Nghiên cứu xây dựng mô hình mô phỏng động lực học chất lỏng tính toán (CFD) cho thiết bị Ejector sử dụng nâng cao tỷ lệ thu hồi mỏ khí Condensate Hải Thạch

THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 5 - 2020, trang 14 - 24  
ISSN 2615-9902  
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG MÔ HÌNH MÔ PHỎNG ĐỘNG LỰC HỌC CHẤT  
LỎNG TÍNH TOÁN (CFD) CHO THIẾT BỊ EJECTOR SỬ DỤNG NÂNG CAO  
TỶ LỆ THU HỒI MỎ KHÍ CONDENSATE HẢI THẠCH  
Trần Ngọc Trung1, Triệu Hùng Trường2, Ngô Hữu Hải1, Trần Vũ Tùng1, Lý Văn Dao1  
1Công ty Điều hành Dầu khí Biển Đông  
2Đại học Mỏ - Địa chất  
Email: trungtn@biendongpoc.vn  
Tóm tắt  
Trong lĩnh vực khai thác khí và condensate, việc xử lý dòng lưu chất phụ thuộc vào áp suất từng giếng và áp suất tại đầu vào hệ thống  
công nghệ xử lý. Để có thể tiếp tục thu hồi khí và condensate tại các giếng đã suy giảm áp suất đồng thời với các giếng khác vẫn cho sản  
lượng và áp suất ổn định, thông thường các phương pháp sử dụng thiết bị bề mặt được nghiên cứu đánh giá tính khả thi về kỹ thuật cũng  
như đảm bảo hiệu quả kinh tế. Hai phương án dùng thiết bị bề mặt thông thường là máy nén khí ướt 3 pha và Ejector. So với việc sử dụng  
máy nén khí ướt thì phương án sử dụng Ejector mang lại nhiều lợi ích như chi phí đầu tư và vận hành thấp, đây là một thiết bị có cấu tạo  
gọn nhẹ, độ tin cậy cao và thân thiện môi trường. Tuy nhiên, để đưa đến quyết định đầu tư thì cần phải có một mô hình tin cậy giúp phân  
tích khả năng làm việc, hiệu suất hoạt động cũng như tính toán chính xác tỷ lệ sản phẩm thu hồi được gia tăng. Trong nghiên cứu này,  
kết quả của mô hình CFD sử dụng hỗn hợp khí cũng được so sánh với mô hình tương đương chỉ sử dụng methane. Sự khác biệt của 2 mô  
hình được sử dụng để phân tích tính chính xác và hiệu quả của việc nghiên cứu áp dụng Ejector khí tự nhiên gia tăng thu hồi cho giếng  
suy giảm áp suất. Dòng chảy của lưu chất bên trong thiết bị Ejector được mô phỏng dựa trên mô hình rối k-ε Re-Normalization Group.  
Chất lưu là hỗn hợp khí tự nhiên có thành phần cấu tử theo điều kiện mỏ Hải Thạch. Phương trình khí thực Peng-Robison tính toán tỷ  
trọng hỗn hợp khí.  
Từ khóa: Ejector, mô hình CFD, nâng cao thu hồi khí/condensate, mỏ Hải Thạch.  
1. Giới thiệu  
Việc duy trì khai thác đồng thời nhiều giếng khí con-  
có áp suất cao hoặc đầu ra của hệ thống xử lý khí có áp  
suất cao hơn cả áp suất đường ống vận chuyển. Ngoài ra  
trong nhiều trường hợp, thiết bị Ejector còn sử dụng năng  
lượng dẫn động từ nguồn sơ cấp là giếng áp suất cao để  
có thể tận dụng tối đa năng lượng tự nhiên từ trong vỉa và  
hoàn toàn không cần thêm nguồn năng lượng nào khác  
hay sản sinh thêm chất thải ra ngoài môi trường.  
densate đặt ra thách thức lớn trong điều kiện áp suất đầu  
vào hệ thống xử lý khí là không thay đổi (tỷ số nén cố định  
khi thiết kế hệ thống). Khi áp suất bề mặt giảm xuống  
dưới áp suất đầu vào của hệ thống xử lý, giếng sẽ không  
còn khả năng khai thác khi dòng chảy tự nhiên của giếng  
không được duy trì. Lúc này, lượng khí của các giếng thấp  
áp có thể phải bị đốt cháy dưới dạng khí thải hoặc hệ  
thống công nghệ phải lắp đặt thêm máy nén khí 3 pha  
trung gian để tiếp tục duy trì sản xuất. Phương án sử dụng  
máy nén khí tự nhiên 3 pha trung gian để tạo dòng chảy  
vào hệ thống xử lý cho các giếng này đòi hỏi chi phí đầu tư  
và vận hành cao, tốn kém thời gian triển khai.  
Trên thế giới đã có các nghiên cứu về tính khả thi và  
hiệu quả của Ejector trong việc gia tăng thu hồi cho các  
giếng dầu khí ở cuối chu kỳ khai thác. Nhóm tác giả đã  
nghiên cứu xây dựng mô hình mô phỏng dòng chảy lưu  
chất bên trong thiết bị bề mặt Ejector để đưa ra thông  
số hoạt động tối ưu nhất, giúp gia tăng khả năng thu hồi  
khí condensate. Mô phỏng hỗn hợp với thành phần cấu  
tử của khí tự nhiên tương tự như phương án đang được  
nghiên cứu tại mỏ Hải Thạch. Tỷ trọng hỗn hợp khí được  
tính toán theo phương trình khí thực Peng Robison. Trong  
số rất nhiều các mô hình dòng chảy rối, nhóm tác giả lựa  
chọn mô hình k-ε Re-Normalization Group.  
Trong khi đó, thiết bị Ejector có thể giải quyết bài toán  
trên bằng việc sử dụng dòng khí dẫn động từ các giếng  
Ngày nhận bài: 23/4/2020. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 23/4 - 8/5/2020.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 8/5/2020.  
DẦU KHÍ - SỐ 5/2020  
14  
PETROVIETNAM  
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu  
Bắc [3]. Marco Villa và cộng sự xây dựng mô hình tính  
toán kết hợp thực nghiệm tại mỏ Villafortuna, Italy  
đã giúp gia tăng sản lượng cộng dồn thêm 100.000  
thùng dầu và thu hồi vốn đầu tư trong vòng vài tuần  
[5]. P.Andreussi và cộng sự đã giới thiệu phương pháp  
nghiên cứu và kết quả thực địa của Ejector đa pha  
trong ứng dụng gia tăng thu hồi tại vịnh Mexico [6].  
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu hay báo  
cáo áp dụng nào về Ejector trong ứng dụng gia tăng  
thu hồi khí/condensate từ phía các cơ sở nghiên cứu  
và đơn vị sản xuất. Cùng với việc đẩy mạnh khai thác  
khí, Việt Nam sẽ có nhu cầu rất lớn về ứng dụng tận  
thu khai thác giếng khí/condensate sử dụng Ejector  
trong tương lai.  
2.1. Nguyên lý vận hành của thiết bị Ejector  
Ejector đã được ứng dụng trong các lĩnh vực công nghiệp  
khác nhau. Ejector là thiết bị hướng dòng đơn giản với 2 cổng  
lưu chất đầu vào (Primary/Secondary Flow - Cổng lưu chất sơ  
cấp/thứ cấp) và 1 cổng phân tán (Diffuser). Nguyên lý cơ bản  
của thiết bị là tạo ra áp suất âm tại khu vực buồng hút bằng  
cách cho dòng chảy lưu chất áp suất cao đi qua khe hở hẹp để  
hút dòng áp suất thấp tại cổng thứ cấp. Sau đó, 2 dòng chảy  
lưu chất được trộn bên trong khoang đầu vào (suction cham-  
ber), ống trộn (mixing tube/chamber) và phân tán ở một số  
áp suất trung gian được xem là áp suất ngược (back pressure,  
Pb) hay còn gọi là áp suất đầu ra (discharge pressure). Áp suất  
chân không tạo ra lực hút lưu chất tại cổng thứ cấp, được  
sinh ra bằng cách tăng tốc độ của dòng chảy lưu chất sơ cấp  
đi qua vòi phun hội tụ. Về cơ bản, Ejector có 5 bộ phận: vòi  
phun hội tụ, buồng hút, buồng trộn, bộ phận phân tán như  
Hình 1 [1].  
2.3. Các thông số giúp phân tích và đánh giá hiệu  
suất hoạt động của thiết bị Ejector  
Nhằm phân tích và đánh giá hiệu suất của thiết  
bị Ejector, thông thường các nghiên cứu sử dụng 2  
thông số là tỷ số hút entrainment và tỷ số nén.  
Trong lĩnh vực dầu khí, Ejector được nghiên cứu để gia  
tăng thu hồi cho các giếng ở cuối chu kỳ khai thác, thu hồi khí  
bay hơi (có nhiệt trị cao) của tàu chứa dầu tải mỏ hoặc ứng  
dụng vào việc hút các chất lỏng ngưng tụ cận đáy giếng. Các  
Ejector được sử dụng với các loại lưu chất mà không cần đến  
chất bôi trơn, chỉ gồm các chi tiết thụ động đơn giản, đáng tin  
cậy, chi phí thấp và gần như không cần bảo trì. Tuy nhiên, đây  
là thiết bị có hiệu suất thấp và phụ thuộc vào rất nhiều vào các  
yếu tố thiết kế và vận hành [2].  
=
(1)  
Trong đó:  
: Tỷ số hút entrainment ratio;  
ms: Khối lượng dòng chảy lưu chất thứ cấp;  
mp: Khối lượng dòng chảy lưu chất sơ cấp.  
Ngoài ra, một thông số đặc trưng là tỷ số nén giữa  
áp suất đầu ra với áp suất đầu vào thứ cấp thường  
được coi là tỷ số nén đặc trưng của thiết bị:  
2.2. Tính khả thi của nghiên cứu gia tăng thu hồi cho mỏ dầu  
và khí/condensate bằng thiết bị Ejector  
(2)  
=
Trên thế giới, thiết bị Ejector đã được nghiên cứu triển khai  
và ứng dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp khai thác khí  
tự nhiên và ứng dụng gia tăng thu hồi bắt đầu từ những năm  
1990 [3, 4]. Một số nghiên cứu điển hình như: Green, Ashton và  
cộng sự nghiên cứu Ejector trong phòng thí nghiệm và sau đó  
triển khai thực địa giúp gia tăng khoảng 25% và 41% sản lượng  
(tương ứng 25 triệu ft3 chuẩn/ngày và 15 triệu ft3 chuẩn/ngày)  
cho các giếng suy giảm áp suất tại 2 giàn tại mỏ Hewwett, Biển  
Trong đó:  
τ: Tỷ số nén;  
Pb: Áp suất đầu ra hay áp suất ngược;  
Ps: Áp suất tại cổng thứ cấp.  
3. Nghiên cứu gia tăng thu hồi khí và condensate  
cho các giếng suy giảm áp suất tại mỏ Hải Thạch  
Cổng lưu  
chất thứ cấp  
3.1. Tính cấp thiết của nghiên cứu gia tăng khả  
năng thu hồi khí và condensate cho các giếng suy  
giảm áp suất  
Dòng  
lưu chất  
trộn lẫn  
Vòi phun  
Các nghiên cứu gần đây đều sử dụng phương  
pháp mô phỏng CFD để có thể dự đoán chính xác hiệu  
suất thiết bị và chi tiết dòng chảy, quá trình trộn lẫn  
bên trong Ejector khí tự nhiên tận thu giếng suy giảm  
áp suất. Đồng thời, để củng cố các kết quả mô phỏng,  
Cổng lưu  
chất sơ cấp  
Hình 1. Sơ đồ mẫu thiết bị Ejector và các chi tiết bên trong [1]  
DẦU KHÍ - SỐ 5/2020  
15  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
các tác giả còn kết hợp kiểm chứng tại thực địa. Các  
nghiên cứu này đã cung cấp luận cứ khoa học hữu  
ích cho việc tối ưu thiết kế Ejector cũng như thúc đẩy  
sản xuất khí tự nhiên. Trong khi đó, tại mỏ Hải Thạch,  
các giếng khí và condensate sẽ bước vào giai đoạn  
suy giảm áp suất trong thời gian tới. Có 4 giếng (HT-  
1X, 2X, 3X và 4X) nằm trong tập vỉa (UMA10) cô lập  
và nhỏ hơn các tập vỉa khác đang khai thác tại cùng  
mỏ Hải Thạch. Các giếng này đang suy giảm áp suất  
rất nhanh sẽ dừng khai thác trong thời gian tới khi  
áp suất miệng giếng nhỏ hơn áp suất đầu vào hệ  
thống công nghệ. Ứng dụng của Ejector trong gia  
tăng thu hồi dầu khí thường sử dụng 2 phương án  
cơ bản là lấy khí từ đầu ra của máy nén khí hoặc từ  
giếng cao áp lân cận làm nguồn lưu chất dẫn động:  
(5)  
(
)
(
)
(
)
̅ ̅  
+
̅
+
=
+
Mô hình động lực học chất lỏng tính toán cho 2 phương  
án sử dụng Ejector được xây dựng cho dòng lưu chất chịu nén,  
dòng rối và trạng thái ổn định. Dòng chảy lưu chất và phương  
trình truyền nhiệt được lựa chọn là đối xứng qua trục dựa trên  
cấu tạo vật lý của thiết bị, đồng thời giúp giảm thời gian tính  
toán cho mô hình. Khu vực cận tường được xử lý dưới dạng  
“standard wall function” vì đã chứng minh được kết quả chính  
xác cho các tính toán khu vực cận tường cho dòng chảy lưu  
chất có Reynold cao [7, 8]. Miền tính toán (boundary condition)  
cho dòng sơ cấp và thứ cấp theo điều kiện“pressure inlet”trong  
khi đầu ra của Ejector có miền tính toán làpressure outlet. Các  
thông số thiết lập dựa trên giá trị áp suất, nhiệt độ và tỷ lệ hỗn  
hợp khí tự nhiên cho đường sơ cấp và thứ cấp cho 2 phương  
án sử dụng khí dẫn động. Toàn bộ khu vực tường của Ejector  
được coi là đẳng nhiệt và không có trao đổi năng lượng với môi  
trường bên ngoài do thời gian dòng lưu chất chảy trong cấu  
tạo là rất nhỏ. Trong số các mô hình dòng chảy rối, nhóm tác  
giả lựa chọn mô hình k-ε Re-Normalization Group. Theo nghiên  
cứu của Y.Bartosiewicz và cộng sự [9] và Yinhai Zhu và cộng  
sự [10] khi đánh giá 6 mô hình dòng chảy rối khác nhau, mô  
hình k-ε Re-Normalization Group cho kết quả tốt nhất và phù  
hợp nhất khi dự đoán hiện tượng dòng chảy so với kết quả thí  
nghiệm. Thuật toán SIMPLE được dùng để xử lý mối quan hệ  
giữa áp suất và vận tốc dòng lưu chất, trong khi đó tính đối  
lưu (convective terms) được rời rạc hóa dựa trên phương pháp  
“second order upwind” [11]. Độ hội tụ được tính toán cho từng  
vòng lặp. Vòng lặp sẽ dừng lại khi số dư được xác định là nhỏ  
hơn cho các phương trình liên tục, động lượng và năng lượng.  
- Phương án 1 - Dùng khí khô thương mại cao  
áp tại đầu ra máy nén dẫn động với lưu lượng 40  
triệu ft3 tiêu chuẩn/ngày và áp suất tại 140 bar.  
- Phương án 2 - Dùng khí từ giếng có áp suất  
cao và lưu lượng lớn nhất được sử dụng là HT-5X (áp  
suất là 180 bar và lưu lượng dẫn động là 10,5 triệu ft3  
tiêu chuẩn/ngày).  
3.2. Mô hình động lực học chất lỏng tính toán cho 2  
phương án sử dụng Ejector  
Phương pháp CFD đã được chứng minh khả năng  
trong việc phân tích và tối ưu hóa hoạt động của Ejec-  
tor. Phương pháp mô phỏng động lực học chất lỏng  
tính toán CFD cho phép nghiên cứu chi tiết về dòng  
chảy bên trong Ejector, dựa trên việc giải phương  
trình Navier-Stokes (NS) và biến thể của phương trình  
này như phương trình Favre-Averaged Navier -Stokes  
(FANS) hoặc các phương trình Reynolds - Averaged  
Navier - Stokes nén được (RANS). Nhằm đảm bảo độ  
chính xác và có thể đạt được 1 nghiệm hội tụ và ổn  
định cho mô hình, cần phải có kiến thức về các khía  
cạnh khác nhau của mô phỏng CFD (như mô hình rối  
- turbulence model) và cách thức khoa học trong xây  
dựng mô hình (các bước thiết lập mô hình và phương  
pháp rời rạc hóa).  
RNG k - ε transport equation:  
(6)  
(
)
(
)
(
)
=
+
+
Ngoài những thông số nêu trên thì tính mới và ưu điểm của  
mô hình CFD được trình bày trong nghiên cứu này là sử dụng  
thành phần cấu tử khí tự nhiên và áp dụng phương pháp tính  
toán độ độc lập cấu trúc mạng lưới GCI.  
3.2.1. Sử dụng thành phần cấu tử khí tự nhiên  
Mô hình mô phỏng CFD được xây dựng có các thành phần  
cấu tử khí hydrocarbon tại mỏ Hải Thạch cũng như phương án  
sử dụng khí dẫn động lấy từ máy nén khí cao áp tại giàn (thành  
phần cấu tử như Bảng 1. Thành phần cấu tử trong lưu chất dẫn  
động và lưu chất bị hút). Trong nghiên cứu này, mô hình khí  
chỉ bao gồm các thành phần cấu tử như methane, ethane, pro-  
pane, nitrogen và carbon dioxide để đảm bảo thời gian tính  
toán mô phỏng dòng chảy lưu chất (chiếm tới gần 98% trong  
thành phần khí). Hiện tại, các nghiên cứu Ejector dùng khí thiên  
Phương trình liên tục (Continuity Equation):  
(
)
̅ = 0  
(3)  
+
Phương trình động lượng (Momentum Equation):  
(4)  
(
)
(
)
̅ ̅ = −  
̅
+
+
̅
Phương trình năng lượng (Energy Equation):  
DẦU KHÍ - SỐ 5/2020  
16  
PETROVIETNAM  
Với ,  
dẫn nhiệt.  
và  
độ nhớt, nhiệt dung riêng và độ  
nhiên tận thu giếng suy giảm áp suất khác sử dụng meth-  
ane làm lưu chất hoạt động [12 - 16]. Hoặc sử dụng lưu chất  
2 pha bao gồm methane và hạt nước có tỷ lệ thể tích là nhỏ  
hơn 3,1% [17].  
3.2.2. Tính độc lập cấu trúc mạng lưới (Mesh Indepen-  
dence)  
Tỷ trọng của hỗn hợp khí tự nhiên được tính theo  
phương trình khí thực Peng Robison, trong khi các tính chất  
khác như độ nhớt, nhiệt dung riêng hay độ dẫn nhiệt của  
lưu chất được lấy từ NIST (National Institute of Standards  
and Technology) được gọi là REFPROP (Reference Fluid  
Thermodynamic and Transport Properties Database) [18].  
- Hệ số cấu trúc lưới hội tụ (Grid Convergence  
Index - GCI)  
+ Độ mịn lưới mô phỏng  
Chất lượng mạng lưới là một trong những khía cạnh  
quan trọng phải được xem xét trong khi thực hiện mô  
phỏng CFD, vì sóng xung kích, dòng chảy tại lớp biên  
- cận biên và quá trình trộn lẫn ảnh hưởng chính đến  
hiệu suất hoạt động. Tuy nhiên, việc tạo ra mô hình có  
số lượng ô lưới dày đặc, sẽ đòi hỏi thời gian tính toán rất  
lớn và khiến nó trở nên khó có thể áp dụng. Các nghiên  
cứu gần đây đã nghiên cứu sự thay đổi trong kết quả mô  
hình so với việc thay đổi kích thước mạng lưới. Mục đích  
là có thể lựa chọn được mô hình có độ mịn nhất định,  
đảm bảo được khả năng tính toán trong thời gian cho  
phép và tại đó kết quả được xem như là độc lập với kích  
thước và cấu trúc của mạng lưới.  
(7)  
(8)  
(9)  
=
= 0,45724  
= 0,0778  
(10)  
=
1 +  
1 −  
(11)  
(12)  
= 0,37464 + 1,54226 − 0,26992  
=
+ Độc lập cấu trúc lưới  
Trong đó:  
GCI có thể giúp định lượng được độ hội tụ của kết  
quả mô hình mô phỏng gồm rất nhiều mắt lưới [19 - 21].  
Phương pháp GCI dự đoán sai số của việc làm mịn lưới  
mô phỏng từ lý thuyết ngoại suy của Richardson. Hệ số  
GCI đại diện cho khoảng cách của thông số cần quan sát  
trong mô phỏng CFD so với giá trị tiệm cận mà nó có thể  
đạt được khi gia tăng độ phức tạp của mô hình.  
P, T và R: Áp suất, nhiệt độ và hằng số quan hệ;  
Tc và Pc: Nhiệt độ và áp suất tới hạn;  
Tr : Nhiệt độ rút gọn;  
Vm: Thể tích mol;  
ω: Thừa số accentric của cấu tử.  
0,01726268 + 0,00077648 − 1,54  
,
(13)  
=
× 10  
− 1,71 × 10  
+ 1,15 × 10  
, _  
,
ớ 100 < < 179,9  
=
Với: Fs là hệ số an toàn, bằng 1,25 trong trường hợp  
so sánh 3 cấu trúc lưới khác nhau. Hệ số ε là sai số tương  
đối dựa theo thông số cần quan sát, trong trường hợp  
này là tỷ lệ hút entrainment ω. Còn Ni là số ô mắt lưới  
trong từng cấu trúc lưới khác nhau được so sánh.  
− 0,1156432 + 0,002943 − 3,09 × 10  
× 10 − 5,33 × 10  
+ 1,72  
ớ 179,9 < < 300  
− 658833 ,1 + 23960 ,32 − 346,62  
+ 2,48 − 0,0088  
ớ 100 < < 205,2  
=
20900000 − 399555 ,3 + 3049,36 − 11,62  
+ 0,022  
ớ 205,2 < < 300  
=
(14)  
(15)  
,
= − 10,759 + 0,4545 − 0,00782  
,
+ 7,26 × 10 − 3,94 × 10  
ớ 100 < < 300  
=
,
Bảng 1. Thành phần cấu tử trong lưu chất dẫn động và lưu chất bị hút  
Thành phần cấu tử  
Lưu chất dẫn động (% mol)  
Lưu chất bị hút (% mol)  
Methane (CH4)  
Ethane (C2H6)  
Propane (C3H8)  
Nitrogen (N2)  
CO2  
88,2  
4,3  
3,5  
1
78,3  
5,7  
10  
1,5  
4,5  
4
DẦU KHÍ - SỐ 5/2020  
17  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
Giá trị p được gọi là bậc rời rạc hóa của mô hình CFD  
(order of discretization) và được tính toán dựa trên công  
thức vòng lặp:  
+ Giá trị tiệm cận của tỷ lệ hút entrainment nếu tiếp  
tục làm mịn mô hình là ωexact = 38,56%. Số ô mắt lưới cần  
phải chia của mô phỏng CFD để đạt được giá trị tiệm cận  
tỷ lệ hút là Nexact = 438.417 ô mắt lưới.  
+ Hệ số R = 0,12381 đại diện cho khả năng hội tụ đơn  
điệu của giá trị cần quan sát theo phương pháp GCI (hội tụ  
đơn điệu - monotonic convergence vì 0 < R < 1).  
(16)  
là kết quả của vòng lặp trước. Vòng lặp kết  
thúc khi |p - pn-1| < 1 × 10-5. Trong khi đó, po là giá trị đầu  
tiên của vòng lặp được tính theo công thức:  
= 0,5  
+ 0,5  
(
)
Với:  
+ Tính độc lập của giá trị cần quan sát so với cấu trúc  
lưới mô phỏng có thể được xác định nếu GCL12 = 3,7526%  
là nhỏ hơn GCL23 = 20,86%.  
(17)  
=
(
)
4. Kết quả và thảo luận  
Trong đó: e23 = ω3 -ω2 và e12 = ω2 -ω1  
4.1. Kết quả của mô phỏng CFD thiết bị Ejector  
Phương pháp GCI có thể đưa ra các kết luận về tính  
độc lập cấu trúc lưới mô phỏng dựa trên việc tính toán các  
thông số sau:  
4.1.1. So sánh tỷ lệ hút entrainment của mô hình với các  
nghiên cứu khác  
Cấu trúc Ejector được nghiên cứu tại mỏ Hải Thạch  
được phát triển theo phương pháp xác định hình dạng tối  
ưu từ nghiên cứu của Amin Hassan Amin và cộng sự [16]  
và Weixiong Chen và cộng sự [17]. Trong nghiên cứu của  
Amin Hassan Amin và cộng sự, thiết kế Ejector hoạt động  
tại điều kiện 12 MPa áp suất sơ cấp, 2 MPa áp suất thứ  
cấp và 5,2 MPa áp suất đầu ra. Kết quả tỷ lệ hút entrain-  
ment tối ưu mà Amin Hassan Amin và cộng sự đạt được là  
19,45% thông qua mô phỏng CFD sử dụng methane làm  
lưu chất hoạt động.  
×
(18)  
(19)  
=
=
+
(20)  
(21)  
=
=
=
_
Từ các giá trị tính toán được từ phương pháp GCI, có  
thể thấy mô hình Ejector sử dụng thành phần hỗn hợp  
khí cần phải có mô hình mắt lưới phức tạp hơn so với các  
nghiên cứu về Ejector khí tự nhiên trước đó. Để đạt được  
sự ổn định của giá trị tỷ lệ hút entrainment, mô hình phải  
cần đến 438.000 mắt lưới so với 21.000; 11.610; 32.140;  
69.366; 336.387 và 294.360 lần lượt theo các nghiên cứu  
trước đó [12 - 17].  
Trong nghiên cứu của Weixiong Chen và cộng sự,  
Ejector khí tự nhiên được mô phỏng CFD và kiểm chứng  
thực địa với điều kiện hoạt động là 11 - 13 MPa áp suất sơ  
cấp, 2 - 4 MPa áp suất thứ cấp và từ 5,1 - 5,6 MPa áp suất  
đầu ra. Kết quả tỷ lệ hút entrainment tối ưu mà tác giả đạt  
được so với áp suất sơ cấp được biểu diễn như trong Hình  
4. Khi áp dụng tại cùng 1 điều kiện thông số và cấu tạo,  
mô hình CFD sử dụng hỗn hợp khí tự nhiên cho kết quả  
tương đương tại giá trị áp suất sơ cấp thấp (tỷ lệ hút thấp).  
Tuy nhiên, tại giá trị áp suất sơ cấp tăng lên sẽ tương ứng  
với tỷ lệ hút cao (từ 35 bar áp suất cổng thứ cấp trở lên),  
mô hình hỗn hợp khí cho kết quả cao hơn so với mô hình  
Trong đó, AD và ACell_avg lần lượt là diện tích bề mặt  
mô phỏng và diện tích trung bình từng ô mắt lưới tứ giác  
(quadrilateral) của Ejector được chia nhỏ. Có thể rút ra kết  
luận từ tính toán độc lập cấu trúc lưới mô phỏng như sau:  
+ Giá trị cần quan sát gần với giá trị tiệm cận vì α ≈ 1.  
Bảng 2. Kết quả tính độc lập cấu trúc mạng lưới Ejector  

(ÃÃ2)  
 (ÃÃ)  
i
ª
ă
GCI (%)  
Cell_·Ì½  
¤
3651,7  
1
2
3
416113  
0,0088  
38,55  
38,50  
38,08  
315763  
227345  
0,0116  
0,0161  
3,7526  
20,8634  
0,989089  
0,12381  
R
!
38,56356  
438417,7  
exact  
͈
exact  
DẦU KHÍ - SỐ 5/2020  
18  
PETROVIETNAM  
chỉ sử dụng methane của Weixiong  
Chen và cộng sự [17].  
Trong khi đó, Ejector được  
nghiên cứu áp dụng tại mỏ Hải  
Thạch đạt được tỷ lệ hút entrain-  
ment là 37,69% tại điều kiện thiết  
kế là 14 MPa sơ cấp, 3,5 MPa thứ cấp  
và 4,5 MPa đầu ra. Đây là phương  
án đang được triển khai nghiên cứu  
sử dụng khí dẫn động lấy từ đầu ra  
máy nén khí của giàn xử lý trung tâm  
mỏ Hải Thạch. Phương án áp dụng  
tại mỏ Hải Thạch đã cho tỷ lệ hút  
entrainment cao hơn 2 nghiên cứu  
về Ejector khí tự nhiên trước đó của  
Amin Hassan Amin và cộng sự [16]  
và Weixiong Chen và cộng sự [17].  
(a)  
(b)  
4.1.2. So sánh 2 mô hình CFD sử dụng  
methane và hỗn hợp khí tự nhiên  
Hình 2. Cấu trúc lưới của mô hình Ejector với kiểu phân chia mắt lưới tứ giác (quadrilateral) (a) và chi tiết  
tại khu vực buồng trộn (b)  
Khi so sánh giữa 2 mô hình Ejec-  
tor sử dụng hỗn hợp khí tự nhiên tại  
cùng một điều kiện, ta có đồ thị tỷ lệ  
hút entrainment so với áp suất thứ  
cấp như Hình 6. Ban đầu khi áp suất  
cổng thứ cấp đang cao thì mô hình  
sử dụng hỗn hợp khí tự nhiên cho  
tỷ lệ hút cao hơn. Khi áp suất dòng  
Hình 3. Các kích thước hình học ảnh hưởng đến tỷ lệ hút entrainment theo nghiên cứu của Amin Hassan Amin  
và cộng sự [16]  
Bảng 3. Chi tiết mô hình CFD cho phương án sử dụng Ejector tại mỏ Hải Thạch  
Thông số  
Diễn giải  
Tính phụ thuộc thời gian  
Trạng thái ổn định.  
Phân chia mắt lưới tứ giác;  
Xác định tính độc lập của tỷ lệ hút entrainment và biên dạng áp suất so với số ô mắt lưới.  
Phương pháp phân chia cấu trúc  
Bộ giải  
Thuật toán SIMPLE cho mối quan hệ giữa áp suất và vận tốc dòng lưu chất.  
k-ε Re-Normalization Group.  
Theo áp suất và nhiệt độ cho các phương án 1 và 2.  
Mô hình rối  
Miền tính toán  
Hỗn hợp khí gồm methane, ethane, propane, nitrogen và carbon dioxide như chi tiết trong  
Bảng 1 (phương trình khí thực Peng Robison cho tỷ trọng hỗn hợp).  
Chất lưu  
Vòng lặp sẽ dừng lại khi phần dư được xác định nhỏ hơn 10−6 cho các phương trình liên tục,  
động lượng và năng lượng.  
Độ hội tụ  
- Tỷ lệ hút entrainment đặc trưng cho khả năng có thể hút được một khối lượng lưu chất thứ  
cấp trên một khối lượng lưu chất sơ cấp tại điều kiện đầu vào;  
- Đồ thị lưu lượng dòng thứ cấp so với áp suất dòng thứ cấp.  
Thông số quan sát  
Bảng 4. Kích thước tối ưu theo nghiên cứu của Amin Hassan Amin và cộng sự đạt được thông qua 216 bộ kích thước khác nhau [16]  
Thông  
số  
̾
̾
(độ)  
5,5723  
͈͒͊  
̾
Lꢀ  
̾
Lꢂꢀ  
[)  
(độ)  
ꢁ\  
ꢂꢀ  
̾
̾
̾
̾
(mm)  
4,6  
(độ)  
13,5  
11,2071 7,0631  
1,4069  
1,9178  
1,8045  
= 8,3  
15,7391  
= 72,4  
0,6387  
͆ = 2,938  
̾ = 6,4717 NXP = 8,822  
̾
͆
ꢂꢀ  
ꢂꢀ  
DẦU KHÍ - SỐ 5/2020  
19  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
thứ cấp giảm xuống thì mô hình sử dụng meth-  
ane và hỗn hợp khí tự nhiên cho kết quả tương  
đương. Hình 7 biểu diễn tỷ lệ hút entrainment  
so với áp suất ngược cho 2 mô hình Ejector. Mô  
hình sử dụng hỗn hợp khí cho tỷ lệ hút cao hơn  
tại chế độ nghẹt đôi, tuy nhiên 2 mô hình lại cho  
kết quả tương đương trong chế độ nghẹt đơn và  
đảo lưu. Điều này có thể giải thích do khối lượng  
phân tử của các hỗn hợp khí tự nhiên là lớn hơn  
và qua đó tạo ra nguồn năng lượng dẫn động  
lớn hơn. Tuy nhiên, bắt đầu từ chế độ nghẹt đơn  
thì nguồn năng lượng dẫn động này là không đủ  
và không vượt trội so với áp suất ngược. Vì vậy, tỷ  
lệ hút không có khác biệt.  
Hình 4. Đồ thị tỷ lệ hút entrainment so với áp suất thứ cấp tại điều kiện áp suất sơ cấp Pp = 12 MPa  
và áp suất ngược Ps = 5,2 MPa [17]  
Thông qua mô phỏng CFD, có đồ thị so sánh  
biên dạng vận tốc, áp suất dòng lưu chất giữa 2  
mô hình chỉ dùng methane và gồm thành phần  
hỗn hợp khí tự nhiên. Kết quả mô phỏng cho  
2 mô hình này được tính toán cho điều kiện 12  
MPa áp suất sơ cấp, 3 MPa áp suất thứ cấp và 4,1  
MPa áp suất ngược (Hình 8 - 10). Trong Hình 9,  
các vị trí sóng xung kích tương ứng với các vị trí  
màu đỏ. Điểm khác biệt chủ yếu xảy ra trong khu  
vực thiết diện không đổi và buồng trộn (Hình 8,  
10). Tại khu vực thiết diện không đổi và buồng  
trộn, mô hình hỗn hợp khí có kết quả vận tốc  
dòng lưu chất lớn hơn và không có sự biến thiên  
vận tốc. Với mô hình chỉ có methane, tại khu vực  
thiết diện không đổi và buồng trộn có nhiều  
sóng xung kích hơn (Hình 9). Sóng xung kích  
được tạo ra là do dòng lưu chất liên tục tăng và  
giảm vận tốc. Vì vậy, có sự suy giảm năng lượng  
dòng lưu chất và tạo ra khác biệt về tỷ lệ hút.  
70  
60  
50  
40  
30  
20  
10  
0
20  
25  
30  
35  
40  
45  
Áp suất thứ cấp (bar)  
Hình 5. Đồ thị tỷ lệ hút entrainment so với áp suất thứ cấp tại cùng điều kiện khi so sánh với nghiên cứu  
của Weixiong Chen và cộng sự [17]  
40  
35  
30  
25  
20  
15  
10  
5
Ngoài ra, thông qua mô phỏng CFD hỗn hợp  
khí tự nhiên, có biên dạng tỷ lệ khối lượng dòng  
chảy các thành phần cấu tử như Hình 11 - 13.  
Kết quả cho thấy mô phỏng CFD hỗn hợp khí tự  
nhiên rất cần thiết cho các ứng dụng đòi hỏi độ  
chính xác về thành phần cấu tử khí tự nhiên.  
0
35  
31,5  
28  
24,5  
21  
17,5  
14  
Áp suất thứ cấp (bar)  
Hình 6. Tỷ lệ hút entrainment giữa 2 mô hình sử dụng khí methane và hỗn hợp khí tự nhiên  
so với áp suất thứ cấp tại điều kiện: Pp = 140 bar, Pb = 45 bar  
40  
35  
30  
25  
20  
15  
10  
5
4.2. Khả năng áp dụng kết quả của mô hình  
CFD thiết bị Ejector trong nghiên cứu gia tăng  
thu hồi cho mỏ khí, condensate  
Việc xây dựng mô hình chính xác hoạt động  
của thiết bị Ejector bằng phương pháp mô  
phỏng CFD hỗn hợp khí tự nhiên hỗ trợ hiệu quả  
trong công tác nghiên cứu triển khai giải pháp  
gia tăng thu hồi cho mỏ khí, condensate:  
0
31,5  
36  
40,5  
45  
49,5  
54  
58,5  
63  
67,5  
Áp suất ngược (bar)  
Hình 7. Tỷ lệ hút entrainment giữa 2 mô hình sử dụng khí methane và hỗn hợp khí tự nhiên  
so với áp suất ngược tại điều kiện Pp = 140 bar, Pb = 45 bar  
DẦU KHÍ - SỐ 5/2020  
20  
PETROVIETNAM  
- Mô phỏng CFD có thể phân tích được  
ảnh hưởng của các thông số vận hành, đặc  
điểm cấu trúc bên trong đến hiệu suất làm  
việc của thiết bị. Mô hình CFD sử dụng hỗn  
hợp khí tự nhiên sẽ dùng để nghiên cứu tối  
ưu hóa cấu trúc bên trong thiết bị Ejector cho  
điều kiện áp dụng tại mỏ Hải Thạch - Mộc  
Tinh. Các nghiên cứu [16, 22] đã chỉ ra nhược  
điểm của mô hình là hiệu suất thiết bị Ejector  
còn thấp, đặc biệt là trong trường hợp áp suất  
đầu ra cao hoặc áp suất dòng thứ cấp thấp.  
(a)  
(b)  
Hình 8. Biên dạng áp suất tĩnh bên trong kết cấu - Mô hình chỉ có methane (a); mô hình hỗn hợp khí (b)  
- Kỹ thuật CFD còn giúp phân tích và  
nhận định các phương án lấy khí dẫn động  
khác nhau để đưa ra phương án hiệu quả nhất  
trong điều kiện tại mỏ Hải Thạch - Mộc Tinh.  
Hiện tại, trong ứng dụng gia tăng thu hồi khí  
dùng Ejector trên thế giới, không có phương  
án nào được coi là tối ưu trong mọi trường  
hợp. Tỷ lệ hút entrainment sẽ được tính toán  
theo suốt quá trình gia tăng thu hồi của giếng  
suy giảm áp suất. Tổng thời gian thu hồi cũng  
như sản phẩm gia tăng được tính toán theo  
từng phương án áp dụng tại mỏ Hải Thạch.  
(a)  
(b)  
Hình 9. Biên dạng vận tốc lưu chất bên trong kết cấu - Mô hình chỉ có methane (a); mô hình hỗn hợp khí (b)  
- Đánh giá kỹ thuật, nhận định các tình  
huống vận hành có thể gặp phải. Các vấn đề  
vận hành thiết bị đã được dự báo như: tỷ lệ  
lỏng trong dòng thứ cấp, hàm lượng CO2, H2S  
gây ăn mòn vòi phun, dòng chảy chất lỏng  
không ổn định, hiện tượng Joule - Thomson  
và hình thành hydrate [23].  
(a)  
- Ngoài ra, việc có thể giám sát và đảm  
bảo chế độ hoạt động tối ưu của thiết bị  
theo thời gian thực trong quá trình vận hành  
Ejector rất cần thiết [15]. Kết quả của mô hình  
CFD cho phép tính toán phương án vận hành  
thiết bị bằng cách so sánh hiệu suất của thiết  
bị theo thời gian thực (sử dụng các thiết bị  
đo đạc thực địa) với kết quả mô phỏng CFD.  
Trong khi vận hành Ejector, B.J.Huang và cộng  
sự đã nhấn mạnh tầm quan trọng của biểu  
đồ nổi tiếng như Hình 14 [24]. Trong đó, hiệu  
suất Ejector được chia làm 3 chế độ: chế độ tới  
hạn - nghẹt đôi (critical mode), chế độ cận tới  
hạn - nghẹt đơn (subcritical) và chế độ đảo lưu  
(backflow mode).  
(b)  
Hình 10. Đồ thị áp suất tĩnh dọc chiều dài tại trục chính của thiết bị - Mô hình chỉ có methane (a);  
mô hình hỗn hợp khí (b)  
Tại chế độ cận tới hạn, tỷ số hút entrain-  
ment là không đổi so với áp suất ngược cho  
Hình 11. Biên dạng tỷ lệ khối lượng dòng chảy của khí methane trong hỗn hợp  
DẦU KHÍ - SỐ 5/2020  
21  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
động từ đầu ra máy nén khí tại giàn xử lý trung  
tâm mỏ Hải Thạch. Mô hình sử dụng hỗn hợp khí  
tự nhiên là bước tiến mới giúp thiết kế và tối ưu  
hóa thiết bị Ejector cũng như giúp nâng cao tính  
chính xác, hiệu quả cho các nghiên cứu sử dụng  
Ejector khí tự nhiên trong tương lai. Từ nghiên  
cứu xây dựng mô hình CFD này, có thể đẩy mạnh  
triển khai áp dụng Ejector khí tự nhiên trong các  
lĩnh vực tiềm năng khác tại Việt Nam và cụ thể là  
mỏ Hải Thạch - Mộc Tinh như gia tăng thu hồi mỏ  
khí, thu gom khí bay hơi (flashing) từ sản phẩm  
condensate hay hút condensate ngưng tụ vùng  
cận đáy giếng.  
Hình 12. Biên dạng tỷ lệ khối lượng dòng chảy của khí ethane trong hỗn hợp  
Hình 13. Biên dạng tỷ lệ khối lượng dòng chảy của khí propane trong hỗn hợp  
Các phương hướng nghiên cứu tiếp theo là  
gia tăng thu hồi khí condensate bằng thiết bị  
Ejector tại mỏ Hải Thạch gồm việc tối ưu hóa thiết  
kế, triển khai lắp đặt, vận hành và kiểm chứng mô  
hình bằng kết quả thực địa. Các nghiên cứu nổi  
bật nhằm đưa ra giải pháp tối ưu về kích thước và  
hình dạng khác nhau của Ejector khí tự nhiên như  
là phương pháp tối ưu hóa đa mục tiêu của bộ  
cấu kiện bên trong Ejector Set-Based Concurrent  
Engineering [26], không thứ nguyên hóa cấu tạo  
hình học của Ejector so với tỷ lệ hút entrainment  
[27], hay phương pháp tối ưu dựa trên mẫu đại  
diện (Surrogate based optimization technique)  
kết hợp mô phỏng CFD, phương pháp Kriging  
và giải thuật di truyền [16], phương pháp CFD  
kết hợp giải thuật tiến hóa đa mục tiêu (Multi-  
Objectives Evolutionary Algorithm). Việc gia tăng  
thu hồi khí kéo dài có thể sẽ đòi hỏi nhiều bộ lõi  
khác nhau được thiết kế và chế tạo nhằm thu hồi  
được lượng sản phẩm lớn nhất tại cụm mỏ Hải  
Thạch - Mộc Tinh.  
Hình 14. Đồ thị tỷ số hút entrainment so với áp suất ngược [24]  
đến 1 giá trị nhất định (gọi là áp suất ngược tới hạn - Critical back  
pressure) và tỷ số hút entrainment bắt đầu giảm khi áp suất ngược  
tăng. Tỷ lệ hút entrainment sẽ bị giảm đột ngột do giảm dòng chảy  
thứ cấp. Nếu tiếp tục gia tăng áp suất ngược, thiết bị Ejector sẽ  
không thể tạo ra tỷ lệ hút entrainment nữa. Sẽ có hiện tượng dòng  
chảy ngược hay đảo lưu tại đầu thứ cấp [25].  
5. Kết luận  
Ứng dụng để gia tăng thu hồi cho mỏ khí condensate Hải  
Thạch sử dụng thiết bị Ejector đã được mô phỏng bằng kỹ thuật  
CFD. Kết quả so sánh với nghiên cứu trước đó của Amin Hassan  
Amin và các cộng sự [16] và Weixiong Chen và các cộng sự [17]  
cho thấy mô hình mô phỏng CFD sử dụng thành phần khí hỗn hợp  
với điều kiện mỏ Hải Thạch cho kết quả chính xác. Tuy nhiên, mô  
hình sử dụng hỗn hợp khí đòi hỏi lưới mô phỏng được chia nhỏ  
hơn rất nhiều so với các nghiên cứu trước đó nhằm đạt được độ  
độc lập kết quả GCI. Tại các điều kiện có tỷ lệ hút entrainment cao  
thì mô hình sử dụng hỗn hợp khí tự nhiên cho kết quả cao hơn so  
với mô hình sử dụng khí methane thông thường. Vị trí có sự khác  
nhau là khu vực buồng trộn và vùng thiết diện không đổi nơi xảy  
ra các sóng xung kích do thay đổi vận tốc dòng lưu chất. Mô hình  
CFD của Ejector đang được nghiên cứu áp dụng tại mỏ Hải Thạch  
đạt được tỷ lệ hút 37,69% tại điều kiện thiết kế là 14 MPa sơ cấp, 3,5  
MPa thứ cấp và 4,5 MPa đầu ra. Đây là phương án sử dụng khí dẫn  
Tài liệu tham khảo  
[1] Bourhan M.Tashtoush, Moh’d A.Al-Nimr,  
and Mohammad A.Khasawneh,“A comprehensive  
review of ejector design, performance, and  
applications, Applied Energy, Vol. 240, pp. 138 -  
172, 2019.  
[2] Y.Bartosiewicz,  
Z.Aidoun,  
and  
Y.Mercadier, “Numerical assessment of ejector  
operation for refrigeration applications based on  
CFD,Applied Thermal Engineering, Vol. 26, No. 5 -  
6, pp. 604 - 612, 2006.  
[3] A.J.Green, Kevin Ashton, and A.T.Reade,  
“Gas production improvements using ejectors,  
DẦU KHÍ - SỐ 5/2020  
22  
PETROVIETNAM  
Offshore Europe, Aberdeen, United Kingdom, 7 - 10  
September, 1993.  
[14] Weixiong Chen, Daotong Chong, Junjie Yan, and  
Jiping Liu, “Numerical optimization on the geometrical  
factors of natural gas ejectors, International Journal of  
Thermal Sciences, Vol. 50, No. 8, pp. 1554 - 1561, 2011.  
[4] M.M.Sarshar, “Jet-boosting the profitability of  
marginal oil and gas fields, World Pumps, Vol. 1998,  
No. 387, pp. 24 - 26, 1998.  
[15] Weixiong Chen, Chenxi Huang, Daotong  
Chong, and Junjie Yan, “Numerical assessment of ejector  
performance enhancement by means of combined  
adjustable-geometry and bypass methods, Applied  
Thermal Engineering, Vol. 149, pp. 950 - 959, 2019.  
[5] Marco Villa, Giambattista De Ghetto, Francesco  
Paone, Giancarlo Giacchetta, and Maurizio Bevilacqua,  
“Ejectors for boosting low-pressure oil wells, SPE  
Production & Facilities, Vol. 14, No. 4, pp. 229 - 234, 1999.  
[16] Amin Hassan Amin, Ibrahim Elbadawy, Essam  
Elgendy, and Md Fatouh, “Effect of geometrical factors  
interactions on design optimization process of a natural  
gas ejector, Mechanical Engineerin, Vol. 11, No. 9, 2019.  
[6] P.Andreussi, S.Sodini, V.Faluomi, P.Ciandri,  
A.Ansiati, F.Paone, C.Battaia, “Multiphase ejector to boost  
production: First application in the Gulf of Mexico, Offshore  
Technology Conference, Houston, Texas, 5 - 8 May, 2003.  
[17] Weixiong Chen, Daotong Chong, Junjie  
Yan, Sheng-Chao Dong, and Ji-Ping Liu, “Numerical  
investigation of two-phase flow in natural gas ejector,  
Heat Transfer Engineering, Vol. 35, No. 6 - 8, 2014.  
[7] Kulachate Pianthong, Wirapan Seehanam,  
M.Behnia, Thanarath Sriveerakul, and S.Aphornratana,  
“Investigation and improvement of ejector refrigeration  
system using computational fluid dynamics technique,  
Energy Conversion and Management, Vol. 48, No. 9,  
pp. 2556 - 2564, 2007.  
[18] NIST, NIST standard reference database number  
69. Chemistry WebBook, 2018.  
[8] Yinhai Zhu, Wenjian Cai, Changyun Wen, and  
Yanzhong Li, “Numerical investigation of geometry  
parameters for design of high performance ejectors,  
Applied Thermal Engineering, Vol. 29, No. 5 - 6, pp. 898 -  
905, 2009.  
[19] P.J.Roache, “Perspective: A method for uniform  
reporting of grid refinement studies, Journal of Fluids  
Engineering, Vol. 116, No. 3, pp. 405 - 413, 1994.  
[20] P.J.Roache, “Quantification of uncertainty in  
computational fluid dynamics, Vol. 29, pp. 123 - 160, 1997.  
[9] Y.Bartosiewicz, Zine Aidoun, P. Desevaux,  
and Y.Mercadier, “CFD-Experiments integration in the  
evaluation of six turbulence models for supersonic  
ejectors modeling, Proceedings of Integrating CFD and  
Experiments Conference, Glasgow, UK, 2004.  
[21] Patrick J.Roache, “Verification of codes and  
calculations, AIAA Journal, Vol. 36, No. 5, pp. 696 - 702,  
1998.  
[22] Weixiong Chen, Daotong Chong, Junjie Yan,  
and Jiping Liu, “The numerical analysis of the effect of  
geometrical factors on natural gas ejector performance,  
Applied Thermal Engineering, Vol. 59, No. 1 - 2, pp. 21 - 29,  
2013.  
[10] Yinhai Zhu and Peixue Jiang, “Experimental  
and numerical investigation of the effect of shock wave  
characteristics on the ejector performance,International  
Journal of Refrigeration, Vol. 40, pp. 31 - 42, 2014.  
[23] Syed M.Peeran and N.Beg S.Sarshar, “Novel  
examples of the use of surface jet pumps (SJPs) to  
enhance production & processing. Case studies & lessons  
learnt, North Africa Technical Conference and Exhibition,  
Cairo, Egypt, 15 - 17 April, 2013.  
[11] Weixiong Chen, Huiqiang Chen, Chen Chaoyin  
Shi, Kangkang Xue, Daotong Chong, and Junjie Yan, “A  
novel ejector with a bypass to enhance the performance,  
Applied Thermal Engineering, Vol. 93, pp. 939 - 946, 2016.  
[12] Daotong Chong, Junjie Yan, Gesheng Wu, and  
Jiping Liu, “Structural optimization and experimental  
investigation of supersonic ejectors for boosting low  
pressure natural gas, Applied Thermal Engineering, Vol. 29,  
No. 14 - 15, pp. 2799 - 2807, 2009.  
[24] B.J.Huang, C.B.Jiang and F.L.Hu, “Ejector  
performance characteristics and design analysis of jet  
refrigeration system, Journal of Engineering for Gas  
Turbines and Power, Vol. 107, No. 3, pp. 792 - 802, 1985.  
[25] Jianyong Chen, Sad Jarall, Hans Havtun, and  
Bans Palm, “A review on versatile ejector applications in  
refrigeration systems, Renewable and Sustainable Energy  
Reviews, Vol. 49, pp. 67 - 90, 2015.  
[13] D.Chong, G.Wu, S.Liu, J.Yan, and J.Liu,“Numerical  
simulation of low pressure natural gas injector, AIP  
Conference Proceedings, Vol. 1207, pp. 961 - 967, 2010.  
DẦU KHÍ - SỐ 5/2020  
23  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
[26] Muhd Ikmal I. Bin Mohd Maulana, AhmedAl-  
Ashaab, Jakub W.Flisiak, Zehra C.Araci, Piotr W.Lasisz,  
Essam Shehab, Najam Beg, and Abdullah Rehman, “The  
set-based concurrent engineering application: A process  
of identifying the potential benefits in the surface jet  
pump case study,Procedia CIRP, Vol. 60, pp. 350 - 355, 2017.  
[27] Navid Sharifi, Masoud Boroomand, and Majid  
Sharifi, “Numerical optimization of ejector geometry  
based on non-dimensional parameters, International  
Mechanical Engineering Congress and Exposition, Houston,  
Texas, USA, November 9 - 15, 2012.  
ENHANCING PRODUCTION WITH NATURAL GAS EJECTOR  
FOR HAI THACH GAS CONDENSATE FIELD - CFD MODEL DEVELOPMENT  
Tran Ngoc Trung1, Trieu Hung Truong2, Ngo Huu Hai1, Tran Vu Tung1, Ly Van Dao1  
1Bien Dong Petroleum Operating Company  
2Hanoi University of Mining and Geology  
Email: trungtn@biendongpoc.vn  
Summary  
In the field of gas and condensate production, the processing of fluid flowing depends on the reservoir pressure and the inlet pressure  
of the gas processing system. In order to recover gas and condensate from the depleting or pressure-reducing wells at the same time with  
wells still maintaining stable flowrate and pressure, conventionally the methods of using surface equipment are often studied to evaluate  
their technical feasibility as well as economic efficiency. Two conventional methods using surface equipment are Three-phase Natural Gas  
Compressor and Ejector. Compared to the Gas Compressor, the method using Ejector offers many advantages such as low investment and  
operating costs, and this is also a lightweight, reliable and environmental-friendly equipment. However, to support investment decision  
making, a reliable fluid dynamic model is crucial to analyse the workability and performance as well as to accurately calculate the increase of  
enhanced recovery products.  
In this study, the results of the Computational Fluid Dynamic (CFD) model using a gas mixture were also compared to those produced by  
the equivalent model using only methane. The flowing of fluids inside the Ejector is modelled based on the k-ε Re-Normalisation Group (k-ε  
RNG) turbulent model. The gas compositions for working fluids are those under the conditions of Hai Thach field. The Peng-Robison real gas  
equation was also applied to calculate the gas density.  
Key words: Ejector, CFD model, enhanced gas/condensate recovery, Hai Thach field.  
DẦU KHÍ - SỐ 5/2020  
24  
pdf 11 trang yennguyen 16/04/2022 2900
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu xây dựng mô hình mô phỏng động lực học chất lỏng tính toán (CFD) cho thiết bị Ejector sử dụng nâng cao tỷ lệ thu hồi mỏ khí Condensate Hải Thạch", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_xay_dung_mo_hinh_mo_phong_dong_luc_hoc_chat_long.pdf