Đặc điểm địa hóa đá mẹ khu vực các giếng nước sâu bể Nam Côn Sơn và Tư Chính - Vũng Mây

THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 8 - 2020, trang 26 - 33  
ISSN 2615-9902  
ĐꢀC ĐIꢁM ĐỊA HꢂA ĐÁ MẸ KHU VỰC CÁC GIẾNG NƯỚC SÂU  
Bꢁ NAM CÔN SƠN VÀ TƯ CHÍNH - VŨNG MÂY  
Nguyễn Thị Oanh Vũ, Nguyễn Thị Tuyết Lan, Phan Văn Thắng, Nguyễn Thị Thanh Ngà  
Viện Dầu khí Việt Nam  
Email: vunto@vpi.pvn.vn  
Tóm tắt  
Bài báo sử dụng kết quả phân tích địa hóa như nhiệt phân Rock-Eval, tổng carbon hữu cơ, phản xạ vitrinite, sắc ký khí, sắc ký khí ghép  
khối phổ... để tổng hợp và đánh giá đặc điểm đá mẹ các giếng nước sâu thuộc bể Nam Côn Sơn và Tư Chính - Vũng Mây. Đá mẹ Miocene  
dưới và Oligocene trong khu vực nghiên cứu có độ giàu vật chất hữu cơ và tiềm năng sinh hydrocarbon từ trung bình đến tốt, nguồn gốc  
vật chất hữu cơ khá tương đồng với các giếng nước nông lân cận. Mô hình trưởng thành cho thấy các tập đá mẹ Miocene dưới và Oligocene  
đã và đang trong quá trình sinh dầu và khí.  
Từ khóa: Đá mẹ, Miocene dưới, Oligocene, trưởng thành nhiệt, bể Nam Côn Sơn, bể Tư Chính - Vũng Mây.  
1. Giới thiệu  
Bể Nam Côn Sơn có diện tích gần 100.000  
chỉ số hydrogen HI... được sử dụng nhằm đánh giá đặc điểm đá  
mẹ ở khu vực nghiên cứu: độ giàu vật chất hữu cơ, tiềm năng sinh,  
loại kerogen… Bài báo sử dụng các kết quả phân tích địa hóa của  
các giếng khoan nước sâu thuộc Lô 05-2, Lô 07-3, Lô 136 và Lô 130,  
Lô 131, tập trung vào các mặt cắt trầm tích tuổi Oligocene đến  
Miocene dưới là những đối tượng tìm kiếm thăm dò chính ở khu  
vực Nam Côn Sơn và Tư Chính - Vũng Mây. Các tài liệu địa hóa, địa  
tầng… trong vùng nghiên cứu cũng được tham khảo và liên kết  
với tài liệu phân tích mẫu.  
km2, ranh giới phía Bắc của bể là đới nâng  
Côn Sơn, phía Tây và Nam là đới nâng Khorat  
- Natuna, phía Đông Bắc là bể Phú Khánh, tiếp  
giáp về phía Đông bể Nam Côn Sơn là bể Tư  
Chính - Vũng Mây với diện tích rộng và cấu trúc  
địa chất phức tạp [1 - 3]. Độ sâu mực nước biển  
của khu vực này thay đổi rất lớn, từ vài chục mét  
ở phía Tây đến hơn 1.000 - 2.800 m ở phía Đông.  
Tại Lô 05-2, các nhà thầu đã tiến hành khoan  
thăm dò 2 giếng, độ sâu mực nước biển lần lượt  
là 682 m và 569 m. Về phía Nam bể Nam Côn  
Sơn, có 2 giếng nước sâu là 07-3-C-1X và 07-3-  
C-3X. Càng về phía Đông, độ sâu mực nước biển  
càng thay đổi rõ rệt. Tại Lô 136 (bể Tư Chính -  
Vũng Mây), các giếng 136-D-1X và 136-E-1X có  
mực nước biển thay đổi đến hơn 800 m. Ngoài  
ra, còn có các giếng 130-F-1X và 131-G-1X- cũng  
là giếng khoan nước sâu ở Lô 130, 131 với mực  
nước biển đến hơn 1.000 m.  
2. Đặc điểm địa hóa đá mẹ  
2.1. Chất lượng đá mẹ  
Các chỉ tiêu địa hóa cơ bản như TOC, S1, S2,  
Ngày nhận bài: 20/3/2020. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 24/3 - 28/4/2020.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 20/7/2020.  
Hình 1. Vị trí khu vực nghiên cứu  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
26  
PETROVIETNAM  
Bảng 1. Phân loại đá mẹ theo độ giàu vật chất hữu cơ (Geochem Group Limited)  
TOC  
S2  
(% khối lượng)  
(kg/T đá)  
Đá sinh  
Sét kết  
< 0,5  
0,5 – 1  
1 – 3  
3 – 5  
> 5  
Carbonate  
< 0,25  
0,25 – 0,5  
0,5 – 1  
1 – 2  
Nghèo  
Trung bình  
Tốt  
Rất tốt  
Cực tốt  
< 2  
2 – 3  
3 – 5  
5 – 10  
> 10  
> 2  
Bảng 2. Tổng hợp thông số TOC, Rock-Eval  
Thành phần  
thạch học  
TOCtb  
(% khối lượng)  
1,10  
S2tb  
(kg/T)  
4,11  
3,19  
3,39  
3,50  
2,89  
329,84  
4,94  
5,64  
HItb  
(mgHC/gTOC)  
Trầm tích  
Lô  
05-2  
07-3  
130  
131  
136  
05-2  
07-3  
130  
131  
136  
07-3  
136  
375  
255  
368  
345  
394  
416  
289  
515  
471  
307  
312  
282  
1,23  
0,96  
1,02  
0,69  
79,42  
1,68  
1,14  
1,07  
1,28  
Sét kết/sét bột kết  
Miocene dưới  
Oligocene  
Than  
Sét kết/sét bột kết  
5,04  
3,93  
221,46  
155,37  
70,16  
53,06  
Than/sét than  
Để đánh giá mức độ giàu, nghèo vật chất hữu cơ  
có thể sử dụng bảng phân loại đá mẹ theo các bậc hàm  
lượng khác nhau từ nghèo, trung bình đến tốt, rất tốt và  
cực tốt (Bảng 1). Theo đó, sét kết trầm tích Miocene dưới  
trong khu vực nghiên cứu ở các lô này có độ giàu vật chất  
hữu cơ từ trung bình đến tốt, tổng hàm lượng carbon hữu  
cơ trung bình (TOCtb) từ 0,69 - 1,23% khối lượng (Bảng 2).  
Một số mẫu giếng khoan 07-3-C-1X thể hiện tiềm năng  
sinh rất tốt với chỉ số S2 dao động trong khoảng 5 kg/T. So  
với các giếng ở bể Nam Côn Sơn, vật chất hữu cơ trong các  
giếng khoan ở Lô 136 (bể Tư Chính - Vũng Mây) thể hiện  
độ giàu và tiềm năng sinh hydrocarbon kém hơn.  
Bên cạnh các mẫu sét kết, các mẫu than/sét than cũng  
được tìm thấy ở trầm tích Miocene dưới và Oligocene.  
Mẫu than tập trầm tích Miocene dưới nằm ở khu vực Lô  
05-2 có độ giàu vật chất hữu cơ và tiềm năng sinh khí cực  
tốt (TOC = 66,70 - 87,90% khối lượng, S2 = 302,91 - 396,02  
kg/T). Trong khi đó, than/sét than tập trầm tích Oligocene  
chủ yếu là mẫu ở khu vực Lô 07-3 và Lô 136.  
Nguồn gốc vật chất hữu cơ trong trầm tích Miocene  
dưới và Oligocene được xác định dựa trên cơ sở xác định  
các dấu vết sinh vật. Tỷ số Pristane/Phytane từ kết quả  
phân tích sắc ký được dùng để chỉ mức độ oxy hóa của  
môi trường chôn vùi vật liệu sinh. Ở điều kiện giàu oxy,  
các sản phẩm hydrocarbon có xu hướng giàu thành phần  
Pristane và ngược lại, Phytane được tạo thành từ sự khử  
Phytone ở môi trường nghèo oxy [11]. Ngoài ra, phân tích  
sắc ký khí ghép khối phổ của phân đoạn hydrocarbon no  
cũng xác định các dấu vết sinh vật, đặc biệt là các dải phân  
bố của các triterpane (m/z 191) và sterane (m/z 217) được  
sử dụng rất hữu hiệu trong việc xác định các đặc trưng  
cho nguồn vật liệu của vật chất hữu cơ. Oleanane được  
xác định trên dải phân bố triterpane, có nguồn gốc từ thực  
vật bậc cao là các cây có hoa hạt kín của vật liệu sinh tuổi  
Cretaceous muộn đến hiện tại, khá bền vững với tác động  
của độ trưởng thành nhiệt, là cấu tử đặc trưng cho nguồn  
vật liệu hữu cơ được tách ra từ thực vật bậc cao [11]. Trên  
Sét kết trầm tích Oligocene khu vực nghiên cứu phân  
bố ở các lô 07-3, 130, 131, 136. Các phân tích nhiệt phân  
[4 - 10] cho thấy vật chất hữu cơ trong trầm tích Oligocene  
có độ giàu từ trung bình đến rất tốt (TOC = 0,77 - 3,58%  
khối lượng), tiềm năng sinh hydrocarbon phân bố trong  
khoảng rộng, từ nghèo - trung bình đến cực tốt (S2 = 1,20  
- 12,83 kg/T). Chất lượng vật chất hữu cơ tập trầm tích này  
tương đối tốt hơn so với trầm tích Miocene dưới ở các lô  
tương ứng (Bảng 2). Biểu đồ tiềm năng sinh (Hình 2) thể  
hiện trầm tích Miocene dưới và Oligocene phân bố trong  
vùng có khả năng sinh dầu là chính. Đá mẹ tại các giếng  
khoan chứa chủ yếu kerogen loại II/III, cho khả năng sinh  
dầu và khí.  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
27  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
Trung  
bình  
Trung  
Rất tốt  
Rất tốt  
Mẫu than  
Nghèo  
Tốt  
Nghèo  
Tốt  
bình  
1000  
100  
10  
1000  
100  
10  
Lô 05-2  
Lô 05-2  
Lô 07-3  
Lô 130  
Lô 131  
Lô 136  
Lô 07-3  
Lô 130  
Lô 131  
Lô 136  
Mẫu than/sét than  
1
1
0,1  
0,1  
0,1  
0,1  
1
10  
100  
1
10  
100  
Tổng carbon hữu cơ % khối lượng  
Tổng carbon hữu cơ % khối lượng  
05-2-A-1X  
05-2-A-1X (than)  
07-3-C-1X  
131-G-1X  
07-3-C-3X  
130-F-1X  
05-2-B-1X  
07-3-C-3X  
131-G-1X  
07-3-C-1X  
130-F-1X  
136-D-1X  
136-E-1X  
136-D-1X  
07-3-C-1X (than)  
07-3-C-3X (than)  
136-D-1X (than)  
136-D-1X ST1  
(a)  
(b)  
Hình 2. Biểu đồ tiềm năng sinh trầm tích Miocene dưới (a), Oligocene (b)  
dải phân bố sterane, các cấu tử sterane C27, C28, C29 là sản  
phẩm được chuyển đổi tương ứng từ những sterols của  
tảo, động vật và thực vật bậc cao. Nồng độ tương đối  
cao của sterane C29 so với sterane C27, sterane C28 là dấu  
hiệu đóng góp phong phú của thực vật thượng đẳng vào  
nguồn vật chất hữu cơ ban đầu [12]. Theo các tài liệu phân  
tích mẫu [4 - 10], các mẫu sét kết/sét bột kết ở Lô 05-2  
và 07-3 có tỷ số Pristane/Phytane cao > 3 (Pr/Phy = 3,07  
- 8,50) chỉ thị cho môi trường oxy hóa cao. Đồng thời kết  
quả phân tích dấu vết sinh vật của các mẫu này cho thấy  
có sự hiện diện với hàm lượng cao của oleanane cũng như  
sự nổi trội của sterane C29 (sterane C29 >> các sterane C27,  
C28) thể hiện sự ưu thế của vật chất hữu cơ có nguồn gốc  
thực vật bậc cao (Hình 3 và 4). Tương tự, ở giếng khoan  
136-D-1X/1X-ST1, đá mẹ có nguồn vật liệu sinh chủ yếu từ  
thực vật bậc cao với sự xuất hiện của tảo. Riêng mẫu giếng  
khoan 136-E-1X xuất hiện các hợp chất tricyclic terpane  
với nồng độ thấp, sterane C27 vượt trội so với sterane C28,  
sterane C29 (sterane C27 >> các sterane C28, C29) cho thấy sự  
đóng góp đáng kể của tảo vào nguồn gốc vật chất hữu cơ  
ban đầu.  
Ngoài ra, nhóm tác giả cũng tiến hành liên kết giếng  
khoan nước sâu với các giếng nước nông, khu vực liên  
kết tập trung chủ yếu giữa giếng nước sâu Lô 05-2 với các  
giếng nước nông Lô 05 lân cận. Tài liệu phân tích địa hóa  
của Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) cho thấy vật chất hữu cơ  
trong đá mẹ Miocene dưới và Oligocene các giếng nước  
nông chứa chủ yếu kerogen loại II/III, với tỷ phần kerogen  
loại II trong các giếng nước sâu tương đối cao hơn các  
giếng nông. Loại vật chất hữu cơ trong các giếng liên kết  
cũng có đặc trưng tương tự như các giếng khoan nước  
sâu, thành phần chủ yếu là thực vật bậc cao có sự xuất  
hiện của tảo, có thể nhận thấy tính lục địa của vật chất  
hữu cơ trong mẫu các giếng nước nông có xu hướng cao  
hơn ở các giếng nước sâu (Hình 5).  
2.2. Độ trưởng thành vật chất hữu cơ  
Mức độ trưởng thành của vật chất hữu cơ thường  
được đánh giá dựa trên độ phản xạ vitrinite của mẫu lấy  
tại vị trí giếng khoan, giá trị độ phản xạ vitrinite (%Ro)  
thông thường là giá trị phổ biến nhất được đo trên mỗi  
mẫu. Độ phản xạ vitrinite Ro đạt từ 0,55% thì vật chất hữu  
cơ đã bước vào giai đoạn trưởng thành; khi vật chất hữu  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
28  
PETROVIETNAM  
100  
100  
Lô 05-2  
Lô 07-3  
Lô 130  
Lô 131  
Lô 136  
10  
10  
1
1
0,1  
0,1  
0,1  
1
10  
50  
0,1  
1
10  
50  
Phytane/nC18  
Phytane/nC18  
07-3-C-1X  
07-3-C-3X  
05-2-A-1X (than)  
07-3-C-3X  
05-2-A-1X  
136-D-1X  
130-F-1X  
05-2-B-1X  
136-D-1X  
131-G-1X  
131-G-1X  
07-3-C-1X (than)  
130-F-1X  
07-3-C-3X (than)  
(a)  
(b)  
Hình 3. Biểu đồ Pristane/nC17 và Phytane/nC18 trầm tích Miocene dưới (a), trầm tích Oligocene (b)  
cơ bị chìm sâu và Ro đạt ngưỡng trên 0,72% mới bắt đầu  
sinh dầu mạnh. Bên cạnh đó, kết quả phân tích nhiệt phân  
Rock-Eval (Tmax) cũng được sử dụng để đánh giá mức độ  
trưởng thành nhiệt, tuy nhiên đôi khi các kết quả phân  
tích bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi tướng, tái trầm tích hay  
mẫu nhiễm bẩn. Ngoài ra, các giếng khoan trong vùng  
nghiên cứu có độ sâu mực nước biển dao động lớn nên  
các đánh giá về độ sâu đạt ngưỡng trưởng thành cần lưu  
ý đặc điểm này.  
trưởng thành khu vực này có sự thay đổi đáng kể khi tính  
đến độ sâu mực nước biển. Đá mẹ giếng khoan 136-D-1X  
bắt đầu vào ngưỡng trưởng thành ở độ sâu tương đương  
hơn 3.200 m. Nhìn chung, vật chất hữu cơ trong đá mẹ  
ở dưới trầm tích Miocene dưới giếng khoan 136-D-1X  
và 136-E-1X đã trưởng thành nhiệt. Về phía Bắc bể Nam  
Côn Sơn, mẫu thuộc khu vực giếng khoan Lô 130 và 131  
bị nhiễm bẩn bùn khoan khá nhiều, tài liệu phân tích độ  
phản xạ vitrinite của các mẫu đá giếng khoan 130-F-1X  
cho thấy tập trầm tích Miocene dưới và Oligocene ở giếng  
khoan này chỉ ở mức chớm trưởng thành nhiệt (%Ro <  
0,55%). Trong khi đó, các mẫu khu vực giếng khoan 131-  
G-1X thể hiện giá trị phản xạ vitrinite cao hơn, vật chất  
hữu cơ đủ độ trưởng thành từ khoảng độ sâu 1.500 m trở  
xuống.  
Tài liệu phân tích độ phản xạ vitrinite và nhiệt phân  
Tmax [4 - 5] cho thấy tập trầm tích Miocene dưới giếng  
khoan A-1X và B-1X khu vực Lô 05-2 chớm trưởng thành  
đến trưởng thành (Hình 6). Tại khu vực phía Bắc của Lô 05-  
2, đá mẹ Miocene dưới giếng khoan 05-2-A-1X đạt ngưỡng  
trưởng thành (giá trị Ro ~ 0,55%) ở độ sâu hơn 2.800 m. Tại  
khu vực phía Đông Nam Lô 05-2, đá mẹ giếng khoan 05-  
2-B-1X đạt ngưỡng trưởng thành ở độ sâu hơn 3.500 m.  
Ở khu vực Lô 07-3, vật chất hữu cơ trong giếng khoan 07-  
3-C-1X bắt đầu bước vào ngưỡng trưởng thành ở độ sâu  
hơn 3.100 m, đá mẹ giếng khoan 07-3-C-3X trưởng thành  
ở độ sâu nông hơn. Độ sâu mực nước biển thay đổi khá  
lớn về phía Đông (khu vực Lô 136) nên độ sâu đạt ngưỡng  
Mô hình địa hóa dự báo cho thấy các tập đá mẹ  
Oligocene, Miocene dưới đã và đang trong quá trình sinh  
dầu và khí (độ sâu ranh giới các ngưỡng tạo sản phẩm của  
đá mẹ xác định sau khi đã loại trừ mực sâu nước biển). Kết  
quả mô hình là sự kết hợp nhiều thông số liên kết, để cho  
ra kết quả tối ưu nhất. Mô hình trưởng thành được xây  
dựng nhằm khôi phục lịch sử chôn vùi trầm tích cũng như  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
29  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
C 28  
100  
%
0
C 28  
%
05-2-A-1X  
05-2-B-1X  
07-3-C-1X  
07-3-C-1 X  
07-3-C-3 X  
0
100  
136-D-1X  
07-3-C-3X  
07-3-C-1 X (Than)  
07-3-C-3 X (Than)  
136-D-1X (Than)  
136-D-1X  
136-D-1X ST1  
136-E-1X  
80  
20  
80  
20  
05-2-A-1X (Than)  
40  
40  
60  
60  
ĐẦM HỒ  
60  
ĐẦM HỒ  
60  
40  
40  
80  
80  
20  
20  
BIỂN MỞ  
BIỂN MỞ  
THỰC VẬT  
BẬC CAO  
THỰC VẬT  
BẬC CAO  
100  
0
100  
0
100  
0
80  
60  
40  
20  
100  
%
80  
60  
40  
20  
0
C 29  
%
C 29  
%
C 27 %  
C 27  
Lô 05-2  
Lô 07-3  
Lô 130  
Lô 131  
Lô 136  
Lô 05-2  
Lô 07-3  
Lô 130  
Lô 131  
Lô 136  
(a)  
(b)  
Hình 4. Biểu đồ sterane C27 ,C28 ,C29 trầm tích Miocene dưới (a), trầm tích Oligocene (b)  
100  
05-2-A-1X  
05-2-B-1X  
07-3-C-1X  
07-3-C-3X  
136-D-1X  
C28  
%
0
100  
136-D-1X ST1  
136-E-1X  
80  
20  
05-1a-LK1-1X  
05-1a-LK2-1X  
10  
40  
60  
ĐẦM HỒ  
60  
40  
1
80  
20  
BIỂN MỞ  
60  
THỰC VẬT BẬC CAO  
20  
100  
0
100  
%
80  
40  
0
C29  
%
0,1 0,1  
C27  
1
10  
50  
Lô 05-2  
Phytane/nC18  
Lô 07-3  
Lô 130  
Lô 131  
Lô 136  
05-2-A-1X-than  
07-3-C-3X  
05-2-B-1X  
05-2-A-1X  
07-3-C-1X  
07-3-C-1X-than  
131-G-1X  
07-3-C-3X (than)  
136-E-1X  
130-F-1X  
05-1a-LK1-1X  
05-1a-LK1-1X (than)  
Giếng nước nông  
05-1a-LK2-1X (than)  
(a)  
(b)  
Hình 5. Biểu đồ Pristane/nC17 và Phytane/nC18 trầm tích Miocene dưới và Oligocene của giếng khoan nước sâu và nước nông lân cận (a), Biểu đồ sterane C27 , C28 , C29 trầm tích Miocene  
dưới và Oligocene của giếng khoan nước sâu và nước nông lân cận (b)  
quá trình sinh dầu, khí của đá mẹ chứa giàu vật chất hữu  
cơ. Dữ liệu đầu vào gồm thành phần thạch học, sự kiện địa  
chất, đặc điểm đá mẹ và các tham số điều kiện biên (dòng  
nhiệt, độ sâu mực nước cổ, nhiệt độ bề mặt trầm tích theo  
từng giai đoạn...). Số liệu đo tại giếng khoan (giá trị nhiệt  
độ, áp suất, độ phản xạ vitrinite) được dùng hiệu chuẩn  
cho kết quả mô hình [3].  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
30  
PETROVIETNAM  
tạo sản phẩm. Hiện tại, đá mẹ Miocene dưới  
đã đạt trưởng thành và bắt đầu sinh dầu, khí.  
Khu vực các đới nâng, nơi vắng mặt trầm tích  
hoặc trầm tích vát mỏng hiện tại đá mẹ vẫn  
chưa vào ngưỡng trưởng thành (Hình 7).  
%Ro  
1000  
2000  
3000  
4000  
5000  
6000  
A -1 X (Miocene dưới)  
B -1 X (Miocene dưới)  
C -1 X (Miocene dưới)  
C -3 X (Miocene dưới)  
D -1 X (Miocene dưới)  
F -1 X (Miocene dưới)  
G -1 X (Miocene dưới)  
D -1 X ST 1 (Miocene dưới)  
E -1 X (Miocene dưới)  
C-1X (Oligocene)  
C-3X (Oligocene)  
D-1X (Oligocene)  
F-1X (Oligocene)  
G-1X (Oligocene)  
Vị trí giếng khoan 131-G-1X trên Tuyến  
2 (Hình 8) cho thấy đá mẹ Oligocene gần  
như trải qua các pha tạo sản phẩm. Hiện  
tại, trên mặt cắt trưởng thành vật chất hữu  
cơ qua Tuyến 2 cho thấy đá mẹ Oligocene  
và Miocene dưới đã vào pha cửa sổ tạo dầu  
(khoảng độ sâu 2.500 - 3.500 m), ngoại trừ  
đá mẹ Oligocene (phần dưới sâu) đang tạo  
khí khô (độ sâu > 5.800 m). Các vị trí khác  
(khu vực nông hơn) độ trưởng thành đá mẹ  
vẫn chưa đạt ngưỡng. Giếng khoan 05-2-B-  
1X có mặt trên Tuyến 6, đá mẹ Oligocene  
đã trưởng thành đang trong pha sinh dầu  
ở độ sâu dưới 3.500 m, một phần chớm vào  
pha khí ẩm. Vị trí trung tâm mặt cắt, đá mẹ  
Oligocene vào pha tạo khí khô độ sâu dưới  
6.400 m. Đá mẹ Miocene dưới đạt trưởng  
thành và vào pha sinh dầu sớm dưới 3.100  
m (Hình 9).  
Giếng khoan 07-3-C-1X, 136-D-1X nằm  
trên Tuyến số 3, tại hai vị trí của giếng khoan  
này mực nước biển dao động từ 300 - 800  
m. Độ trưởng thành đá mẹ tại giếng khoan  
07-3-C-1X có độ sâu từ 2.600 m, pha sinh  
dầu dưới 3.300 m. Giếng 136-D-1X, độ sâu  
đạt ngưỡng trưởng thành từ 2.400 m, vào  
pha sinh dầu dưới 3.200 m và bắt đầu chạm  
vào đới tạo khí ẩm - condensate độ sâu dưới  
5.000 m. Khu vực trung tâm mặt cắt, đá mẹ  
đã vào pha sinh khí khô độ sâu dưới 6.000 m  
(đá mẹ Oligocene) (Hình 10).  
Hình 6. Giá trị phản xạ vitrinite theo độ sâu mẫu từ đáy biển  
Mô hình khảo sát cho thấy đá mẹ khu  
vực bể Tư Chính - Vũng Mây đạt mức độ  
trưởng thành cao hơn so với đá mẹ khu vực  
phía đông bể Nam Côn Sơn. Nguyên nhân  
gây ra sự khác nhau trên có thể ảnh hưởng  
bởi đới tách giãn biển đông vị trí gần bể Tư  
Chính - Vũng Mây.  
Hình 7. Mặt cắt trưởng thành vật chất hữu cơ, Tuyến 1  
Như vậy, với kết quả phân tích mẫu đánh  
giá mức độ trưởng thành vật chất hữu cơ tại  
giếng khoan cho thấy đá mẹ Oligocene và  
Miocene đã trưởng thành có khả năng sinh  
Giếng khoan 130-F-1X khảo sát trên Tuyến 1 cho thấy đá mẹ đã  
đạt ngưỡng trưởng thành sớm ở độ sâu dưới 2.000 m. Các pha trưởng  
thành của đá mẹ trên mặt cắt phát triển hướng từ Tây Bắc sang Đông  
Nam, tại vị trí trũng sâu phần lớn đá mẹ Oligocene đã trải qua các pha  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
31  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
131-G-1X  
đến sự khác nhau trên có thể xảy ra trong quá  
trình khoan lấy mẫu bị sai sót (mẫu bị rơi vãi  
ảnh hưởng đến độ sâu trong quá trình khoan)  
hoặc do khâu xử lý nhiễm bẩn mẫu chưa sạch  
hoàn toàn trong đo mẫu vitrinite.  
3. Kết luận  
Khu vực giếng khoan nước sâu các lô  
05-2, 07-3, 130, 131, 136 bể Nam Côn Sơn  
và Tư Chính - Vũng Mây có mặt đá mẹ tuổi  
Oligocene và Miocene dưới. Độ giàu vật chất  
hữu cơ và tiềm năng sinh hydrocarbon của  
đá mẹ ở mức trung bình đến tốt. Vật chất hữu  
cơ vùng nghiên cứu chủ yếu chứa kerogen  
loại II/III cho khả năng sinh dầu và khí. Đá mẹ  
khu vực Lô 05-2 và 07-3 có nguồn vật chất  
hữu cơ chủ yếu là thực vật bậc cao lắng đọng  
trong môi trường oxy hóa. Tại giếng khoan  
Lô 136 đá mẹ chứa vật liệu hữu cơ hỗn hợp  
có sự tham gia của tảo và thực vật bậc cao.  
Hình 8. Mặt cắt trưởng thành vật chất hữu cơ, Tuyến 2  
05-2-B-1X  
Đá mẹ Oligocene phần lớn đã trưởng  
thành nhiệt, đá mẹ Miocene dưới có các  
ngưỡng trưởng thành khác nhau tùy khu  
vực. Mô hình trưởng thành cho thấy các tập  
đá mẹ này đã và đang trong quá trình sinh  
dầu và khí. Đá mẹ Oligocene gần như trải  
qua các pha tạo sản phẩm tại các trũng sâu,  
trong khi một phần đá mẹ Miocene dưới đã  
trưởng thành và vào pha sinh dầu sớm.  
Hình 9. Mặt cắt trưởng thành vật chất hữu cơ, Tuyến 6  
07-3-C-1X, 136-D-1X  
Tài liệu tham khảo  
[1] Nguyễn Hiệp và nnk, Địa chất và tài  
nguyên dầu khí Việt Nam, 2007.  
[2] Nguyễn Thị Dậu, Phan Văn Thắng,  
Phan Mỹ Linh, và Hoàng Nhật Hưng, “Quá  
trình sinh dầu khí của đá mẹ khu vực đới  
trũng Đông Bắc và phụ đới trũng trung tâm  
bể Nam Côn Sơn, Tạp chí Dầu khí, Số 1, tr. 14  
- 22, 2015.  
[3] Trịnh Xuân Cường và nnk, Minh giải  
tài liệu địa chấn 2D Dự án điều tra cơ bản khảo  
sát địa chấn 2D liên kết các bể trầm tích trên  
thềm lục địa Việt Nam, 2019.  
Hình 10. Mặt cắt trưởng thành vật chất hữu cơ, Tuyến 3  
dầu, khí (trong đó đá mẹ Oligocene có mức độ trưởng thành cao hơn).  
Tuy nhiên, kết quả mô hình dựa trên sự kết hợp các thông số cho thấy  
độ sâu trưởng thành vật chất hữu cơ của đá mẹ dường như nông hơn so  
với độ sâu trưởng thành của giá trị đo vitrinite (%Ro). Nguyên nhân dẫn  
[4] Vietnam  
Geochemical evaluation of cutting samples  
from 05-2-A-1X well, offshore Vietnam.  
Petroleum  
Institute,  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
32  
PETROVIETNAM  
[5] Vietnam Petroleum Institute, Geochemical  
evaluation of cutting samples from 05-2-B-1X well, offshore  
Vietnam.  
[10] Vietnam Petroleum Institute, Geochemical  
evaluation samples from 136-E-1X.  
[11] Kenneth E.Peters, Clifford C.Walters, and  
J.Michael Moldowan, “Biomarkers and isotopes in the  
enviroment and human history, The Biomarker Guide,  
Cambridge University Press, Vol. 1, 2008.  
[6] Vietnam Petroleum Institute, Geochemical  
evaluation samples from 130-F-1X.  
[7] Vietnam Petroleum Institute, Geochemical  
evaluation samples from 131-G-1X.  
[12] Wen-Yen Huwang and W.G.Meinschein, “Sterols  
as ecological indicators, Geochimica et Cosmochimica  
Acta, 1979.  
[8] Vietnam Petroleum Institute, Geochemical  
evaluation samples from 136-D-1X.  
[9] Vietnam Petroleum Institute, Geochemical  
evaluation samples from 136-D-1X-ST1.  
GEOCHEMICAL CHARACTERISTICS OF SOURCE ROCKS IN DEEP-WATER  
WELLS IN NAM CON SON AND TU CHINH - VUNG MAY BASINS  
Nguyen Thi Oanh Vu, Nguyen Thi Tuyet Lan, Phan Van Thang, Nguyen Thi Thanh Nga  
Vietnam Petroleum Institute  
Email: vunto@vpi.pvn.vn  
Summary  
The characteristics of source rocks in deep-water wells in Nam Con Son and Tu Chinh - Vung May basins were evaluated by geochemical  
analyses such as Rock-Eval pyrolysis, TOC, GC, and GC-MS, etc. The organic richness and generative potential of Lower Miocene and Oligocene  
source rocks in the study area vary from medium to good, and the types of organic matters are quite similar to those of the shallow wells  
nearby. The maturity modelling shows that the Lower Miocene and Oligocene source rocks have been in the oil and gas generation phase.  
Key words: Source rock, Lower Miocene, Oligocene, thermal maturity, Nam Con Son basin, Tu Chinh - Vung May basin.  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
33  
pdf 8 trang yennguyen 16/04/2022 29040
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm địa hóa đá mẹ khu vực các giếng nước sâu bể Nam Côn Sơn và Tư Chính - Vũng Mây", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_dia_hoa_da_me_khu_vuc_cac_gieng_nuoc_sau_be_nam_con.pdf