Nghiên cứu tiềm năng khoáng sản rắn đáy biển hiện diện trong các mẫu oxide sắt mangan ở phía Tây Nam biển Đông

THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 8 - 2020, trang 34 - 44  
ISSN 2615-9902  
NGHIÊN CỨU TIỀM NĂNG KHOÁNG SẢN RẮN ĐÁY BIꢀN HIỆN DIỆN  
TRONG CÁC MẪU OXIDE SẮT MANGAN Ở PHÍA TÂY NAM BIꢀN ĐÔNG  
Nguyễn Thị Thắm1, Phạm Bá Trung2, Hoàng Nhật Hưng1, Nguyễn Hoài Chung1, Lê Chi Mai1  
Nguyễn Thanh Tuyến1, Tạ Thị Hòa1, Nguyễn Văn Hiếu1, Nguyễn Quang Tuấn1  
1Viện Dầu khí Việt Nam  
2Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam  
Email: thamnt@vpi.pvn.vn  
Tóm tắt  
Khu vực các bể trầm tích Nam Côn Sơn và Tư Chính - Vũng Mây được dự báo còn có tiềm năng lớn về khoáng sản rắn đáy biển liên  
quan đến kết hạch sắt mangan (Fe-Mn) hay vỏ Fe-Mn. Kết quả phân tích mẫu oxide Fe-Mn ở phía Tây Nam Biển Đông cho thấy các mẫu  
được nghiên cứu có hàm lượng Fe-Mn trung bình từ 15 - 21%, đi kèm là các nguyên tố kim loại có giá trị khác như Ni (1.932 ppm), Co  
(485 ppm), Cu (286 ppm), Ba (3.836 ppm), Ti (11.092 ppm), Mo (240 ppm), V (516 ppm), Pb (1.455 ppm), Zn (573 ppm)… Ngoài ra, các  
nguyên tố hiếm cũng chiếm tỷ lệ khá cao (trung bình 370 ppm/mẫu), trong đó hàm lượng La (52 ppm), Ce (168 ppm), Nd (43 ppm) có  
tỷ lệ lớn hơn các nguyên tố khác. Các mẫu này được hình thành chủ yếu trong quá trình hydro hóa (hydrogenetic) và quá trình hỗn hợp  
giữa hydro hóa và thủy nhiệt (hydrothermal). Nguồn gốc hình thành các mẫu oxide Fe-Mn này liên quan chặt chẽ tới quá trình tích tụ các  
nguyên tố đất hiếm như La, Ce, Pr, Nd, Sm, Eu, Gd, Tb, Dy, Ho, Er, Tm, Yb, Lu...  
Từ khóa: Khoáng sản rắn, quá trình hydro hóa, thủy nhiệt, Pliocene - Đệ tứ, oxide Fe-Mn, bể Nam Côn Sơn, bể Tư Chính - Vũng Mây, Tây  
Nam Biển Đông.  
1. Giới thiệu  
Khu vực nghiên cứu được giới hạn trong một phần  
trầm tích Fe-Mn được hình thành dưới 3 cơ chế: quá trình  
hydro hóa, thủy nhiệt và quá trình thành đá (diagenetic)  
trong các bối cảnh địa chất và đại dương khác nhau. Quá  
trình hydro hóa (hydrogenesis) là quá trình trong đó các  
khoáng vật được kết tủa trực tiếp từ nước biển nhiệt độ  
thấp. Quá trình thủy nhiệt là quá trình các ion kim loại  
kết tủa từ nguồn nước nóng liên quan đến các vùng dị  
thường nhiệt dưới đáy đại dương hoặc núi lửa. Quá trình  
thành đá là quá trình các ion kim loại được làm giàu, được  
kết tủa từ nước lỗ rỗng trầm tích - là nước biển bị thay  
đổi bởi các phản ứng hóa học ở bên trong trầm tích. Các  
kết hạch Fe-Mn hay vỏ Fe-Mn hình thành theo quá trình  
hydro hóa có tốc độ phát triển rất chậm, khoảng 1 - 15  
mm/triệu năm, trong khi các kết hạch hay vỏ Fe-Mn hình  
thành theo quá trình thành đá thì tốc độ vài trăm mm/  
triệu năm [2] và các kết hạch Fe-Mn hay vỏ Fe-Mn thành  
tạo trong quá trình hydro hóa (1 - 15 mm/triệu năm) chậm  
hơn quá trình thủy nhiệt (15 - 20 mm/triệu năm) [3].  
diện tích phía Tây Nam Biển Đông (109 - 112o N và 9 - 11o  
E) (Hình 1). Khu vực này có địa hình phức tạp, nước biển  
thay đổi từ vài chục mét tại các bãi ngầm đến 2.800 m ở  
khu vực trũng sâu. Địa hình đáy biển phân dị mạnh theo  
phương Đông Bắc - Tây Nam, có xu hướng trũng sâu ở khu  
vực trung tâm khi đi từ Tây Nam lên Đông Bắc. Đáy biển  
thay đổi rất nhanh, bề mặt gồ ghề, nâng hạ không đều  
theo móng granite của sườn lục địa, tạo ra những cấu trúc  
phân dị phức tạp như các khối nhô, các bán địa hào do  
hoạt động của các núi lửa cổ cũng như núi lửa hiện đại  
cùng với các đới thành tạo carbonate và ám tiêu san hô.  
Địa hình đáy biển trong giai đoạn Pliocene - Đệ tứ tới hiện  
tại cho thấy hoạt động kiến tạo tương đối bình ổn, với cơ  
chế lún chìm nhiệt chiếm ưu thế. Các hoạt động núi lửa  
trong khu vực được xếp vào giai đoạn phun trào magma  
basalt Cenozoic muộn (Neogene - Đệ tứ).  
Để nghiên cứu thành phần vật chất, nguồn gốc  
thành tạo các mẫu này, nhóm tác giả đã thực hiện các  
phương pháp nghiên cứu chuyên sâu cho khoáng sản  
rắn đáy biển như: phương pháp cổ sinh địa tầng, thạch  
học lát mỏng, nhiễu xạ tia X (XRD), khoáng tướng, quang  
phổ huỳnh quang tia X (XRF), quang phổ plasma cặp  
Trầm tích Pliocene - Đệ tứ ở khu vực Thái Bình Dương  
chứa hàm lượng lớn kết hạch Fe-Mn hay vỏ Fe-Mn [1]. Các  
Ngày nhận bài: 4/3/2020. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 5/3 - 11/5/2020.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 20/7/2020.  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
34  
PETROVIETNAM  
cảm ứng (ICP-MS)... Bài báo trình bày các kết quả nghiên cứu mới nhất  
dựa trên các kết quả phân tích vi cổ sinh, tảo vôi, XRF, ICP-MS và tính  
chất vật lý của mẫu thu được trong quá trình triển khai nhiệm vụ “Xây  
dựng quy trình phân tích một số chỉ tiêu mới cho trầm tích Pliocene - Đệ  
tứ ở bể Nam Côn Sơn và Tư Chính - Vũng Mây.  
hiển vi soi nổi và kính hiển vi phân cực.  
Tiêu chuẩn phân chia đới foram trôi nổi  
được sử dụng theo các bảng phân đới của  
W.H.Blow [4], Bridget S.Wade và cộng sự  
[5] và các tiêu chuẩn phân đới của tảo vôi  
theo tiêu chuẩn phân đới của E.Martinii [6],  
Jan Backman và cộng sự [7].  
2. Cơ sở dữ liệu và phương pháp nghiên cứu  
2.1. Cơ sở dữ liệu  
-
Phương pháp quang phổ huỳnh  
quang tia X (XRF) phân tích định tính và  
bán định lượng, xác định chính xác sự  
xuất hiện của các nguyên tố kim loại và  
đất hiếm trong mẫu phân tích dựa trên  
các pic đặc trưng khi thực hiện quét phổ  
trong khoảng góc đo xác định. Hàm lượng  
xác định trong khoảng 0,0001 - 100% tùy  
thuộc vào từng nguyên tố và thiết bị sử  
dụng. Thiết bị chính được sử dụng là hệ  
thiết bị huỳnh quang tia X (S8 Tiger) với  
hệ thống tán sắc bước sóng hoặc tán sắc  
năng lượng cùng với buồng chân không.  
Các mẫu oxide Fe-Mn đã được cung cấp bởi Viện Hải dương học. Các  
mẫu này đã được thu thập trong khảo sát nghiên cứu biển và thềm lục địa  
Việt Nam và vùng biển sâu. Trong giai đoạn 1981 - 2019, 35 chuyến khảo  
sát biển và thềm lục địa Việt Nam đã được thực hiện trên các tàu nghiên  
cứu khoa học thuộc hạm đội tàu vùng Viễn Đông và đặc biệt hợp tác Việt  
- Pháp về địa chất - địa vật lý biển bằng tàu L’Atalante (5/1993). Tổng cộng  
có 7 mẫu vỏ Fe-Mn được nghiên cứu, các mẫu này được lấy ở khu vực phía  
Tây Nam Biển Đông, có màu từ đen đến nâu đen, nằm trong khoảng tọa  
độ từ 109 - 112° N và 9 - 11° E, có độ sâu cột nước trong khoảng 346 - 1.300  
m (Hình 1, Bảng 1).  
2.2. Phương pháp nghiên cứu  
-
Phương pháp quang phổ plasma  
Phương pháp cổ sinh - địa tầng: Áp dụng 2 phương pháp là phân  
tích vi cổ sinh và phân tích tảo vôi. Các mẫu được gia công theo quy trình  
phân tích của Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) và được phân tích dưới kính  
cặp cảm ứng kết hợp đầu dò khối phổ (ICP-  
MS) được sử dụng để định lượng thành  
phần các nguyên tố trong mẫu (nguyên tố  
kim loại và đất hiếm) với độ chính xác đến  
phần triệu (ppm). Đây là phương pháp để  
xác định hàm lượng 36 nguyên tố trong  
mẫu đất đá và hàm lượng 16 nguyên tố  
đất hiếm trong mẫu quặng trên hệ thống  
thiết bị ICP-MS.  
3. Kết quả nghiên cứu  
Quần đảo  
Trường Sa  
3.1. Cổ sinh - địa tầng  
Quần đảo  
Hoàng Sa  
Kết quả phân tích cổ sinh - địa tầng  
cho thấy hóa thạch vi cổ sinh và tảo vôi  
trong các mẫu được nghiên cứu. Ngoài ra,  
cũng quan sát được tảo đỏ, mảnh san hô,  
mảnh vôi, đá quặng trong mẫu.  
Quần đảo  
Trường Sa  
Hình 1. Sơ đồ khu vực nghiên cứu và vị trí lấy mẫu  
Bảng 1. Vị trí các mẫu được thu thập và thông tin cơ bản  
TT  
1
2
3
4
5
6
7
Tên mẫu  
M1  
Độ sâu cột nước (m)  
900 – 1.300  
420 – 1.048  
427 – 530  
Khối lượng đo (g)  
Màu sắc  
Nâu đen  
Đen  
22,3761  
17,1514  
53,1795  
75,4104  
32,9159  
51,4397  
113,0707  
M2  
M3  
M4  
M5  
M6  
M7  
Đen ánh graphic  
Đen ánh graphic  
Đen, nâu đen ánh graphic  
Nâu đen  
434 – 545  
434 – 545  
346 – 375  
470 – 580  
Đen ánh graphic  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
35  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
M2  
M4  
M1  
M3  
M5  
M6  
3cm  
M7  
1
Hình 2. Các mẫu oxide Fe-Mn được nghiên cứu  
Tổ hợp trùng lỗ trôi nổi được phát hiện trong các  
mẫu M1, M3, M5 chiếm tỷ lệ khá cao từ 71 - 95% bao gồm  
các giống Globigerina, Globigerinoides, Globoquadrina,  
Globorotalia, Orbulina, Pulleniatina Sphaeroidinella  
trong khi các mẫu M2, M4, M6, M7 chỉ chiếm từ 23 - 48%,  
cũng bao gồm các giống trên ngoại trừ Orbulina; trùng lỗ  
bám đáy gồm các giống Cassidulina, Cibicides, Cibicidoides,  
Bước 3 lấy mẫu ra sau đó cân mẫu trong không khí và cân  
mẫu khi mẫu ngập hoàn toàn trong nước muối, tỷ trọng  
được tính từ các số đo này.  
Tỷ trọng khô của mẫu được tính từ thể tích mẫu và  
khối lượng khô của mẫu. Tỷ trọng ướt của mẫu được tính  
từ thể tích mẫu và khối lượng ướt của mẫu:  
Wsa Wsk  
BV =  
Cristellanria,  
Eponides,  
Amphistegina,  
Heterolepa,  
ρ
Sphaeroidina, Operculina, Pyro, Sigmoidella... Tảo vôi bắt  
gặp tổ hợp hóa đá Pleistocene thuộc các giống như  
Braarudosphaera, Calcidiscus, Calciosolenia, Gephyrocapsa,  
w
͑
sa  
͌̾ =  
w
̼͐  
Helicosphaera,  
Pseudoemilinia,  
Pontostphaera,  
͑
d
̼͐  
Rhadosphaera, Reticulofenestra, Umbilicosphaera. Ngoài  
ra, còn gặp các hóa thạch ở phần đáy Pliocene muộn như  
tảo vôi Sphenolithus abies, foram trôi nổi Dentoglobigerina  
altispira (Hình 3).  
͌̾ =  
d
Trong đó:  
BV: Thể tích tổng của mẫu (cm3);  
Wd: Khối lượng khô của mẫu (g);  
Wsa: Khối lượng ướt của mẫu cân trong không khí (g);  
3.2. Phân tích tính chất vật lý các mẫu oxide Fe-Mn  
-
Đo phổ gamma: Mẫu được đặt chính xác tại vị trí  
đầu dò bức xạ trong khoang kín, hệ thống đo ghi đồng  
thời phổ thành phần và tổng bức xạ gamma phát ra từ  
mẫu, qua đó xác định hàm lượng của potassium, uranium  
và thorium trong mẫu.  
Wsk: Khối lượng ướt của mẫu cân khi chìm trong nước  
muối (g);  
ρw: Tỷ trọng nước muối (g/cm3);  
RDd: Tỷ trọng khô của đá (g/cm3);  
RDw: Tỷ trọng ướt của đá (g/cm3).  
-
Đo tỷ trọng bằng phương pháp bão hòa: Phương  
pháp này được tiến hành theo 3 bước. Bước 1 là cân khối  
lượng khô của mẫu. Bước 2 cho mẫu vào bình kín chịu  
được áp suất cao và hút chân không mẫu; nước muối  
30.000 ppm được hút vào bình từ từ đến khi ngập hoàn  
toàn mẫu, để ít nhất 48 tiếng để mẫu bão hòa nước muối.  
Một số mẫu có sự chênh lệch lớn giữa tỷ trọng ướt và  
tỷ trọng khô (mẫu M1; M2; M7) chứng tỏ mẫu có độ rỗng/  
xốp cao hơn so với các mẫu có độ chênh lệch tỷ trọng nhỏ  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
36  
PETROVIETNAM  
1a. Globigerinoides. sacculifer, 1b. Globigerinoides. trilobus, 1c. Globigerinoides. immaturus (M4), 2. Sphaeroidinella dehiscens (M5), 3. Globorotalia.truncatulinoides (M4), 4. Globorotalia. tosaensis (M5),  
5. Pulleniatina obliquiloculata (M5), 6. Globoquadrina. altispira, 7. Gephyrocapsa. oceanica, 8. Pseudoemiliania. lacunosa, 9. Sphenolithus. abies  
Hình 3. Một số hình ảnh hóa thạch foram và tảo vôi trong mẫu kết hạch Fe-Mn  
Bảng 2. Kết quả phân tích tính chất vật lý các mẫu oxide Fe-Mn  
Tỷ trọng ướt  
(g/cm3)  
Tỷ trọng khô  
(g/cm3)  
TT  
Số hiệu mẫu  
Độ sâu (m)  
Khối lượng (g)  
1
2
3
4
5
6
7
M1  
M2  
M3  
M4  
M5  
M6  
M7  
900 – 1.300  
420 – 1.048  
427 – 530  
434 – 545  
434 – 545  
346 – 375  
470 – 580  
22,3761  
17,1514  
53,1795  
75,4104  
32,9159  
51,4397  
113,0707  
1,947  
2,158  
2,447  
2,452  
2,655  
2,625  
2,116  
1,620  
1,937  
2,284  
2,310  
2,547  
2,477  
1,873  
(M3; M4; M5; M6). Các mẫu có tỷ trọng cao thường chứa  
nhiều hàm lượng khoáng vật nặng.  
xác định thành phần nguyên tố ở các vòng tăng trưởng  
khác nhau của mẫu oxide Fe-Mn (Bảng 3). Các mẫu oxide  
Fe-Mn có hàm lượng Fe-Mn trung bình từ 15 - 21%, đi  
kèm là các nguyên tố kim loại có giá trị khác như Ni (1.932  
ppm), Co (485 ppm), Cu (286 ppm), Ba (3.836 ppm), Ti  
(11.092 ppm), Mo (240 ppm), V (516 ppm), Pb (1.455 ppm),  
Zn (573 ppm)…  
3.3. Quang phổ XRF  
Dựa vào kết quả phân tích XRF cho thấy sự xuất hiện  
của 38 nguyên tố trong mẫu được nghiên cứu. Mẫu M5  
được chia thành M5a và M5b và M6 thành M6a và M6b để  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
37  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
3.4. ICP-MS cho các nguyên tố đất hiếm  
4. Thảo luận  
Các mẫu oxide Fe-Mn có tuổi từ Pliocene muộn tới  
Tỷ lệ trung bình hàm lượng các nguyên tố đất hiếm  
trong các mẫu trong khu vực nghiên cứu là 370 ppm/  
mẫu. Các nguyên tố chiếm tỷ lệ lớn gồm: La, Ce, Nd và Y,  
vượt trội là mẫu M2 và M7 Ce có hàm lượng tương ứng là  
304,36 và 395,57 ppm.  
Pleistocene sớm, đặc trưng như sau:  
-
Mẫu M1 được xác định không trẻ hơn Pliocene  
muộn do sự hiện diện của tảo vôi Sphenolithus abies và  
Bảng 3. Kết quả phân tích XRF  
%
Fe (wt%)  
Mn  
Al  
M1  
14,8  
7,08  
5,34  
13,9  
1,23  
7,75  
685  
1360  
334  
17800  
15100  
512  
233  
130  
-
M2  
24,4  
20,5  
1,36  
9,82  
1,06  
6,19  
1820  
4800  
523  
M3  
13  
M4 M5a  
M5b  
20,2  
1,34  
1,53  
4,34  
1,89  
26,1  
-
572  
124  
948  
1240  
M6a  
21  
19,3  
1
1,96  
2,53  
20,7  
10  
M6b  
21  
20,9  
0,764  
1,63  
2,3  
19,9  
830  
2290  
300  
M7  
7,63  
6,21  
1,15  
3,77  
0,99  
15,9  
12,8 21,5  
2,87  
1,98  
5,63  
1,73  
24,5  
23  
10,5  
1,49  
3,31  
1,82  
24,6  
1,5  
1
3,9  
2
Si  
Mg  
Ca  
Co (ppm)  
Ni  
25  
20  
814  
103  
1850  
235  
1530  
1230  
441  
70  
100  
20  
2000  
150  
100  
5
50  
50  
1690  
163  
1390  
2990  
799  
Cu  
Ba  
Ti  
V
Cr  
Mo  
Sn  
As  
1670  
4400  
960  
200  
19500  
200  
100  
5
3300  
27300  
1890  
392  
95  
206  
272  
571  
36  
167  
473  
489  
20  
3
-
-
-
328  
539  
766  
906  
Bi  
2990  
2260  
Ag  
Pb  
Zn  
Ga  
Tl  
Nb  
Zr  
Th  
P
0,2  
50  
30  
2
0,2  
100  
70  
2
1350  
511  
-
-
72  
264  
-
9190  
16000  
918  
-
5350  
1050  
298  
382  
479  
807  
245  
366  
184  
45  
499  
21  
100  
9
70  
222  
11000  
11100  
3710  
499  
30900  
4100  
34000  
4900  
54000  
5000  
61300  
6160  
15000  
1000  
16600  
5020  
17500  
4800  
1500  
Na  
Ce  
La  
Y
Yb  
Sc  
149  
244  
20  
2
20  
2
3
K
Cl  
S
Sr  
19400  
8460  
598  
4910  
12800  
2330  
1940  
11200  
2730  
1840  
1220  
51  
7340  
3280  
2240  
1720  
6000  
3240  
3180  
1820  
3850  
4450  
1640  
1940  
5450  
1500  
6410  
874  
1240  
Rb  
Bảng 4. Kết quả phân tích ICP-MS cho các nguyên tố đất hiếm (REE) cho các mẫu được nghiên cứu  
Pr Nd Sm Eu Gd Tb Dy Ho Er Tm  
Chỉ tiêu  
phân  
tích  
M1  
La  
Ce  
Yb  
Lu  
Y
Sc  
77,40 197,57 13,65 61,98 14,18 4,09 16,09 1,93 12,46 2,24 7,19 0,86 5,95 0,81 71,40 16,27  
72,94 304,36 14,02 65,52 15,30 3,57 17,67 1,95 12,15 1,97 6,51 0,75 5,51 0,69 51,88 6,26  
M2  
M3  
M4  
M5  
M6  
24,38  
27,60  
43,97  
24,26  
55,41 4,92 22,57 4,91 1,24 5,74 0,69 4,72 0,86 2,83 0,33 2,47 0,32 32,60 5,25  
83,73 5,80 26,74 6,21 1,59 7,27 0,83 6,00 1,04 3,44 0,42 3,03 0,39 36,99 5,17  
68,31 5,11 19,13 3,38 1,23 3,90 0,43 2,86 0,52 1,76 0,21 1,58 0,21 16,21 3,32  
77,22 4,95 20,00 3,94 1,05 3,68 0,44 3,61 0,48 1,84 0,24 1,86 0,16 18,64 1,53  
M7  
96,43 395,57 18,80 86,96 21,00 4,93 24,19 2,75 18,56 3,04 9,93 1,17 8,62 1,11 88,56 8,08  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
38  
PETROVIETNAM  
foram trôi nổi Dentoglobigerina altispira. Sự hiện diện của 2  
hóa thạch này cho phép xác định không trẻ hơn phần dưới  
đới NN16 hay CNLP4 và N21 hay PL4 (không trẻ hơn 2,8 Ma).  
-
Mẫu M2: Sự hiện diện của tảo vôi Gephyrocapsa  
oceanica, Helicosphaera sellii và foram trôi nổi  
Dentoglobigerina altispira cho thấy mẫu M2 nằm trong đới  
NN19/CNP8 (1,25 – 1,71 Ma).  
-
Mẫu M3: Sự hiện diện của hóa thạch tảo vôi  
Gephyrocapsanhỏ,foramtrôinổiGloborotaliatruncatulinoides  
Globorotalia tosaensis xác định tuổi Pleistocene sớm, đới  
N22 hay PT1a (không trẻ hơn 0,61 Ma) cho mẫu này.  
-
Mẫu M4, M5, M6: Hóa thạch tảo vôi Gephyrocapsa  
oceanica, Gephyrocapsa nhỏ, xác định tuổi Pleistocene muộn  
(0 - 0,43 Ma) cho các mẫu này. Ngoài ra sự hiện diện của  
foram trôi nổi Globorotalia tumida, Sphaeroidinella dehiscens,  
Pulleniatina obliquiloculata cũng nằm trong khoảng tuổi này.  
-
MẫuM7ngoàishiệndiệncaGephyrocapsaoceanica,  
Gephyrocapsa nhỏ, còn Pseudoemiliania lacunosa xác định  
tuổi Pleistocene sớm, đới NN19 và CNPL10 (0,43 - 1,06 Ma)  
cho mẫu M7.  
Môi trường lắng đọng chủ yếu trong môi trường biển  
nông thềm giữa do sự hiện diện của trùng lỗ bám đáy  
Operculina complanata, Eponides spp., Quinqueloculina spp.,  
Pyrro spp... ngoại trừ mẫu M3 có môi trường sâu hơn (thềm  
giữa đến thềm ngoài) vì có sự hiện của Sphaeroidina bulloides  
và tổng lượng hóa thạch foram trôi nổi lên đến 95% (Hình 4).  
Các kết quả phân tích vật lý của các mẫu cho thấy tỷ  
trọng ướt thay đổi từ 1,947 - 2,655 g/cm3 với giá trị trung  
bình (mean) ~ 2,329 g/cm3. Tỷ trọng khô (dry density) thay  
đổi từ 1,620 – 2,547 g/cm3 với giá trị trung bình ~ 2,13 g/cm3.  
Các kết quả này tương đồng các mẫu oxide Fe-Mn đặc trưng  
tìm thấy trong trầm tích đá bazan [9].  
Kết quả phân tích XRF cho thấy hàm lượng nguyên tố  
chiếm ưu thế là sắt và mangan, tiếp đến là các nguyên tố kim  
loại khác như: nhôm, đồng, nickel, kẽm... Tỷ lệ các nguyên  
tố tìm thấy trong các mẫu M2 và M6a và M6b có hàm lượng  
Fe-Mn khá cao (trên 20%), mẫu M5a và M5b, hàm lượng Fe  
cũng trên 20%. Tỷ lệ này được đánh giá là cao so với tỷ lệ hàm  
lượng trung bình Fe và Mn trên thế giới là 15,60 - 16,17%  
(Cronan, 1976). Các mẫu còn lại có hàm lượng Fe trung bình  
từ 7 - 14%, Mn từ 3 - 7%. Đi kèm với Fe-Mn có các kim loại có  
giá trị khác như Cu, Co, Ni, Ba, Ti, Mo, V, Pb, Zn… Trong đó,  
hàm lượng Ni, (1.932 ppm), Co (485 ppm), Cu (286 ppm), Ba  
(3.836 ppm), Ti (11.092 ppm), Mo (240 ppm), V (516 ppm), Pb  
(1.455 ppm), Zn (573 ppm)…  
Ở khu vực nghiên cứu hàm lượng trung bình Co, Ni, Cu  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
39  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
Sa...  
Pleis. nanno  
Nannop…  
Sa...  
Pleis. foram  
Foraminifera set  
(Rw, Cv excluded)  
(Rw, Cv excluded)  
presence/absence  
Nannozonation  
(Martinii, 1971)  
Chronostratigraphy  
FA: Foram Agglu…  
FC: Foram Calc…  
LBF: Large Foram  
FP: Foram Plank…  
100  
500  
4
M1 PT1b  
M2  
M1 Pleistocene muộn NN21 - NN20 CNPL11  
N22  
447  
M2  
M3  
Pleistocene sớm  
NN19  
CNPL8  
Pleistocene muộn  
175  
NN21 - NN20  
CNPL11  
PT1a N22  
M3  
M4  
M5  
1010  
458  
M4 Pleistocene muộn NN21 - NN20 CNPL11  
N22  
N22  
M5 Pleistocene muộn NN21- NN20  
CNPL11  
CNPL11  
CNPL10  
9
Pleistocene muộn  
M6 PT1b N22  
M7 N22  
M6  
NN21 - NN20  
NN19  
279  
M7 Pleistocene sớm  
Hình 4. Kết quả nghiên cứu cổ sinh địa tầng ở các mẫu nghiên cứu  
cao hơn gấp đôi khu vực Đông Bắc Biển Đông và thấp hơn  
nhiều so với khu vực Tây Bắc Biển Đông. Hàm lượng trung  
bình của Ba, V, Pb, Zn khá tương đồng với 2 khu vực được  
so sánh của Biển Đông và Mo chiếm tỷ lệ trung bình khá  
cao so với khu vực trên.  
nguyên tố đất hiếm được áp dụng rộng rãi trong ngành  
công nghiệp ô tô, sản xuất thép, chống ăn mòn… [15].  
Kết quả phân tích ICP-MS cho thấy có sự tương đồng hàm  
lượng nguyên tố hiếm (REE) phân bố trong mẫu oxide Fe-  
Mn được nghiên cứu có giá trị từ 143 - 693 ppm (> 100  
ppm). Theo đó, ghi nhận hàm lượng dị thường nguyên tố  
hiếm cerium (Hình 6). Sự phân bố hàm lượng dị thường  
này cho phép đánh giá nguồn gốc các mẫu oxide Fe-Mn  
cũng như mối quan hệ hàm lượng dị thường cerium và  
kết hạch oxide Fe-Mn. Tỷ lệ hàm lượng dị thường Ce trong  
mẫu phân tích so với hàm lượng Ce trung bình trong sét  
(Ce/Ce*) cũng như mối quan hệ giữa Ce/Ce* và Pr/Pr*, Ce/  
Ce* và Nd [16] dựa trên các nghiên cứu [17, 18] cho thấy  
các mẫu thuộc trường dị thường dương (Hình 7a) chủ yếu  
liên quan đến quá trình hydro hóa trong điều kiện thiếu  
oxy (Hình 7b) [19]. Bên cạnh đó, các kết hạch này được  
hình thành trong quá trình kết tinh chậm là chủ yếu [20]).  
Tỷ lệ hàm lượng Mn/Fe, Fe/Mn và mối tương quan  
giữa Fe-Mn-Cu-Ni-Co (FMC) được áp dụng để đánh giá  
nguồn gốc thành tạo các oxide Fe-Mn. Ngoài ra, biểu đồ  
FMC được biểu diễn nhằm đánh giá các nguồn gốc thành  
tạo của các oxide này theo những nghiên cứu của [3, 11 -  
13], Trong biểu đồ FMC này, các mẫu được xác định hình  
thành chủ yếu trong điều kiện hydro hóa như Hình 5. Theo  
đó, các mẫu M3 và M5 được hình thành trong điều kiện  
thủy nhiệt với tốc độ phát triển các lớp kết hạch oxide  
này nhanh hơn là các mẫu M1, M2, M7, M4, M6 được hình  
thành trong điều kiện lắng tụ chậm hơn [14]. Quá trình kết  
tinh nhanh (giai đoạn thủy nhiệt) có thể thành tạo các lớp  
oxide Fe-Mn có bề dày 15 - 20 mm/triệu năm, trong khi đó  
quá trình kết tinh chậm hơn (giai đoạn hydro hóa) tạo ra  
các lớp vỏ Fe-Mn có chiều dày mỗi lớp từ 1 - 15 mm/triệu  
năm [3].  
Các dấu hiệu về hoạt động núi lửa trong khu vực giai  
đoạn Miocene - Đệ tứ cho thấy sự liên quan đến nguồn gốc  
các mẫu oxide Fe-Mn được hình thành trong khu vực. Các  
hoạt động núi lửa này xếp vào giai đoạn phun trào magma  
basalt Cenozoic muộn (Neogene - Đệ tứ). Các đá basalt  
thành tạo trong giai đoạn này phân bố ở các đảo ven biển  
như đảo Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ. Đây cũng là bằng chứng  
giải thích cơ chế hình thành một số mẫu trong nghiên cứu  
có nguồn gốc hỗn hợp thủy nhiệt và hydro hóa.  
Các kết hạch oxide Fe-Mn thường được cho là nơi  
chứa nhiều các nguyên tố đất hiếm do khả năng hấp thụ  
phù hợp với điều kiện thành tạo [8]. Vì vậy, các kết hạch  
oxide Fe-Mn này có thể được xem là nguồn khai thác  
đất hiếm hiệu quả [2], đặc biệt là cerium (Ce). Cerium là  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
40  
PETROVIETNAM  
(Co+Ni+Ce) × 10  
M2  
7
M1  
Hydro hóa  
Kết tinh trong quá trình thành tạo đá (diagenesis))  
M4  
M6  
M3  
M5  
Fe  
Mn  
Hình 5. Biểu đồ FMC  
450  
400  
350  
300  
250  
200  
150  
100  
50  
0
La Ce Pr Nd Sm Eu Gd Tb Dy Ho Er Tm Yb Lu  
Nguyên tố hiếm  
M1 M2 M3 M4 M5 M6 M7 Phần trên vỏ lục địa  
Hình 6. Hàm lượng nguyên tố hiếm phân bố trong mẫu và đối sánh với hàm lượng  
nguyên tố phần trên vỏ lục địa  
2,5  
2,3  
2,2  
M2  
M7  
1,9 Trường dị thường dương  
của Ce  
1,7  
M6  
1,5  
M4  
M1  
1,3  
M3  
M5  
1,1  
0,9  
0,7  
0,5  
Trường dị thường âm của Ce  
Trường dị thường dương của La  
0,5 0,6 0,7 0,8 0,9  
1
1,1 1,2 1,3 1,4 1,5 1,6  
Pr/Pr*  
(a)  
10  
1
Quá trình hydrogenetic  
M2  
M7  
M6  
M5  
M4  
M1  
M3  
Quá trình hydrothermal  
1
Quá trình diagenetic  
0,1  
0,1  
10  
100  
1000  
Nd (ppm)  
(b)  
Hình 7. Mối tương quan tỷ lệ hàm lượng dị thường cerium và praseodymi (a)  
và neodymium (b)  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
41  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
1
Các thành tạo Fe-Mn liên quan đến điều kiện  
thủy nhiệt thường xảy ra gần các miệng núi lửa,  
những cung núi lửa dưới biển và ít khi ở vùng trung  
tâm núi lửa [21].  
0,5  
0
M2  
5. Kết luận  
M7  
M6  
M4  
M3  
M5  
M1  
100  
Những kết quả phân tích trên cho thấy, các mẫu  
oxide Fe-Mn thu thập được thành tạo chủ yếu trong  
môi trường biển nông thềm giữa trong giai đoạn  
Pleistocene - Holocene. Trên cơ sở luận giải kết quả  
phân tích XRF và ICP-MS, các mẫu này có hàm lượng  
Fe-Mn trung bình từ 15 - 21%, đi kèm là các nguyên  
tố kim loại khác Cu, Co, Ni, Ba, Ti, Pb, Zn… Ngoài ra,  
các nguyên tố hiếm cũng chiếm tỷ lệ khá cao (trung  
bình 370 ppm/mẫu), được hình thành chủ yếu trong  
quá trình hydro hóa và một số ít trong quá trình nhiệt  
dịch với tốc độ lắng tụ khác nhau, từ nhanh (thủy  
nhiệt) đến chậm (hydro hóa). Các mẫu liên quan đến  
quá trình thủy nhiệt có được cho là có liên quan đến  
hoạt động núi lửa trong khu vực [14, 22]. Theo đó,  
các mẫu M3-M5 được lắng tụ nhanh, trong vùng có  
ảnh hưởng của hoạt động của núi lửa, trong khi đó,  
các mẫu M1, M4, M2, M7, M6 có tốc độ tích tụ chậm  
hơn trong trầm tích basalt.  
1
10  
0,1  
1000  
Quá trình kết tinh chậm  
-0,5  
Nd (ppm)  
Hình 8. Mối tương quan tỷ lệ hàm lượng dị thường cerium và neodymium  
Hàm lượng các nguyên tố và nguồn gốc hình  
thành có quan hệ chặt chẽ đến quá trình tích tụ các  
nguyên tố đất hiếm như La, Ce, Pr, Nd, Sm, Eu, Gd, Tb,  
Dy, Ho, Er, Tm, Yb, Lu.  
Hình 9. Mặt cắt địa chấn minh họa cho sự phân bố núi lửa trẻ trong giai đoạn Pliocene  
trong khu vực nghiên cứu  
Hình 10. Vị trí một số mẫu nghiên cứu trên mặt cắt địa chấn  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
42  
PETROVIETNAM  
Tài liệu tham khảo  
"Cobalt-rich ferromanganese crusts in the Pacific",  
Handbook of Marine Mineral Deposits, 2000.  
[1] P.E.Mikhailik,  
E.V.Mikhailik,  
N.V.Zarubina,  
[10] M.Bau, K.Schmidt, A.Koschinsky, J.Hein,  
T.Kuhn, and A.Usui, "Discriminating between different  
genetic types of marine ferro-manganese crusts and  
nodules based on rare earth elements and yttrium",  
Chemical Geology, Vol. 381, pp. 1 - 9, 2014. Doi: 10.1016/j.  
chemgeo.2014.05.004.  
N.N.Barinov, V.T.S’edin, and E.P.Lelikov, "Composition  
and distribution of REE in ferromanganese crusts of the  
Belyaevsky and Medvedev seamounts in the Sea of Japan",  
Russian Journal of Pacific Geology, Vol. 8, No. 5, pp. 315 -  
329, 2014. Doi: 10.1134/S1819714014050029.  
[2] James R.Hein, "The geology of cobalt-rich  
ferromanganese crusts", 2013, pp. 7 - 14.  
[11] E.Bonatti, T.Kraemer, and H.Rydell, "Classification  
and genesis of submarine iron-manganese deposits",  
Ferromanganese Deposits on the Ocean Floor, pp. 149 - 165,  
1972.  
[3] James R.Hein, Francesca Spinardi, Nobuyuki  
Okamoto, Kira Mizell, Darryl Thorburn, and Akuila  
Tawake, "Critical metals in manganese nodules from the  
Cook Islands EEZ, abundances and distributions", Ore  
Geology Reviews, Vol. 68, pp. 97 - 116, 2015. Doi: 10.1016/j.  
oregeorev.2014.12.011.  
[12] James R.Hein, and Andrea Koschinsky, "Deep-  
Ocean Ferromanganese Crusts and Nodules", Treatise on  
Geochemistry, Vol. 13, 2014.  
[13] James R.Hein, Natalia Konstantinova, Mariah  
Mikesell, Kira Mizell, Jessica Fitzsimmons, Phoebe J.  
Lam, Laramie Jensen, Yang Xiang, Amy Gartman, Georgy  
Cherkashov, Deborah R.Hutchinson, and Claire P.Till,  
"Arctic Deep Water Ferromanganese-Oxide Deposits  
Reflect the Unique Characteristics of the Arctic Ocean",  
Geochemistry, Geophysics, Geosystems, Vol. 18, No. 11,  
pp. 3771 - 3800, 2017. Doi: 10.1002/2017GC007186.  
[4] W.H.Blow, "Late Middle Eocene to recent  
planktonic foraminiferal biostratigraphy", The First  
International Conference on Planktonic Microfossils, Geneva,  
1969, pp. 199 - 421.  
[5] Bridget S.Wade, Paul N.Pearson, William  
A.Berggren, and Heiko Pälike, "Review and revision of  
Cenozoic tropical planktonic foraminiferal biostratigraphy  
and calibration to the geomagnetic polarity and  
astronomical time scale", Earth-Science Reviews,  
Vol. 104, No. 1, pp. 111 - 142, 2011. Doi: 10.1016/j.  
earscirev.2010.09.003.  
[14] Claude Lalou, "Genesis of Ferromanganese  
Deposit: Hydrothermal origin", Hydrothermal Processes at  
Seafloor Spreading Centers, pp. 503 - 504, 1983.  
[15] Tanushree Dutta, Ki-Hyun Kim, Minori Uchimiya,  
Eilhann E.Kwon, Byong-Hun Jeon, Akash Deep, and Seong-  
Taek Yun, "Global demand for rare earth resources and  
strategies for green mining", Environmental Research, Vol.  
150, pp. 182 - 190, 2016. Doi: 10.1016/j.envres.2016.05.052.  
[6] E.Martinii, "Standard Tertiary and Quaternary  
calcareous nannoplankton zonation", Poceedings of  
the SecondPlanktonic Conference, Roma, 1971, Vol. 2:  
EdizioniTechnoscienza, pp. 739 - 785.  
[7] Jan Backman, Isabella Raffi, Domenico Rio,  
Eliana Fornaciari, and Heiko Pälike, "Biozonation and  
biochronology of Miocene through Pleistocene calcareous  
nannofossils from low and middle latitudes", Newsletters  
on Stratigraphy, Vol. 45, No. 3, pp. 221 - 244, 2012. Doi:  
10.1127/0078-0421/2012/0022.  
[16] Scott M.Mclennan, "Rare earth elements  
in sedimentary rocks; influence of provenance and  
sedimentary processes", Geochemistry and mineralogy of  
the rare earth elements: reviews in Mineralogy, 1989.  
[17] Christopher R.German, B renda P.Holliday, and  
Henry Elderfield, "Redox cycling of rare earth elements  
in the suboxic zone of the Black Sea", Geochimica et  
Cosmochimica Acta, Vol. 55, pp. 3553 - 3558, 1991. Doi:  
10.1016/0016-7037(91)90055-A.  
[8] Yi Zhong, Zhong Chen, Francisco Javier González,  
James R.Hein, Xufeng Zheng, Gang Li, Yun Luo, Aibin  
Mo, Yuhang Tian, and Shuhong Wang, "Composition and  
genesis of ferromanganese deposits from the northern  
South China Sea", Journal of Asian Earth Sciences, Vol. 138,  
pp. 110 - 128, 2017. Doi: 10.1016/j.jseaes.2017.02.015  
[18] S.Morad and S.Felitsyn, "Identification of  
primary Ce-anomaly signatures in fossil biogenic  
apatite: implication for the Cambrian oceanic anoxia and  
phosphogenesis", Sedimentary Geology, Vol. 143, No. 3 - 4,  
pp. 259 - 264, 2001. Doi: 10.1016/S0037-0738(01)00093-8.  
[9] James R.Hein, Andrea Koschinsky, Michael Bau,  
Frank T.Manheim, Jung-Keuk Kang, and Leanne Robert,  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
43  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
[19] Zunli Lu, Hugh C.Jenkyns, and Rosalind  
E.M.Rickaby, "Iodine to calcium ratios in marine carbonate  
as a paleo-redox proxy during oceanic anoxic events",  
Geology, Vol. 38, No. 12, pp. 1107 - 1110, 2010. Doi:  
10.1130/G31145.1.  
[21] James R.Hein, Yeh Hsueh-Wen, Susan H.Gunn,  
Ann E.Gibbs, and Wang Chung-ho, "Composition and  
origin of hydrothermal ironstones from central Pacific  
seamounts", Geochimica et Cosmochimica Acta, Vol. 58, No.  
1, pp. 179 - 189, 1994. Doi: 10.1016/0016-7037(94)90455-3.  
[20] Judith Wright, Hans Schrader, and William  
T.Holser, "Paleoredox variations in ancient oceans recorded  
by rare earth elements in fossil apatite", Geochimica et  
Cosmochimica Acta, Vol. 51, No. 3, pp. 631 - 644, 1987. Doi:  
10.1016/0016-7037(87)90075-5.  
[22] D.S.Cronan, "Chapter 2 Deep-Sea Nodules:  
Distribution and Geochemistry", Elsevier Oceanography  
Series, Vol. 15, pp. 11 - 44, 1977.  
SOME PRELIMINARY RESULTS FROM STUDY OF THE POTENTIAL OF  
FERROMANGANESE CRUSTS IN PLIOCENE - QUATERNARY SEDIMENTS,  
OFFSHORE SOUTHWESTERN VIETNAM  
Nguyen Thi Tham1, Pham Ba Trung2, Hoang Nhat Hung1, Nguyen Hoai Chung1, Le Chi Mai1  
Nguyen Thanh Tuyen1, Ta Thi Hoa1, Nguyen Van Hieu1, Nguyen Quang Tuan1  
1Vietnam Petroleum Institute  
2Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science and Technology  
Email: thamnt@vpi.pvn.vn  
Summary  
Nam Con Son and Tu Chinh - Vung May basins are considered to have big potential of seabed hard minerals such as ferromanganese  
(Fe-Mn) crusts or aggregates. Analysis of samples collected from the southwestern area of the East Sea shows that the Fe-Mn content varies  
from 15 - 21% along with the presence of other valuable metal elements such as Ti (11.092 ppm), Ba (3.836 ppm), and Ni (1.932 ppm), etc.  
Moreover, some rare earth elements are also encountered with fairly high fraction (roughly 370 ppm/sample in average), of which Ce (168  
ppm), La (52 ppm), and Nd (43 ppm) are predominant. These samples were formed mainly by hydrogenetic and hydrothermal processes. The  
formation of the Fe-Mn oxide samples is closely relating to accumulation of rare earth elements such as La, Ce, Pr, Sm, Eu, etc.  
Key words: Hard minerals, hydrogenetic process, hydrothermal, Pliocene - Quaternary, Fe-Mn oxide, Nam Con Son basin, Tu Chinh -  
Vung May basin, southwestern area of the East Sea.  
DẦU KHÍ - SỐ 8/2020  
44  
pdf 11 trang yennguyen 16/04/2022 30940
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tiềm năng khoáng sản rắn đáy biển hiện diện trong các mẫu oxide sắt mangan ở phía Tây Nam biển Đông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_tiem_nang_khoang_san_ran_day_bien_hien_dien_trong.pdf