Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại Bệnh viện Sản nhi Bắc Giang
TNU Journal of Science and Technology
225(11): 215 - 220
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC LÂM SÀNG BỆNH HO GÀ Ở TRẺ EM
ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI BẮC GIANG
Nguyễn Thị Kim Thoa*1, Nguyễn Đình Học1,
Nguyễn Thị Lê2, Bùi Thị Thu Hương2, Đỗ Thái Sơn1
1Trường Đại học Y Dược – ĐH Thái Nguyên,
2Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang
TÓM TẮT
Bài báo mô tả đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại Bệnh viện Sản Nhi
Bắc Giang. Nghiên cứu mô tả hồi cứu được thực hiện trên 48 bệnh nhi mắc ho gà điều trị tại Bệnh
viện Sản Nhi Bắc Giang từ năm 2016- 2020. Kết quả cho thấy bệnh ho gà thường gặp ở trẻ ≤ 3
tháng tuổi. Bệnh xảy ra rải rác quanh năm nhưng gặp nhiều ở các tháng từ tháng 3 đến tháng 10.
Đa số trẻ bị phơi nhiễm với nguồn lây ho gà là không rõ nguyên nhân (83,3%). Trẻ thường nhập
viện trong tuần đầu tính từ ngày khởi phát triệu chứng đầu tiên (60,4%). Tỷ lệ bệnh nhi mắc ho gà
ở thể không nặng là 54,2%, ở thể nặng là 45,8%. Biểu hiện lâm sàng thường gặp là ho cơn đỏ mặt,
ho cơn kịch phát và chảy mũi. Các biến chứng của ho gà thường gặp là viêm phế quản phổi
(87,5%), suy hô hấp (43,8%), tiếp đến là xuất huyết (2,1%).
Từ khóa: Bệnh ho gà; dịch tễ học; lâm sàng ; biến chứng; Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang
Ngày nhận bài: 22/10/2020; Ngày hoàn thiện: 30/10/2020; Ngày đăng: 31/10/2020
CLINICAL EPIDEMIOLOGICAL CHARACTERS OF PERTUSSIS AT
CHILDREN AT BAC GIANG WOMEN’S AND CHILDREN’S HOSPITAL
Nguyen Thi Kim Thoa*1, Nguyen Dinh Hoc1,
Nguyen Thi Le2, Bui Thi Thu Huong2, Do Thai Son1
1TNU – University of Medicine and Pharmacy,
2Bac Giang Women’s and Children’s Hospital
ABSTRACT
To describe the clinical epidemiological character of pertussis at children at Bac Giang Women’s
anhd Children’s Hospital from 2016 to 2020. A retrospective descriptive study was carried out on
48 children suffering from pertussis treated at Bac Giang Women’s and Children’s Hospital from
2016 to 2020. Results showed the age group of ≤ 3 months was accounted for most cases. The
disease occurred around year but concentrated from March to October. The source of infection of
the disease was not unclear (83.3%). The day of hospitalization was always in the first week of
illness (60.4%). The percentage of pertussis patients in non-severe was 54.2%, in severe form was
45.8%. The most frequent symptoms of pertussis were coughing bout blush, long duration
paroxysmal cough and rhinorrhea. Most complications of pertussis in children were pneumonia
(87.5%), respiratory failure (43.8%) and hemorrhage (2.1%).
Keywords: Pertussis; epidemiology; clinical symptoms; complication; Bac Giang Women’s and
Children’s Hospital
Received: 22/10/2020; Revised: 30/10/2020; Published: 31/10/2020
* Corresponding author. Email: dr.kimthoanguyen@gmail.com
215
Nguyễn Thị Kim Thoa và Đtg
1. Đặt vấn đề
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN
225(11): 215 - 220
Tất cả các trường hợp dưới 16 tuổi được chẩn
đoán mắc ho gà tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc
Giang.
Ho gà là bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp
tính gây ra bởi vi khuẩn Bordetella pertussis,
có khả năng lây nhiễm cao và là một trong
những bệnh gây tử vong nhiều trong các loại
bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc xin.
Mặc dù đã có vắc xin phòng bệnh nhưng trên
thế giới bệnh vẫn chưa hoàn toàn được kiểm
soát và có thể gây tử vong, đặc biệt là trẻ nhỏ
[1]. Theo ước tính của WHO, trong năm
2008, toàn thế giới có khoảng 16 triệu người
mắc bệnh ho gà trong đó có 195.000 trẻ em tử
vong, hầu hết là ở các nước đang phát triển.
Tại Mỹ, năm 2012, có tổng số 48.000 trường
hợp ho gà được báo cáo, trong đó có 20
trường hợp tử vong chủ yếu ở trẻ dưới ba
tháng tuổi [2]. Tại Việt Nam, mặc dù trẻ em
đã được tiêm phòng theo chương trình tiêm
chủng mở rộng quốc gia nhưng bệnh vẫn tái
xuất hiện và thường gặp ở trẻ dưới 6 tháng
tuổi. Tại Bệnh viện Nhi Trung ương, từ năm
2012 - 2014, có 226 trẻ mắc ho gà với tỉ lệ tử
vong là 2,8%, 5% ở thể ho gà nặng [3], [4].
Tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang, trong
những năm gần đây nhờ áp dụng phương
pháp xét nghiệm PCR ho gà vào trong chẩn
đoán đã giúp phát hiện và điều trị được nhiều
ca bệnh mắc ho gà. Tuy nhiên, có những thể
bệnh không điển hình trên lâm sàng cũng có
thể khiến bác sĩ bỏ sót bệnh. Nghiên cứu này
được thực hiện nhằm đánh giá các đặc điểm
dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh ho
gà ở trẻ em tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang
giai đoạn 2016 – 2020.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian thu thập số liệu: Từ tháng 1 năm
2020 đến tháng 8 năm 2020.
Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Sản Nhi Bắc
Giang.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
2.3.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Cỡ mẫu: Tất cả các đối tượng dưới 16 tuổi
được chẩn đoán và điều trị ho gà tại Bệnh
viện Sản Nhi Bắc Giang.
Chọn mẫu: thuận tiện.
2.3.3. Kỹ thuật thu thập số liệu: Số liệu được
thu thập từ bệnh án qua mẫu phiếu nghiên cứu
in sẵn.
2.4. Quản lý, xử lý và phân tích số liệu
Số liệu sau khi thu thập, được làm sạch và
nhập vào máy tính bằng phần mềm Epidata
3.1, sau đó được xử lý và phân tích số liệu
trên phần mềm SPSS 22.0.
2.5. Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu đã được Hội đồng Y đức, trường
Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên
thông qua và chấp nhận.
3. Kết quả và bàn luận
3.1. Kết quả
Khảo sát trên 48 bệnh nhi được chẩn đoán ho
gà tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang từ
01/01/2016 đến 31/07/2020.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Phân bố bệnh ho gà theo tuổi và giới (n = 48)
Tuổi
≤ 3 tháng
Từ 4 tháng - ≤ 9 tuổi
Số lượng (SL)
Tỉ lệ (%)
54,2
Tuổi
26
22
22
26
48
45,8
45,8
54,2
100
Nam
Nữ
Giới tính
Tổng
Nhận xét: Bảng 1 cho kết quả bệnh gặp chủ yếu ở nhóm trẻ dưới 3 tháng, với tỷ lệ 54,2%. Tuổi
nhỏ nhất của nhóm trẻ bị ho là 7 ngày tuổi, lớn nhất là 60 tháng. Bệnh nhi nam chiếm 45,8%
(22/48), nữ chiếm 54,2% (49/108). Tỷ lệ nam nữ xấp xỉ 1/1.
216
Nguyễn Thị Kim Thoa và Đtg
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN
225(11): 215 - 220
Hình 1. Phân bố bệnh theo các tháng trong năm (n = 48)
Nhận xét: Hình 1 cho kết quả tỷ lệ bệnh nhi mắc ho gà rải rác ở các tháng trong một năm. Tháng
3 và tháng 7 có tỷ lệ mắc ho gà cao nhất, chiếm 22,9% và 14,6%.
Bảng 2. Tình trạng bị phơi nhiễm với người bệnh bị ho gà
Tình trang bị phơi nhiễm với nguồn lây
SL
8
40
48
Tỉ lệ (%)
16,7
Cộng đồng
Không rõ
Tổng
83,3
100
Nhận xét: Bảng 2 cho thấy có 83,3% (40/48) trẻ bị phơi nhiễm với nguồn lây là không rõ nguyên
nhân. Tình trạng bị phơi nhiễm nguồn lây ở cộng đồng chiếm 16,7%.
Bảng 3. Thời gian nhập viện theo ngày khởi phát triệu chứng đầu tiên
Thời gian nhập viện
< 7 ngày
7 – 14 ngày
> 14 ngày
SL
29
18
1
Tỉ lệ (%)
60,4
37,5
2,1
Tổng
48
100
Nhận xét: Số liệu nêu trong bảng 3 cho thấy theo ngày khởi phát triệu chứng đầu tiên, thời gian
nhập viện dưới 7 ngày chiếm 60,4%, từ 7 - 14 ngày chiếm 37,5%.
Bảng 4. Phân bố bệnh theo thể bệnh
Thể bệnh
Thể không nặng
Thể nặng
SL
26
22
48
Tỉ lệ (%)
54,2
45,8
100
Tổng
Nhận xét: Bảng 4 cho kết quả trong số 48 bệnh nhi mắc ho gà, có 45,8% trẻ mắc với thể nặng,
54,2% trẻ bị bệnh ở thể không nặng.
Bảng 5. Các biểu hiện lâm sàng của bệnh ho gà theo các nhóm tuổi
≤ 3 tháng (n = 26) Từ 4 tháng đến ≤ 9 tuổi (n = 22)
Tổng (n = 48)
Đặc điểm
Chảy mũi
SL
26
26
24
17
1
5
22
16
%
SL
20
22
21
7
%
SL
46
48
45
24
2
15
39
28
%
100
100
92,3
65,4
3,8
19,2
84,6
61,5
90,9
100
95,5
31,8
4,5
45,5
77,3
54,5
95,8
100
93,8
50
Ho cơn kịch phát
Ho cơn đỏ mặt
Ho cơn có tím
Cơn ngừng thở
Tiếng rít sau ho
Nôn sau ho
1
4,2
10
17
12
31,3
81,3
58,3
Tăng tiết đờm dãi
217
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn
Nguyễn Thị Kim Thoa và Đtg
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN
225(11): 215 - 220
Nhận xét: Bảng 5 cho kết quả 100% bệnh nhi
có cơn ho kịch phát, 95,8% trẻ có chảy mũi;
93,8% ho cơn đỏ mặt; với trẻ dưới 3 tháng tỉ
lệ trẻ ho cơn có tím, nôn sau ho cao hơn trẻ từ
4 tháng trở lên (tương ứng 65,4% với 31,8%
và 84,6% với 77,3%). Riêng tiếng thở rít thì
gặp nhiều hơn (45,5%) ở trẻ từ 4 tháng trở lên
(trẻ < 3 tháng chỉ 19,2%).
Wales đều cho thấy bệnh thường xuất hiện
cao điểm từ tháng 4 đến tháng 9 [6]. Tại Việt
Nam, theo báo cáo thông kê bệnh truyền
nhiễm từ năm 1984 đến 2014, tỷ lệ mắc ho gà
được báo cáo luôn cao nhất trong khoảng thời
gian từ tháng 4 đến tháng 8 [7]. Cũng giống
như mô hình chung tại Việt Nam cũng như
trên thế giới, các trường hợp mắc bệnh ho gà
ở nghiên cứu của chúng tôi cũng tập trung chủ
yếu vào các tháng từ tháng 3 đến tháng 10, cao
nhất là tháng 3 và tháng 7. Tuy nhiên điều này
khác với nhận xét trong y văn, là các tháng
chuyển mùa từ Đông sang Xuân. Sự khác nhau
này có thể do sự khác biệt về mặt địa lý và đặc
điểm khí hậu khác nhau giữa các nước.
Bảng 6. Các biến chứng của ho gà
Các biến chứng
Viêm phổi
Suy hô hấp
Xuất huyết
SL
42
21
1
Tỉ lệ (%)
87,5
43,8
2,1
Nhận xét: Bảng 6 cho kết quả biến chứng
viêm phế quản phổi chiếm 87,5% và suy hô
hấp 43,8%, biến chứng ít gặp hơn là xuất
huyết chiếm 2,4%, ngoài ra không gặp các
biến chứng co giật, viêm não trong nhóm
nghiên cứu.
Nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra rằng có
tới 83,3% tình trạng bệnh nhi bị phơi nhiễm
với nguồn lây ho gà là không rõ nguyên nhân.
Phân tích về nguồn lây cho thấy nguồn lây
chủ yếu là thành viên trong gia đình có tiếp
xúc gần gũi với trẻ. Tỷ lệ nghiên cứu của
chúng tôi khác với nghiên cứu của Hoàng Thị
Thu Hà: mẹ là nguồn lây hay gặp nhất
(52,9%), tiếp theo là bố (19,6%), những
người không sống cùng nhà (9,8%) [4]. Kết
quả này của nghiên cứu đặt ra một vấn đề
rằng các trẻ mắc bệnh trong nghiên cứu còn
quá nhỏ tuổi, khả năng tiếp xúc trực tiếp với
nhau để lây bệnh là rất thấp, vậy nguồn lây
cho những trẻ này từ đâu ra, rất có thể đó là từ
những người ở lứa tuổi lớn hơn. Một nghiên
cứu tại Mỹ về chứng ho gà kéo dài ở thanh
thiếu niên và người lớn cũng đã cho thấy 13%
đến 20% là kết quả của nhiễm trùng ho gà.
Nghiên cứu huyết thanh học cho thấy tỷ lệ
nhiễm ho gà ở thanh thiếu niên và người lớn
xấp xỉ 2,0% mỗi năm [6]. Điều này cho thấy
ngoài việc quan tâm đến trẻ bị mắc bệnh,
chúng ta cũng cần quan tâm đến lứa tuổi
thanh thiếu niên và người lớn vì có thể đây
mới chính là nguồn lây cho trẻ nhỏ và cộng
đồng. Qua đó có thể thấy để tìm được nguồn
lây nhiễm ho gà ở trẻ nhỏ rất khó. Những ca
không xác định được nguồn lây nhiễm có thể
do phơi nhiễm với người ho gà nhẹ hoặc
3.2. Bàn luận
Theo kết quả nghiên cứu, tỷ lệ mắc ho gà ở
trẻ ≤ 3 tháng cao, chiếm 54,2% tổng số trẻ
mắc ho gà trong thời gian nghiên cứu. Bệnh
có thể khởi phát sớm ngay trong tuần đầu sau
đẻ. Trẻ dưới 3 tháng tuổi có tỷ lệ mắc cao vì
đây là lứa tuổi chưa được tiêm phòng ho gà,
hoặc mới tiêm phòng mũi 1 trong khi đó miễn
dịch của mẹ với bệnh ho gà có thể thấp không
đủ giúp trẻ phòng được bệnh này trong giai
đoạn đầu đời. Kết quả này tương đồng với
một số nghiên cứu gần đây của Phạm Quang
Thái và Hoàng Thị Thu Hà tại Bệnh viện Nhi
Trung ương [4], [5]. Đây là nhóm chưa có
miễn dịch hoặc miễn dịch chưa đầy đủ do
chưa đến tuổi tiêm chủng trong khi miễn dịch
từ mẹ có thể không đủ hoặc chưa tiêm đủ liều
vắc xin. Điều này gợi ý cho việc có thể phải
tiêm phòng vắc xin ho gà cho bà mẹ trong
thời kỳ mang thai/ tuổi sinh đẻ hoặc nghiên
cứu thay đổi lịch tiêm chủng để những trẻ nhỏ
có cơ hội được tiếp xúc với vắc xin sớm hơn.
Ho gà là bệnh truyền nhiễm với chu kỳ dịch
khoảng từ 2 - 5 năm. Các ca bệnh tập trung
chủ yếu vào cuối mùa Hè và đầu mùa Thu.
Các nghiên cứu tại Mỹ, Ma rốc, Anh và xứ
218
Nguyễn Thị Kim Thoa và Đtg
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN
225(11): 215 - 220
không biết mắc ho gà với các cơn ho rất nhẹ
cũng là thách thức chẩn đoán cho nhân viên y
tế vì triệu chứng không điển hình và xét
nghiệm chẩn đoán có độ nhạy thấp.
hợp tình hình ho gà trên thế giới cho thấy tỷ
lệ ho gà được báo cáo thấp hơn khoảng 40
đến 160 lần so với tỷ lệ bệnh thực tế. Trong
đó nhiễm trùng ho gà không triệu chứng là
phổ biến và cao gấp từ 4 đến 22 lần so với
nhiễm trùng có triệu chứng. Do đó, việc sử
dụng các kỹ thuật xét nghiệm kết hợp với
triệu chứng lâm sàng sẽ giúp phát hiện sớm,
không bỏ sót các trường hợp bệnh, đồng thời
phòng tránh được các biến chứng nặng có thể
xảy ra.
Số liệu nêu trong bảng 3 cho thấy trẻ thường
nhập viện vào tuần thứ nhất của bệnh
(60,4%), đây thường là thời điểm cuối giai
đoạn khởi phát bước sang giai đoạn toàn phát
với triệu chứng ho điển hình xuất hiện khiến
trẻ phải nhập viện. Kết quả nghiên cứu tương
đồng với kết quả của Hoàng Thị Thu Hà và
cộng sự [4], nhưng sớm hơn nghiên cứu của
Đỗ Thiện Hải [3]. Thời gian nhập viện trung
bình theo nghiên cứu của Bayhan và cộng sự
là 11,6 ± 7 ngày. Kết quả này theo nghiên cứu
ở trẻ sơ sinh là 6,8 ngày [8]. Điều này cho
thấy có thể trẻ càng nhỏ thời gian khởi phát
bệnh càng ngắn. Các đối tượng nghiên cứu
của chúng tôi có tỷ lệ trẻ sơ sinh chiếm đa số,
đây có thể là nguyên nhân gây thời gian nhập
viện sớm hơn so với các nhóm bệnh nhi khác.
Về các biến chứng thường gặp ở trẻ mắc ho
gà, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy biến
chứng thường gặp nhất là viêm phế quản phổi
(87,5%) và suy hô hấp (43,8%). Kết quả này
tương dương với nghiên cứu của Phạm Quang
Thái và Đỗ Thiện Hải, Castaghini và Nieves
cũng cho thấy trẻ mắc ho gà có tỷ lệ gặp các
biến chứng đăc biệt là viêm phổi cao hơn và
nặng hơn so với các nhóm mắc các căn
nguyên khác [3], [5], [9]. Biến chứng viêm
phổi có thể do bản thân vi khuẩn ho gà hoặc
do đồng nhiễm các căn nguyên khác. Trong
nghiên cứu của Hoàng Thị Thu Hà cho thấy
có 14,2% bệnh nhân ho gà có biến chứng
viêm phế quản phổi đồng nhiễm các vi khuẩn,
vi rút khác. Trong đó hay gặp nhất là nhiễm
Rhino virus chiếm 38,8%, ngoài ra còn gặp
đồng nhiễm RSV, Adeno, Phế cầu, trực khuẩn
mủ xanh… [4]. Biến chứng co giật, viêm não
không tìm thấy ở nghiên cứu của chúng tôi.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ
lệ bệnh nhi mắc ho gà ở thể không nặng là
54,2%, ở thể nặng là 45,8%. Tỷ lệ thể nặng/
thể không nặng xấp xỉ 1/1. Có thể thấy tỷ lệ
bệnh nhi thể nặng trong nghiên cứu của chúng
tôi cao hơn các nghiên cứu của Đỗ Thiện Hải
(5%) [3], và của Castagini (tỷ lệ bệnh nhân
nặng phải thở máy là 27%) [9].
Triệu chứng phổ biến của các bệnh nhân
trong nghiên cứu này là có cơn ho kịch phát,
ho có đỏ mặt và chảy mũi. Kết quả này cũng
khá tương đồng với nghiên cứu của Đỗ Thiện
Hải [3] và Nguyễn Thành Lê [10]. Các triệu
chứng đặc hiệu cho ho gà nhưng tỷ lệ gặp ít
hơn như thở rít sau ho (19,2%), nôn sau ho
(84,6%) và cơn ngưng thở (3,8%) đối với
nhóm tuổi ≤ 3 tháng. Tỷ lệ này ở nhóm tuổi
từ 4 tháng trở lên lần lượt theo thứ tự là
31,3%; 81,3% và 4,2%. Triệu chứng bệnh
chính là chỉ điểm cho những gợi ý để chẩn
đoán bệnh được chính xác. Tuy nhiên, việc
dựa nguyên vào triệu chứng đôi khi sẽ bỏ sót
các trường hợp bệnh, đặc biệt là những bệnh
nhân có triệu chứng không điển hình. Tổng
4. Kết luận
Nghiên cứu cho thấy bệnh ho gà ở trẻ em vẫn
là một vấn đề sức khỏe cần quan tâm. Kết quả
cho thấy bệnh thường gặp ở trẻ dưới 3 tháng
tuổi, không có sự khác biệt về giới tính. Bệnh
xảy ra rải rác ở các tháng trong năm, tập trung
từ tháng 3 đến tháng 10. Bệnh nhi thường
nhập viện trong tuần đầu từ ngày khởi phát
nên có khả năng lây nhiễm cộng đồng cao.
Thể bệnh nặng trên lâm sàng chiếm tỷ lệ cao.
Các biến chứng thường gặp nhất là viêm phổi
(87,5%) và suy hô hấp (43,8%), tiếp đến là
xuất huyết (2,1%).
219
http://jst.tnu.edu.vn; Email: jst@tnu.edu.vn
Nguyễn Thị Kim Thoa và Đtg
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN
225(11): 215 - 220
Journal of Preventive Medicine, vol. 26, no.
15, pp. 39-47, 2016.
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1]. D. Bui, and H. T. Nguyen, Pertussis.
Infectious Pathology. Medical Puslishing
House, Ha Noi, 2009, pp. 219-225.
[2]. WHO, “Immunization, Vaccines and
Biologicals: Pertussis,” 2020. [Online].
Available:
[6]. J. D. Cherry, “The epidemiology of pertussis:
a comparison of the epidemiology of the
disease pertussis with the epidemiology of
Bordetella pertussis infection,” Pediatrics,
vol. 115, no. 5, pp. 1422-1427, 2005.
ussis/en/. [Accessed Sept. 25, 2020].
[7]. Ministry of Health, Infectious disease
statistics yearbook, 1984 - 2014.
[3]. T. H. Do, T. H. Duong, and T. N. Do,
“Clinical, epidemiological characteristics of
pertussis in children at the national pediatrict
Hospital during 2012-2014,” Vietnam Journal
of Preventive Medicine, vol. 26, no. 6, pp. 35-
44, 2016.
[4]. T. T. H. Hoang, H. M. Hoang, and T. T. N.
Phan, “Clinical epidemiological characters of
pertussis at children aged from under 3
months in Vietnam National Children’s
Hospital,” Vietnam Journal of Preventive
Medicine, vol. 28, no. 6, pp. 93-101, 2019.
[5]. Q. T. Pham, T. H. Nguyen, and V. K. Pham,
“Epidemiological, clinical characters of
pertussis and some related factors at National
Hospital of Pediatric in 2015,” Vietnam
[8]. G. I. Bayhan, G. Tanir, and S. Nar-Otgun,
“The clinical characteristics and treatment of
pertussis patients in a tertiary center over a
four-year period,” The Turkish Journal of
Pediatrics, vol. 54, no. 6, pp. 596-604, 2012.
[9]. L. A. Castagnini, and F. M. Munoz, “Clinical
characteristics and outcomes of neonatal
pertussis: a comparative study,” J. Pediatr,
vol. 156, no. 3, pp. 498-500, 2010.
[10]. T. L. Nguyen, and V. H. Bui, “Clinical
characteristics and treatment results of
children with Pertussis disease at National
Hospital of Tropical Diseases,” Vietnam
Journal of Preventive Medicine, vol. 12, pp.
77-83, 2015.
220
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm dịch tễ học lâm sàng bệnh ho gà ở trẻ em điều trị tại Bệnh viện Sản nhi Bắc Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- dac_diem_dich_te_hoc_lam_sang_benh_ho_ga_o_tre_em_dieu_tri_t.pdf