Chính xác hóa dự báo nhiệt độ thành hệ bằng cách sử dụng dữ liệu đồng hồ đáy ở các mỏ có nhiệt độ cao, áp suất cao Hải Thạch và Mộc Tinh bể Nam Côn Sơn, thềm lục địa Việt Nam

PETROVIETNAM  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 2 - 2019, trang 45 - 49  
ISSN-0866-854X  
CHÍNH XÁC HÓA DỰ BÁO NHIỆT ĐỘ THÀNH HỆ BẰNG CÁCH SỬ DỤNG  
DỮ LIỆU ĐỒNG HỒ ĐÁY Ở CÁC MỎ CÓ NHIỆT ĐỘ CAO, ÁP SUẤT CAO  
HẢI THẠCH VÀ MỘC TINH BỂ NAM CÔN SƠN, THỀM LỤC ĐỊA VIỆT NAM  
Vũ Đức Hòa, Khúc Hồng Giang, Hoàng Kỳ Sơn  
Công ty Điều hành Dầu khí Biển Đông  
Email: hoavd@biendongpoc.vn  
Tóm tắt  
Nhiệt độ của mỏ Hải Thạch và Mộc Tinh trước đây được xác định dựa trên số liệu thử vỉa và/hoặc sử dụng kết quả đo nhiệt độ đáy  
giếng khoan hiệu chỉnh theo phương pháp Horner truyền thống, có sai số cao (nhiệt độ dao động khá lớn từ 157 - 187°C ở độ sâu  
4.200mTVD).  
Bài báo giới thiệu phương pháp xác định nhiệt độ thành hệ chính xác hơn bằng cách sử dụng dữ liệu đồng hồ đáy của các giếng khai  
thác, giúp giảm thiểu chi phí và rủi ro trong quá trình thi công giếng khoan và vận hành khai thác. Phương pháp mới này đã giúp chính  
xác hóa dự báo nhiệt độ thành hệ, giảm sai số đáng kể chỉ còn 6oC đối với mỏ Hải Thạch và 4oC đối với mỏ Mộc Tinh.  
Từ khóa: Áp suất cao nhiệt độ cao, nhiệt độ thành hệ, đồng hồ đáy, nhiệt độ trong quá trình đóng giếng, nhiệt độ trong quá trình khai  
thác.  
1. Giới thiệu  
Bể trầm tích Nam Côn Sơn với diện tích  
khoảng 90.000km², có tiềm năng chủ yếu là khí,  
được hình thành qua 3 giai đoạn: trước tách  
giãn, đồng tách giãn và sau tách giãn (Hình 1).  
Giai đoạn trước tách giãn diễn ra trong khoảng  
thời gian từ Eocene muộn đến Oligocene sớm.  
Giai đoạn đồng tách giãn xảy ra trong thời kỳ  
Miocene giữa. Giai đoạn sau tách giãn được tính  
từ Miocene muộn cho đến nay.  
Mỏ Hải Thạch nằm ở Lô 05-2 với chiều sâu  
mực nước biển khoảng 130 - 140m. Năm 1995,  
giếng khoan thăm dò đầu tiên 05-2-HT-AX đã  
Hình 1. Địa chất khu vực bể trầm tích Nam Côn Sơn [1]  
được khoan trên khối nâng cấu tạo Hải Thạch.  
Sản phẩm khí ngưng tụ đã được phát hiện trong  
các tập vỉa cát xen kep có tuổi từ Miocene sớm  
đến Miocene muộn.  
AEDC) đã khoan trên cấu tạo khép kín nằm phía Tây Bắc của mỏ  
Mộc Tinh. Sản phẩm khí ngưng tụ được phát hiện trong các tập  
turbidite tuổi Miocene muộn. Giếng khoan thăm dò 05-3-MT-BX  
(1995, AEDC) được khoan ngay trên cấu tạo triển vọng mỏ Mộc Tinh  
và sản phẩm khí ngưng tụ thu được nằm trong tập turbidite khác có  
tuổi Miocene muộn tương đồng.  
Mỏ Mộc Tinh nằm ở vị trí Lô 05-3 với chiều  
sâu mực nước biển khoảng 114 - 118m. Giếng  
khoan thăm dò đầu tiên 05-3-MT-AX (1993,  
Nhiệt độ thành hệ cao ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thiết  
kế giếng khoan và hoàn thiện giếng (như: giảm tuổi thọ của choòng  
khoan và các thiết bị đo trong khi khoan); đẩy nhanh hiện tượng ăn  
Ngày nhận bài: 1/11/2018. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 1 - 8/11/2018.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 23/1/2019.  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
45  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
mòn các thiết bị bề mặt, làm hư hỏng các thiết bị trong  
quá trình khai thác... Do đó, nhiệt độ thành hệ phải được  
xác định với mức độ chính xác nhất có thể để xây dựng  
biểu đồ gradient nhiệt độ phục vụ công tác khoan cũng  
như khai thác.  
Ngược lại với quá trình nhiệt độ giảm dần khi đóng  
giếng, đồng hồ đáy sẽ cho số liệu nhiệt độ tăng dần khi  
mở giếng khai thác và nhiệt độ này sẽ tiệm cận với nhiệt  
độ vỉa khi lưu lượng đủ lớn và thời gian khai thác đủ dài.  
Do đó, một ưu điểm lớn của việc sử dụng số liệu đồng hồ  
đáy là có thể thu được số liệu nhiệt độ thành hệ cho hai độ  
sâu khác nhau (độ sâu đồng hồ đáy và độ sâu của vỉa). Nếu  
thời gian khai thác không đủ dài có thể sử dụng một số  
mô hình tương đối phức tạp như của Kashikar và Arnold  
[5] hay Duru và Horne [6] để xác định nhiệt độ vỉa. Tuy  
nhiên trong trường hợp của BIENDONG POC do đặc thù  
của khai thác khí nên có thể khai thác với cỡ van ổn định  
trong một thời gian dài để thu được nhiệt độ vỉa chính  
xác nhất.  
Một trong những phương pháp phổ biến nhất để xác  
định nhiệt độ thành hệ là sử dụng phương pháp Horner  
cho số liệu nhiệt độ dung dịch khoan trong khi dừng tuần  
hoàn giếng. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Dowdle và  
Cobb [2], phương pháp này luôn cho kết quả thấp hơn  
nhiệt độ thực của thành hệ. Dowdle và Cobb [2] cũng  
chứng minh rằng thời gian tuần hoàn giếng càng dài thì  
sai số càng lớn. Trong trường hợp thời gian dừng tuần  
hoàn giếng ngắn, Roux và các cộng sự [3] đã đề xuất sử  
dụng hệ số hiệu chỉnh thực nghiệm để tăng độ chính xác  
của phương pháp Horner. Hasan và Kabir [4] cũng đề xuất  
một số tinh chỉnh để tăng độ chính xác cho phương pháp  
Horner. Tuy nhiên, do đặc thù của công tác khoan giếng  
là phải tối đa hóa thời gian khoan và giảm thiểu thời gian  
dừng khoan để giảm chi phí nên các phương pháp kiểu  
Horner luôn cho nhiệt độ thành hệ ước tính thấp hơn  
nhiệt độ thực của thành hệ. Do đó nếu chỉ sử dụng các  
phương pháp này sẽ gây rủi ro cao trong khu vực có nhiệt  
độ cao áp suất cao như mỏ Hải Thạch và Mộc Tinh.  
Trước khi áp dụng phương pháp mới, nhiệt độ thành  
hệ tính từ phương pháp Horner với số liệu đo nhiệt độ  
đáy giếng khoan của các giếng thăm dò là 157 - 187°C  
ở độ sâu 4.200mTVD. Sau khi áp dụng phương pháp mới  
cho các giếng khai thác đã giảm được sai số và nhiệt độ  
nằm trong khoảng 180 - 186°C cho mỏ Hải Thạch và 182  
- 186°C cho mỏ Mộc Tinh ở cùng độ sâu 4.200mTVD. Việc  
đạt được giới hạn sai số khá nhỏ 4 - 6°C đã giúp tối ưu  
hóa các công tác khoan cũng như khai thác. Ngoài việc  
đề xuất phương pháp mới để chính xác hóa việc xác định  
nhiệt độ thành hệ thì các biểu đồ nhiệt độ với độ chính  
xác cao của Hải Thạch và Mộc Tinh có thể được dùng làm  
tài liệu tham khảo cho các giếng khoan của các khu vực  
lân cận trong bể Nam Côn Sơn.  
Một phương pháp khác để xác định nhiệt độ thành  
hệ là sử dụng dữ liệu nhiệt độ của đồng hồ đáy trong quá  
trình đóng giếng khai thác. Phương pháp này có ưu điểm  
thời gian đóng giếng không phát sinh chi phí nhiều như  
khi dừng tuần hoàn giếng trong khi khoan. Tuy nhiên  
trong thực tế khai thác thường hạn chế đóng giếng nên  
nếu thời gian đóng giếng không đủ dài thì nhiệt độ ước  
tính bằng các phương pháp kiểu Horner cũng sẽ thấp hơn  
nhiệt độ thực của thành hệ.  
2. Kết quả dự báo nhiệt độ thành hệ cho mỏ Hải Thạch  
và Mộc Tinh  
Nguyên lý của phương pháp trình bày trong bài báo  
này là xác định nhiệt độ dựa vào dữ liệu đồng hồ đáy thu  
được khi đóng và mở giếng khai thác. Thiết bị đo đồng hồ  
đáy được đặt tại vị trí trên khoảng bắn vỉa và được gắn cố  
Đối với dự án Biển Đông 01, có 1 giếng đã khai  
thác cát sau khi bắn vỉa một số tập thăm dò nên phải  
đóng giếng trong thời gian hơn 3 tháng để nghiên cứu  
phương án xử lý tiếp theo. Do thời gian đóng giếng dài  
nên đã cho kết quả chính xác của nhiệt độ thành hệ  
tại độ sâu đồng hồ đáy. Nhóm tác giả đã thu được một  
đường cong chuẩn cho quá trình nhiệt độ giảm dần khi  
đóng giếng. Bằng thực nghiệm đường cong chuẩn này  
rất phù hợp khi áp dụng vào các giếng khai thác khác  
trong cả 2 mỏ Hải Thạch và Mộc Tinh, có thể do đặc điểm  
địa chất cũng như thiết kế các giếng khoan tương đồng.  
Do đó đường cong giảm nhiệt độ chuẩn này đã được áp  
dụng cho dữ liệu đồng hồ đáy của các giếng khai thác ở  
mỏ Hải Thạch và Mộc Tinh để ngoại suy nhiệt độ thành  
hệ trong khi đóng giếng.  
Giếng khoan  
Đồng hồ đáy  
Vỉa sản phẩm  
Hình 2. Minh họa của phương pháp đo khi đóng giếng  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
46  
PETROVIETNAM  
định vào ống khai thác (Hình 2). Khi đóng giếng  
nhiệt độ ghi nhận bởi đồng hồ đáy có xu hướng  
giảm dần và tiệm cận với giá trị nhiệt độ thực  
của thành hệ. Ngược lại, khi mở giếng, nhiệt độ  
đồng hồ đáy thay đổi khi lưu lượng khí khai thác  
thay đổi và tiệm cận với giá trị nhiệt độ vỉa khi  
lưu lượng khí khai thác đủ lớn. Xây dựng biểu  
đồ nhiệt độ dựa trên phương pháp này sẽ cho  
phép tính được gradient địa nhiệt của khu vực  
nghiên cứu để phục vụ cho công tác khoan và  
khai thác.  
Giếng 05-2-HT-E có thời gian đóng giếng  
rất dài (khoảng hơn 3 tháng, Hình 3) nên giá  
trị nhiệt độ thành hệ tại độ sâu của đồng hồ  
đáy (130,8°C) là chính xác. Nhóm tác giả đã xác  
định được đường cong chuẩn cho quá trình  
nhiệt độ giảm dần khi đóng giếng. Bằng thực  
nghiệm đường cong chuẩn này rất phù hợp khi  
áp dụng vào các giếng khoan khác trong mỏ  
Hải Thạch và Mộc Tinh, có thể do đặc điểm địa  
chất cũng như thiết kế các giếng khoan tương  
đồng. Do đó đường cong giảm nhiệt độ chuẩn  
của giếng 05-2-HT-E đã được áp dụng cho số  
liệu của tất cả các giếng khoan ở mỏ Hải Thạch  
và Mộc Tinh để ngoại suy nhiệt độ thành hệ  
trong khi đóng giếng với kết quả thu được thể  
hiện trong Bảng 1.  
Thời gian (giờ)  
Hình 3. Nhiệt độ suy giảm theo thời gian khi đóng giếng 05-2-HT-E  
Bảng 1. Nhiệt độ thành hệ trong khi đóng giếng  
Giếng khai  
Độ sâu đồng hồ đáy Nhiệt độ thành hệ tại độ sâu  
thác  
(mTVD)  
2.675  
2.812  
2.844  
2.852  
2.872  
của đồng hồ đáy (°C)  
05-2-HT-G  
05-2-HT-B  
05-2-HT-A  
05-2-HT-E  
05-2-HT-F  
124,6  
127,5  
134,5  
130,8  
134,0  
Giếng khoan  
Đồng hồ đáy  
Lưu lượng khí  
Ngược lại với quá trình nhiệt độ giảm  
dần khi đóng giếng, đồng hồ đáy sẽ cho số  
liệu nhiệt độ tăng dần khi mở giếng khai thác  
(Hình 4) và nhiệt độ này sẽ tiệm cận với nhiệt  
độ vỉa khi lưu lượng đủ lớn. Các cỡ van khác  
nhau sẽ có lưu lượng khí khác nhau, tương  
ứng với nhiệt độ ổn định đo được trên đồng hồ  
đáy khác nhau. Các giá trị nhiệt độ tương ứng  
với lưu lượng khí được minh họa cho giếng  
05-2-HT-F thể hiện trên Hình 5. Bằng phương  
pháp thực nghiệm, đường cong chuẩn trong  
quá trình đóng giếng được kiểm chứng khá  
phù hợp với quy luật tăng nhiệt độ khi tăng  
lưu lượng khai thác, nên đường cong chuẩn  
này được dùng để ngoại suy và xác định giá  
trị nhiệt độ thực của vỉa. Bằng phương pháp  
này, nhiệt độ vỉa cho giếng 05-2-HT-F được  
xác định là 158,8°C (Hình 5). Phương pháp trên  
được áp dụng cho tất cả các giếng khai thác  
của mỏ Hải Thạch và Mộc Tinh.  
Vỉa sản phẩm  
Hình 4. Minh họa của phương pháp đo nhiệt độ khi khai thác  
Lưu lượng khí (MMscf/d)  
Hình 5. Nhiệt độ theo lưu lượng khí tại giếng khoan 05-2-HT-F  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
47  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
4. Kết luận  
Phương pháp xác định nhiệt độ thành hệ  
Nhiệt độ (oC)  
100  
0
0
50  
150  
200  
250  
bằng cách sử dụng đồng hồ đáy và dữ liệu khai  
thác là cách tiếp cận mới để dự báo nhiệt độ  
thành hệ chính xác hơn, giảm chi phí và rủi  
ro trong quá trình thi công giếng khoan, thu  
thập số liệu và vận hành khai thác. Trước khi áp  
dụng phương pháp mới, nhiệt độ của mỏ Hải  
Thạch và Mộc Tinh được ước tính dựa trên số  
liệu thử vỉa và số liệu nhiệt độ khi dừng tuần  
hoàn của các giếng thăm dò, dao động trong  
khoảng nhiệt độ khá lớn từ 157 - 187°C ở độ  
sâu 4.200mTVD. Sau khi áp dụng phương pháp  
mới, sai số nhiệt độ giảm đáng kể còn 6oC đối  
với mỏ Hải Thạch (Hình 6) và 4oC đối với mỏ  
Mộc Tinh (Hình 7). Từ các kết quả này, gradient  
nhiệt độ khu vực mỏ Hải Thạch và Mộc Tinh  
được xác định vào khoảng 4oC/100m. Kết quả  
này đã được kiểm chứng là chính xác vì phù  
hợp với dữ liệu khảo sát nhiệt độ tại 2 giếng  
khoan 05-3-MT-C và 05-3-MT-G thực hiện năm  
2018.  
1000  
2000  
3000  
4000  
Hình 6. Dự báo nhiệt độ cho mỏ Hải Thạch  
Tài liệu tham khảo  
Nhiệt độ (oC)  
1. Son T.Nguyen, Son K.Hoang, Giang  
H.Khuc, Hung N.Tran. Pore pressure and fracture  
gradient prediction for the challenging high  
pressure and high temperature well, Hai Thach  
field, block 05-2, Nam Con Son basin, offshore  
Vietnam, a case study. SPE/IATMI Asia Pacific Oil  
& Gas Conference and Exhibition, Nusa Dua,  
Bali, Indonesia. 20 - 22 October, 2015.  
0
0
50  
100  
150  
200  
250  
500  
1000  
1500  
2000  
2500  
3000  
2. W.L.Dowdle,W.M.Cobb. Static formation  
temperaturefromwelllogs-anempiricalmethod.  
Journal of Petroleum Technology. 1975; 27(11):  
p. 1326 - 1330.  
3. Brian Roux, Subir K.Sanyal, Susan  
L.Brown. An improved approach to estimating  
true reservoir temperature from transient  
temperature data. SPE California Regional  
Meeting, Los Angeles, California. 9 - 11 April,  
1980.  
3500  
4000  
4500  
4. A.R.Hasan, C.S.Kabir. Static reservoir  
temperature determination from transient data  
after mud circulation. SPE Drilling & Completion.  
1994; 9(1).  
Hình 7. Dự báo nhiệt độ cho mỏ Mộc Tinh và số liệu kiểm chứng (màu hồng và màu xanh da trời)  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
48  
PETROVIETNAM  
temperature transients and matching to permeanent  
downhole gauge data for reservoir parameter estimation.  
SPE Annual Technical Conference and Exhibition, Denver,  
Colorado, USA. 21 - 24 September, 2008.  
5. S.V.Kashikar, F.C.Arnold. Determinationofformation  
temperature from flow tests: A new solution. SPE Production  
Operations Symposium, Oklahoma City, Oklahoma, USA.  
7 - 9 April, 1991.  
6. Obinna Duru, Roland N.Horne. Modeling reservoir  
IMPROVING FORMATION TEMPERATURE ESTIMATION USING  
PRODUCTION DOWNHOLE GAUGE DATA IN HAI THACH AND MOC TINH  
HIGH TEMPERATURE AND HIGH PRESSURE FIELDS, NAM CON SON  
BASIN, OFFSHORE VIETNAM  
Vu Duc Hoa, Khuc Hong Giang, Hoang Ky Son  
Bien Dong Petroleum Operating Company (BIENDONG POC)  
Email: hoavd@biendongpoc.vn  
Summary  
Formation temperature in Hai Thach and Moc Tinh fields used to be estimated based on DST data and wireline logging data using  
the conventional Horner analysis method, resulting in large uncertainty (wide range of 157 - 187°C at 4,200mTVD). This paper introduces  
a more accurate method for formation temperature estimation using downhole gauge data, facilitating cost optimisation and risk  
reduction in drilling as well as production. The new method has significantly reduced the formation temperature uncertainty to only 6°C  
for Hai Thach field and 4°C for Moc Tinh field.  
Key words: HTHP, formation temperature, downhole gauge, shut-in temperature, production temperature.  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
49  
pdf 5 trang yennguyen 16/04/2022 3320
Bạn đang xem tài liệu "Chính xác hóa dự báo nhiệt độ thành hệ bằng cách sử dụng dữ liệu đồng hồ đáy ở các mỏ có nhiệt độ cao, áp suất cao Hải Thạch và Mộc Tinh bể Nam Côn Sơn, thềm lục địa Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfchinh_xac_hoa_du_bao_nhiet_do_thanh_he_bang_cach_su_dung_du.pdf