ  
yếu vào các tháng từ tháng 3 đến tháng 10, cao  
nhất là tháng 3 và tháng 7. Tuy nhiên điều này  
khác với nhận xét trong y văn, là các tháng  
chuyển mùa từ Đông sang Xuân. Sự khác nhau  
này có thể do sự khác biệt về mặt địa lý và đặc  
điểm khí hậu khác nhau giữa các nước.  
Bảng 6. Các biến chứng của ho gà  
Các biến chứng  
Viêm phổi  
Suy hô hấp  
Xuất huyết  
SL  
42  
21  
1
Tỉ lệ (%)  
87,5  
43,8  
2,1  
Nhận xét: Bảng 6 cho kết quả biến chứng  
viêm phế quản phổi chiếm 87,5% và suy hô  
hấp 43,8%, biến chứng ít gặp hơn là xuất  
huyết chiếm 2,4%, ngoài ra không gặp các  
biến chứng co giật, viêm não trong nhóm  
nghiên cứu.  
Nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra rằng có  
tới 83,3% tình trạng bệnh nhi bị phơi nhiễm  
với nguồn lây ho gà là không rõ nguyên nhân.  
Phân tích về nguồn lây cho thấy nguồn lây  
chủ yếu là thành viên trong gia đình có tiếp  
xúc gần gũi với trẻ. Tỷ lệ nghiên cứu của  
chúng tôi khác với nghiên cứu của Hoàng Thị  
Thu Hà: mẹ là nguồn lây hay gặp nhất  
(52,9%), tiếp theo là bố (19,6%), những  
người không sống cùng nhà (9,8%) [4]. Kết  
quả này của nghiên cứu đặt ra một vấn đề  
rằng các trẻ mắc bệnh trong nghiên cứu còn  
quá nhỏ tuổi, khả năng tiếp xúc trực tiếp với  
nhau để lây bệnh là rất thấp, vậy nguồn lây  
cho những trẻ này từ đâu ra, rất có thể đó là từ  
những người ở lứa tuổi lớn hơn. Một nghiên  
cứu tại Mỹ về chứng ho gà kéo dài ở thanh  
thiếu niên và người lớn cũng đã cho thấy 13%  
đến 20% là kết quả của nhiễm trùng ho gà.  
Nghiên cứu huyết thanh học cho thấy tỷ lệ  
nhiễm ho gà ở thanh thiếu niên và người lớn  
xấp xỉ 2,0% mỗi năm [6]. Điều này cho thấy  
ngoài việc quan tâm đến trẻ bị mắc bệnh,  
chúng ta cũng cần quan tâm đến lứa tuổi  
thanh thiếu niên và người lớn vì có thể đây  
mới chính là nguồn lây cho trẻ nhỏ và cộng  
đồng. Qua đó có thể thấy để tìm được nguồn  
lây nhiễm ho gà ở trẻ nhỏ rất khó. Những ca  
không xác định được nguồn lây nhiễm có thể  
do phơi nhiễm với người ho gà nhẹ hoặc  
3.2. Bàn luận  
Theo kết quả nghiên cứu, tỷ lệ mắc ho gà ở  
trẻ ≤ 3 tháng cao, chiếm 54,2% tổng số trẻ  
mắc ho gà trong thời gian nghiên cứu. Bệnh  
có thể khởi phát sớm ngay trong tuần đầu sau  
đẻ. Trẻ dưới 3 tháng tuổi có tỷ lệ mắc cao vì  
đây là lứa tuổi chưa được tiêm phòng ho gà,  
hoặc mới tiêm phòng mũi 1 trong khi đó miễn  
dịch của mẹ với bệnh ho gà có thể thấp không  
đủ giúp trẻ phòng được bệnh này trong giai  
đoạn đầu đời. Kết quả này tương đồng với  
một số nghiên cứu gần đây của Phạm Quang  
Thái và Hoàng Thị Thu Hà tại Bệnh viện Nhi  
Trung ương [4], [5]. Đây là nhóm chưa có  
miễn dịch hoặc miễn dịch chưa đầy đủ do  
chưa đến tuổi tiêm chủng trong khi miễn dịch  
từ mẹ có thể không đủ hoặc chưa tiêm đủ liều  
vắc xin. Điều này gợi ý cho việc có thể phải  
tiêm phòng vắc xin ho gà cho bà mẹ trong  
thời kỳ mang thai/ tuổi sinh đẻ hoặc nghiên  
cứu thay đổi lịch tiêm chủng để những trẻ nhỏ  
có cơ hội được tiếp xúc với vắc xin sớm hơn.  
Ho gà là bệnh truyền nhiễm với chu kỳ dịch  
khoảng từ 2 - 5 năm. Các ca bệnh tập trung  
chủ yếu vào cuối mùa Hè và đầu mùa Thu.  
Các nghiên cứu tại Mỹ, Ma rốc, Anh và xứ  
218  
Nguyễn Thị Kim Thoa Đtg  
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN  
225(11): 215 - 220  
không biết mắc ho gà với các cơn ho rất nhẹ  
cũng là thách thức chẩn đoán cho nhân viên y  
tế vì triệu chứng không điển hình và xét  
nghiệm chẩn đoán có độ nhạy thấp.  
hợp tình hình ho gà trên thế giới cho thấy tỷ  
lệ ho gà được báo cáo thấp hơn khoảng 40  
đến 160 lần so với tỷ lệ bệnh thực tế. Trong  
đó nhiễm trùng ho gà không triệu chứng là  
phổ biến và cao gấp từ 4 đến 22 lần so với  
nhiễm trùng có triệu chứng. Do đó, việc sử  
dụng các kỹ thuật xét nghiệm kết hợp với  
triệu chứng lâm sàng sẽ giúp phát hiện sớm,  
không bỏ sót các trường hợp bệnh, đồng thời  
phòng tránh được các biến chứng nặng có thể  
xảy ra.  
Số liệu nêu trong bảng 3 cho thấy trẻ thường  
nhập viện vào tuần thứ nhất của bệnh  
(60,4%), đây thường là thời điểm cuối giai  
đoạn khởi phát bước sang giai đoạn toàn phát  
với triệu chứng ho điển hình xuất hiện khiến  
trẻ phải nhập viện. Kết quả nghiên cứu tương  
đồng với kết quả của Hoàng Thị Thu Hà và  
cộng sự [4], nhưng sớm hơn nghiên cứu của  
Đỗ Thiện Hải [3]. Thời gian nhập viện trung  
bình theo nghiên cứu của Bayhan và cộng sự  
là 11,6 ± 7 ngày. Kết quả này theo nghiên cứu  
ở trẻ sơ sinh là 6,8 ngày [8]. Điều này cho  
thấy có thể trẻ càng nhỏ thời gian khởi phát  
bệnh càng ngắn. Các đối tượng nghiên cứu  
của chúng tôi có tỷ lệ trẻ sơ sinh chiếm đa số,  
đây có thể là nguyên nhân gây thời gian nhập  
viện sớm hơn so với các nhóm bệnh nhi khác.  
Về các biến chứng thường gặp ở trẻ mắc ho  
gà, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy biến  
chứng thường gặp nhất là viêm phế quản phổi  
(87,5%) và suy hô hấp (43,8%). Kết quả này  
tương dương với nghiên cứu của Phạm Quang  
Thái và Đỗ Thiện Hải, Castaghini và Nieves  
cũng cho thấy trẻ mắc ho gà có tỷ lệ gặp các  
biến chứng đăc biệt là viêm phổi cao hơn và  
nặng hơn so với các nhóm mắc các căn  
nguyên khác [3], [5], [9]. Biến chứng viêm  
phổi có thể do bản thân vi khuẩn ho gà hoặc  
do đồng nhiễm các căn nguyên khác. Trong  
nghiên cứu của Hoàng Thị Thu Hà cho thấy  
có 14,2% bệnh nhân ho gà có biến chứng  
viêm phế quản phổi đồng nhiễm các vi khuẩn,  
vi rút khác. Trong đó hay gặp nhất là nhiễm  
Rhino virus chiếm 38,8%, ngoài ra còn gặp  
đồng nhiễm RSV, Adeno, Phế cầu, trực khuẩn  
mủ xanh… [4]. Biến chứng co giật, viêm não  
không tìm thấy ở nghiên cứu của chúng tôi.  
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ  
lệ bệnh nhi mắc ho gà ở thể không nặng là  
54,2%, ở thể nặng là 45,8%. Tỷ lệ thể nặng/  
thể không nặng xấp xỉ 1/1. Có thể thấy tỷ lệ  
bệnh nhi thể nặng trong nghiên cứu của chúng  
tôi cao hơn các nghiên cứu của Đỗ Thiện Hải  
(5%) [3], và của Castagini (tỷ lệ bệnh nhân  
nặng phải thở máy là 27%) [9].  
Triệu chứng phổ biến của các bệnh nhân  
trong nghiên cứu này là có cơn ho kịch phát,  
ho có đỏ mặt và chảy mũi. Kết quả này cũng  
khá tương đồng với nghiên cứu của Đỗ Thiện  
Hải [3] Nguyễn Thành Lê [10]. Các triệu  
chứng đặc hiệu cho ho gà nhưng tỷ lệ gặp ít  
hơn như thở rít sau ho (19,2%), nôn sau ho  
(84,6%) và cơn ngưng thở (3,8%) đối với  
nhóm tuổi ≤ 3 tháng. Tỷ lệ này ở nhóm tuổi  
từ 4 tháng trở lên lần lượt theo thứ tự là  
31,3%; 81,3% và 4,2%. Triệu chứng bệnh  
chính là chỉ điểm cho những gợi ý để chẩn  
đoán bệnh được chính xác. Tuy nhiên, việc  
dựa nguyên vào triệu chứng đôi khi sẽ bỏ sót  
các trường hợp bệnh, đặc biệt là những bệnh  
nhân có triệu chứng không điển hình. Tổng  
4. Kết luận  
Nghiên cứu cho thấy bệnh ho gà ở trẻ em vẫn  
là một vấn đề sức khỏe cần quan tâm. Kết quả  
cho thấy bệnh thường gặp ở trẻ dưới 3 tháng  
tuổi, không có sự khác biệt về giới tính. Bệnh  
xảy ra rải rác ở các tháng trong năm, tập trung  
từ tháng 3 đến tháng 10. Bệnh nhi thường  
nhập viện trong tuần đầu từ ngày khởi phát  
nên có khả năng lây nhiễm cộng đồng cao.  
Thể bệnh nặng trên lâm sàng chiếm tỷ lệ cao.  
Các biến chứng thường gặp nhất là viêm phổi  
(87,5%) và suy hô hấp (43,8%), tiếp đến là  
xuất huyết (2,1%).  
219  
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn  
Nguyễn Thị Kim Thoa Đtg  
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN  
225(11): 215 - 220  
Journal of Preventive Medicine, vol. 26, no.  
15, pp. 39-47, 2016.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES  
[1]. D. Bui, and H. T. Nguyen, Pertussis.  
Infectious Pathology. Medical Puslishing  
House, Ha Noi, 2009, pp. 219-225.  
[2]. WHO, “Immunization, Vaccines and  
Biologicals: Pertussis,” 2020. [Online].  
Available:  
[6]. J. D. Cherry, “The epidemiology of pertussis:  
a comparison of the epidemiology of the  
disease pertussis with the epidemiology of  
Bordetella pertussis infection,Pediatrics,  
vol. 115, no. 5, pp. 1422-1427, 2005.  
ussis/en/. [Accessed Sept. 25, 2020].  
[7]. Ministry of Health, Infectious disease  
statistics yearbook, 1984 - 2014.  
[3]. T. H. Do, T. H. Duong, and T. N. Do,  
Clinical, epidemiological characteristics of  
pertussis in children at the national pediatrict  
Hospital during 2012-2014,Vietnam Journal  
of Preventive Medicine, vol. 26, no. 6, pp. 35-  
44, 2016.  
[4]. T. T. H. Hoang, H. M. Hoang, and T. T. N.  
Phan, “Clinical epidemiological characters of  
pertussis at children aged from under 3  
months in Vietnam National Children’s  
Hospital,Vietnam Journal of Preventive  
Medicine, vol. 28, no. 6, pp. 93-101, 2019.  
[5]. Q. T. Pham, T. H. Nguyen, and V. K. Pham,  
“Epidemiological, clinical characters of  
pertussis and some related factors at National  
Hospital of Pediatric in 2015,Vietnam  
[8]. G. I. Bayhan, G. Tanir, and S. Nar-Otgun,  
“The clinical characteristics and treatment of  
pertussis patients in a tertiary center over a  
four-year period,The Turkish Journal of  
Pediatrics, vol. 54, no. 6, pp. 596-604, 2012.  
[9]. L. A. Castagnini, and F. M. Munoz, “Clinical  
characteristics and outcomes of neonatal  
pertussis: a comparative study,J. Pediatr,  
vol. 156, no. 3, pp. 498-500, 2010.  
[10]. T. L. Nguyen, and V. H. Bui, “Clinical  
characteristics and treatment results of  
children with Pertussis disease at National  
Hospital of Tropical Diseases,Vietnam  
Journal of Preventive Medicine, vol. 12, pp.  
77-83, 2015.  
220  
pdf 6 trang yennguyen 14/04/2022 1280
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại Bệnh viện Sản nhi Bắc Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_dich_te_hoc_lam_sang_benh_ho_ga_o_tre_em_dieu_tri_t.pdf