Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi Permian phía Nam lô 106, bể sông Hồng

THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 3 - 2020, trang 22 - 31  
ISSN-0866-854X  
ĐẶC ĐIỂM THẠCH HỌC VÀ SỰ PHÂN BỐ CỦA TRÙNG LỖ TRONG ĐÁ VÔI  
PERMIAN PHÍA NAM LÔ 106, BỂ SÔNG HỒNG  
Mai Hoàng Đảm, Vũ Thị Tuyền  
Viện Dầu khí Việt Nam  
Email: dammh@vpi.pvn.vn  
Tóm tắt  
Bài báo giới thiệu kết quả nghiên cứu chi tiết về địa tầng của một số giếng khoan qua móng đá vôi bởi các tổ hợp hóa thạch trùng  
lỗ bám đáy (benthic foraminifera) và đặc điểm thạch học. Kết quả nghiên cứu cho thấy các thành tạo đá vôi chủ yếu là packstone,  
wackestone, mudstone chứa phong phú hóa thạch trùng lỗ đặc trưng cho thời kỳ Permian (Wuchiapingian - Changhsingian). Thành phần  
thạch học của đá chưa bị biến đổi nhiều nên các hóa thạch được bảo tồn khá tốt, trong đó các khung hóa thạch bị thay thế bởi xi măng  
calcite và dolomite. Lỗ rỗng được thành tạo chủ yếu bởi sự nén ép của các khối đá móng tạo nên dạng khe nứt. Các khe nứt chủ yếu được  
lấp đầy bởi các khoáng vật calcite, dolomite và silic do ảnh hưởng của các hoạt động magma và quá trình thủy nhiệt.  
Từ khóa: Hóa thạch trùng lỗ, móng đá vôi, địa tầng, đá vôi packstone, đá vôi wackestone, đá vôi mudstone.  
1. Giới thiệu chung  
cấu tạo Hàm Rồng, Hạ Long và Phả Lại. Một số nghiên cứu  
chi tiết về địa tầng do Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) thực  
hiện nhằm cung cấp các thông tin chi tiết về địa tầng và  
liên kết địa tầng của các giếng khoan với các khu vực lân  
cận giúp định hướng công tác tìm kiếm, thăm dò, khai  
thác đạt hiệu quả hơn. Trong bài báo này, tác giả chỉ đề  
cập đến các nghiên cứu về địa tầng và thạch học móng đá  
vôi của 3 giếng khoan SH1, SH2 và SH3 thuộc phía Nam Lô  
106 được thành tạo vào cuối Paleozoic (PZ).  
Bể trầm tích Sông Hồng được lấp đầy bởi các trầm tích  
Đệ Tam, có cấu trúc địa chất rất phức tạp với nhiều đới  
phân dị khác nhau và thành phần đá móng đa dạng gồm:  
đá biến chất kết tinh gneiss, đá nội sinh, trầm tích mảnh  
vụn và các thành tạo đá vôi. Trong đó, móng đá vôi trước  
Cenozoic được tìm thấy khá phổ biến ở khu vực phía Bắc  
của bể Sông Hồng thuộc các cụm cấu tạo: Hàm Rồng, Yên  
Tử, Phả Lại, Đồ Sơn. Các thành tạo móng đá vôi bắt đầu  
trở thành đối tượng quan trọng khi phát hiện sản phẩm  
hydrocarbon chứa trong móng ở khu vực Lô 102 - 106.  
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về địa tầng ở khu vực này  
còn nhiều hạn chế bởi số lượng mẫu (giếng khoan) chưa  
nhiều.  
Khu vực nghiên cứu có hoạt động kiến tạo rất phức  
tạp nằm ở rìa phía Nam của mảng Nam Trung Hoa, gần đới  
khâu Sông Mã là ranh giới giữa mảng Nam Trung Hoa và  
Indochina [1]. Đới khâu Sông Mã xảy ra vào cuối Paleozoic  
do quá trình khép kín của 2 mảng trên và là nơi giao nhau  
của các đới và phụ đới kiến tạo chính [2] (Hình 1).  
Một số dự án nghiên cứu tổng thể về kiến tạo, thạch  
học, địa tầng đã được Tổng công ty Thăm dò Khai thác  
Dầu khí (PVEP) thực hiện bởi các tuyến khảo sát thực địa  
vùng Hải Phòng, Hải Dương, Hạ Long, Cát Bà để liên hệ  
đối sánh với các thành tạo bên dưới bể Sông Hồng. Kết  
quả nghiên cứu cho thấy giữa chúng có mối quan hệ về  
nguồn gốc với nhau, các khối móng đá vôi chủ yếu được  
thành tạo trong thời kỳ Devonian - Carboniferous thuộc  
các hệ tầng: Tràng Kênh, Phố Hàn và Bắc Sơn ở các cụm  
Với mục tiêu nghiên cứu chi tiết địa tầng trong các  
thành tạo đá vôi, tác giả sử dụng tổ hợp hóa thạch trùng  
lỗ bám đáy (benthic foraminifera) để mô tả nhận dạng  
trực tiếp hình dạng, sự sắp xếp các phòng phôi để xác  
định tên giống và loài. Đối với mẫu đá vôi nguyên khối  
(mẫu lõi, mẫu sườn) thực hiện gia công lát mỏng và phân  
tích dưới kính hiển vi phân cực. Đối với mẫu vụn sẽ tiến  
hành đúc các mảnh vụn sau khi được chọn thành khối  
trước khi mài lát mỏng. Cùng với việc nghiên cứu địa  
tầng là nghiên cứu đặc điểm thạch học của các thành  
tạo đá vôi chứa hóa thạch về thành phần, cấu trúc, giai  
đoạn thành tạo đá và ảnh hưởng của kiến tạo để đánh  
Ngày nhận bài: 20/2/2020. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 20/2 - 13/3/2020.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 13/3/2020.  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2020  
22  
PETROVIETNAM  
giá khả năng chứa của đá. Nghiên cứu được thực hiện trên 103 mẫu (5m/  
mẫu) phân tích hóa thạch trùng lỗ và 30 mẫu (20 - 30m/mẫu) phân tích  
các chỉ tiêu thạch học.  
hóa thạch cung được lấp đầy bởi calcite  
kết tinh hạt thô và cấu trúc sinh vật vẫn  
được bảo tồn tốt. Đá bị nứt nẻ phần nào  
được lấp đầy bởi khoáng calcite không  
chứa sắt có màu hồng và calcite chứa sắt  
có màu tím nhạt.  
2. Đặc điểm thạch học đá vôi  
Trong khoảng độ sâu nghiên cứu, đá vôi có thành phần chính là  
khoáng calcite không chứa sắt, có màu hồng, đôi chỗ có sự hiện diện  
của calcite chứa sắt, có màu tím do nhuộm màu và dolomite không chứa  
sắt. Mảnh vụn sinh vật như trùng lỗ bám đáy (benthic foraminifera),  
echinoderm, coral, tảo (algae), bryozoa, brachiopod hiện diện trong đá.  
Do các hoạt động kiến tạo, nén ép và quá trình tạo đá tạo ra các nứt nẻ  
và kiến trúc dạng đường khâu (stylolite: đường nứt ngoằn ngoèo được  
tạo ra do sự hòa tan khoáng vật), bị lấp đầy bởi khoáng calcite chứa sắt,  
dolomite.  
Đá vôi wackestone chứa hàm lượng  
thấp hơn các mảnh vụn sinh vật như  
foraminifera, ostracods, tảo và các mảnh  
sinh vật khác chiếm khoảng 10% trong  
tổng hàm lượng đá. Các mảnh vụn sinh  
vật trôi nổi trên nền bùn vôi có kiến trúc  
vi hạt, đôi chỗ bùn vôi calcite bị biến đổi  
thành dolomite và bị thay thế bởi silicite.  
Khung sinh vật và phòng phôi bị thay thế,  
lấp đầy hoàn toàn bởi calcite. Đá bị nứt nẻ,  
có kiến trúc dạng đường khâu và trám bởi  
khoáng calcite không chứa sắt.  
Các khoáng vật kết tinh sau quá trình lắng đọng trầm tích silicite  
(chalcedony) trám vào các nứt nẻ của đá, giống như các đai mạch xâm  
nhập vào đá vôi và lấp đầy các khe nứt. Các lỗ rỗng của đá được tạo ra  
do sự hòa tan (vuggy pores) và nứt nẻ (fractured pores) đôi chỗ còn được  
bảo tồn. Trên cơ sở phân loại của Dunham (1962), đá vôi trong khu vực  
nghiên cứu được phân loại là: packstone, wackestone và mudstone. Ở khu  
vực cấu tạo SH2, SH3 đặc trưng bởi tướng đá vôi wackestone, bùn vôi  
(mudstone) và khu vực cấu tạo SH1 là đá vôi packstone, wackestone bị  
dolomite hóa và tái kết tinh mạnh.  
Mudstone có thành phần phổ biến là  
bùn vôi, có kiến trúc vi hạt và một lượng  
nhỏ bùn vôi kết tinh thành khoáng calcite  
có kích thước microspar và micrite (<  
4µm). Mảnh vụn sinh vật như foraminifera,  
ostracods và những mảnh vỡ sinh vật  
không xác định, chiếm dưới 10% tổng  
hàm lượng đá. Các mảnh vụn sinh vật nằm  
trôi nổi trên nền bùn vôi, đôi chỗ bùn vôi  
calcite bị biến đổi thành dolomite và bị  
thay thế bởi silicite.  
Đá vôi packstone chứa hàm lượng tương đối các mảnh vụn sinh vật  
như: foraminifera, tảo, echinoderm, coral, bryozoa, brachiopod và các  
mảnh hóa thạch khác chiếm hàm lượng trên 10% trong tổng thành  
phần của đá. Các mảnh vụn sinh vật và mảnh hóa thạch tiếp xúc nhau  
và được gắn kết bởi bùn vôi và bùn vôi kết tinh thành microspar calcite  
(4 - 10µm), pseudospar calcite (10 - 50µm) và đôi khi chúng bị dolomite  
hóa. Khung sinh vật bị thay thế hoàn toàn bởi calcite, phòng phôi của  
Đá dolomite được thành tạo từ đá vôi  
packstone, wackestone bị dolomite hóa  
trong quá trình biến đổi sau trầm tích.  
Kiến trúc của đá dạng nửa tự hình (planar-  
subhedral). Đá dolomite phân bố xen kẹp  
trong đá vôi packstone và wackestone.  
Mảnh vụn sinh vật trong đá chủ yếu bị  
dolomite hóa.  
Kết quả phân tích hình ảnh dưới kính  
hiển vi điện tử quét (SEM) thể hiện hình  
dạng tinh thể của các khoáng calcite vi hạt  
(Ca), kích thước micro < 4µm và khoáng  
dolomite (Do) có dạng hình thoi tự hình  
với kích thước > 50µm (Hình 3e và f). Cùng  
với kết quả phân tích nhiễu xạ tia X (XRD)  
cho toàn bộ đá thấy rằng đá vôi phổ biến  
là khoáng vật carbonate, trong đó thành  
phần calcite chiếm hàm lượng phổ biến,  
Hình 1. Sơ đồ phân chia các đới và phụ đới kiến tạo phía Bắc bể Sông Hồng [2]  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2020  
23  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
Hình 2. Ảnh chụp lát mỏng thạch học trong giếng khoan SH3. (a) 2.330 - 2.333m, (b) 2.375 - 2.378m và (c) 2.516 - 2.519m. Thành phần chính của đá là calcite vi tinh không chứa sắt  
(Mi-Ca) có màu hồng xen lẫn lượng nhỏ vật chất hữu cơ (Org), đôi chỗ bị thay thế bởi dolomite (mũi tên trắng) và silicite. Đá chứa mảnh vụn sinh vật foraminifera (Fo), odstracod (Os) và  
mảnh vỡ sinh vật (Bio). Đá bị nén ép tạo nứt nẻ (mũi tên màu xanh) và được lấp đầy bởi khoáng calcite hạt thô hơn (Ca).  
Hình 3. Ảnh chụp lát mỏng thạch học và SEM trong giếng khoan SH1. (a) 3.989m, (b) 3.920m, (c) 3.950m, (d) 3.791m, (e) 3.783,5m, (f) 3.766m. Thành phần chính của đá là khoáng  
calcite không chứa sắt (Ca) có màu hồng, đôi chỗ bị thay thế bởi dolomite (Do). Mảnh vụn sinh vật foraminifera (Fo), echinoderm (Ech), tảo (Alg) và mảnh vỡ sinh vật (Bio). Đá bị nén ép  
tạo nứt nẻ (mũi tên) và kiến trúc dạng đường khâu (Styl), được lấp nhét bởi sét (Cl), calcite chứa sắt (Fe-Ca) và đai mạch silica (dyke). Dolomite dạng nửa tự hình (Do) thay thế vào calcite vi  
hạt, sau đó dolomite thô hạt hơn tự hình hơn kết tinh sau.  
ít hơn là dolomite và hiếm siderite. Các khoáng vật như  
thạch anh, feldspar chiếm hàm lượng nhỏ (Hình 4).  
Dolomite hóa: Khoáng calcite vi hạt bị thay thế một  
phần bởi khoáng dolomite có kích thước mịn - thô và đôi  
khi lấp vào những nứt nẻ. Dolomite hạt thô, tự hình hơn  
được thành tạo sau, trong giai đoạn chôn vùi.  
Kết quả nghiên cứu thạch học cho thấy đá vôi trong  
khu vực này trải qua quá trình biến đổi sau trầm tích như  
sự kết tinh của bùn vôi thành khoáng calcite, sự dolomite  
hóa. Quá trình nén ép, hòa tan tạo những nứt nẻ và kiến  
trúc dạng đường khâu, đôi chỗ nứt nẻ bị lấp đầy bởi  
khoáng calcite, dolomite và silicite.  
Nứt nẻ và kiến trúc dạng đường khâu: Do hoạt động  
kiến tạo hình thành nứt nẻ và kiến trúc dạng đường khâu  
và được lấp đầy bởi calcite, dolomite.  
Nhìn chung, hệ thống lỗ rỗng quan sát được chủ yếu  
là lỗ rỗng nứt nẻ (fractured pores), lỗ rỗng hòa tan (vuggy  
và mouldic pores) và lỗ rỗng giữa các tinh thể dolomite  
(intergranular pores). Do ảnh hưởng của quá trình thủy  
nhiệt các khe nứt, đứt gãy bị lấp nhét bởi vật liệu silica giống  
như các đai mạch và các kết hạch xâm nhập vào đá vôi và  
lấp đầy các khe nứt làm hạn chế khả năng chứa của đá.  
Sự kết tinh của bùn vôi thành khoáng calcite: Thành  
phần bùn vôi của đá vôi kết tinh thành những khoáng  
calcite có kích thước từ micrite đến pseudospar. Bùn  
vôi bên trong mảnh vụn sinh vật kết tinh thành khoáng  
calcite vi hạt và khoáng calcite hạt thô bao quanh mảnh  
vụn sinh vật tạo thành kiến trúc khảm.  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2020  
24  
PETROVIETNAM  
Hình 4. Biểu đồ phân tích XRD cho toàn bộ đá tại độ sâu 4.015m trong giếng khoan SH1  
Hình 5. Sự phân bố hóa thạch trùng lỗ (LBF) trong giếng khoan SH1 đặc trưng cho tuổi Permian  
Kết quả phân tích thạch học và sự hiện diện của các  
dấu vết hóa thạch, đặc biệt là các tổ hợp giống loài của  
foraminifera cho thấy đá bùn vôi (mudstone) và đá vôi  
wackestone có thành phần bùn vôi, chứa ít mảnh vụn sinh  
vật phổ biến lắng đọng trong môi trường biển có năng  
lượng thấp, nước tương đối yên tĩnh. Đá vôi packstone  
chứa mảnh vụn sinh vật và mảnh vụn đá vôi nhiều hơn,  
chúng được lắng đọng trong môi trường biển có năng  
lượng thay đổi từ thấp đến cao và ngược lại.  
3. Đặc điểm phân bố trùng lỗ trong đá vôi tuổi Permian  
Các thành tạo móng đá vôi trong khoảng độ sâu  
nghiên cứu chứa phong phú hóa thạch trùng lỗ bám đáy  
kích thước lớn (larger benthic foraminifera - LBF). Các  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2020  
25  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
khung hóa thạch chủ yếu bị thay thế bởi xi măng calcite  
và dolomite, bên trong các phòng cung bị dolomite hóa  
nhưng vẫn bảo tồn nguyên vẹn cấu trúc của hóa thạch.  
ngăn uốn nếp mạnh và tường vỏ keriotheca rất rõ mà tiêu  
biểu là họ Schwagerinidae (Hình 6). Bộ Fusulinida có đặc  
điểm tường vỏ keriotheca phân bố chủ yếu trong tuổi  
Carboniferous muộn (bậc Kasimovian) đến Permian muộn  
(bậc Changhsingian) [6 - 8]. Ngoài ra, các hóa thạch dạng  
tảo cung rất phong phú chủ yếu là nhóm Konickopora  
(Hình 8 (4 - 6)). Bên cạnh đó, tổ hợp này có mặt rất phong  
phú trong các thành tạo đá vôi ở một số khu vực phía Nam  
Trung Hoa (Meishan, Laibin, bể trầm tích Nanpanjiang),  
Thái Lan, Malaysia, Nhật Bản và Iran đặc trưng cho giai  
đoạn Changhsingian muộn [9 - 11].  
Tổ hợp hóa thạch tìm thấy đặc trưng cho thời kỳ  
Paleozoic muộn (Permian) được phân bố chủ yếu ở khu  
vực Đông Bắc Việt Nam và các vùng lân cận [4, 5]. Các đại  
diện tiêu biểu gồm các giống: Nodosinelloides, Nodosaria,  
Geinitzina, Codonofusiella, Pachyphloia, Rectoglandulina,  
Palaeotextularia, Reichelina, Cribrogenerina và phong phú  
các mảnh của thượng họ Fusulinacae có đặc trưng vách  
Hình 6. Đặc điểm vách ngăn keriotheca họ Schwagerinidae tìm thấy trong giếng khoan SH1  
Hình 8. 1. Boultoniinae, 2. Nodosinelloides netschajewi, 3. Nodosinelloides sp. trong giếng khoan SH2;  
Hình 7. Sự phân bố hóa thạch trùng lỗ trong giếng khoan SH3  
4 - 6. Các dạng tảo Koninckopora trong giếng khoan SH1. Thước tỷ lệ 100µm  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2020  
26  
PETROVIETNAM  
Hình 9. Hóa thạch đặc trưng tuổi Permian trong giếng khoan SH1. 1 - 3. Nodosinelloides sp. (Mamet và Pinard, 1992) lần lượt tại 3.970m, 4.015m và 4.025m, 4 - 5. Geinitzina sp. (Spandel,  
1901) lần lượt tại 4.030m và 4.005m, 6. Protonodosaria sp. (Gerke, 1959) tại 4.035m, 7. Geinitzina sp. (Spandel, 1901) tại 4.015m, 8 - 9. Sichotenella sp. tại 4.030m, 10. Globivalvulina  
sp. (Schubert, 1921) tại 4.038m, 11. Protonodosaria sp. (Gerke, 1959) tại 4.035m, 12. Pachyphloia sp. (Lange, 1925) tại 4.035m, 13. Pachyphloia sp. (Lange, 1925) tại 4.005m, 14. Pachy-  
phloia sp. (Lange, 1925) tại 3.985m, 15. Diplosphaerina sp. (Derville, 1952) tại 4.020m, 16. Protonodosaria sp. (Gerke, 1959) tại 4.035m, 17. Pachyphloia sp. (Lange, 1925) tại 4.025m,  
18. Cribrogenerina sp. (Schubert, 1908) tại 4.035m, 19. Nodosaria sp. (Lamarck, 1812) tại 4.025m, 20. Neodiscus (?) sp. (Miklukho-Maklay, 1953) tại 3.985m, 21. Protonodosaria sp. (Gerke,  
1959) tại 4.030m. Thước tỷ lệ 100µm.  
Trong một số công trình nghiên cứu về trùng lỗ  
Paleozoic [4, 5] đã ghi nhận sự phân bố của tổ hợp hóa  
thạch ở một số khu vực lộ ra trên lục địa Việt Nam và các  
khu vực lân cận:  
Giống Globivalvulina Schubert, 1921 được phân  
bố từ Serpukhovian đến phần muộn nhất Permian [10].  
Giống Reichelina Erk, 1942 được xác định trong khoảng  
từ Wuchiapingian đến Changhsingian ở vùng Nam  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2020  
27  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
Hình 10. Hóa thạch đặc trưng tuổi Permian trong giếng khoan SH1. 1. Plectogyra sp. (Ganelina, 1966) tại 3.989m, 2. Climacammina sp. (Brady, 1873) tại 3.989m, 3 - 4. ENDOTHYRIDAE  
(Brady, 1884) tại 4.015m, 5 - 6. Schubertella sp. (Staff và Wedekind, 1910) tại 4.020m và 3.995m, 7. Profusulinella sp. (Rauzer-Chernousova và Belyaev, 1936) tại 4.015m, 8. Palaeotextu-  
laria sp. (Schubert, 1921) tại 3.989m, 9 - 10. Fusiella sp. (Lee và Chen, 1930) tại 3.995m và 4.005m, 11. Rectoglandulina sp. (Loeblich và Tappan, 1955) tại 4.035m, 12. Codonofusiella sp.  
(Dunbar và Skinner, 1937) tại 4.005m, 13. Profusulinella sp. tại 4.035m, 14. Schwagerinidae (Dunbar và Henbest, 1930) tại 4.035m. Thước tỷ lệ 100µm.  
Trung Hoa [10]. Ở miền Bắc Việt Nam, địa tầng phân bố  
của Reichelina trong Permian muộn chủ yếu ở vùng  
Đông Bắc (Cao Bằng, Lạng Sơn) thuộc hệ tầng Bắc Sơn  
(Wuchiapingian) và Đồng Đăng (Changhsingian) [5].  
bố địa tầng chủ yếu Permian giữa đến muộn và phổ biến  
ở khu vực Đông Bắc thuộc các hệ tầng Bắc Sơn và Đồng  
Đăng, ở thềm lục địa chỉ mới phát hiện ở một số giếng  
khoan Lô 106 [5].  
Giống Pachyphloia Lange, 1925 xuất hiện đầu tiên từ  
Sakmarian và biến mất vào phần muộn nhất của Permian  
ở vùng Nam Trung Hoa [10]. Ở Việt Nam, Pachyphloia phân  
Giống Schubertella Staff và Wedekind, 1910 được  
phát hiện phổ biến ở miền Bắc (Bắc Kạn, Quảng Ninh,  
Thái Nguyên, Quảng Bình) trong khoảng từ Carboniferous  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2020  
28  
PETROVIETNAM  
Hình 11. Hóa thạch đặc trưng tuổi Permian trong giếng khoan SH3. 1. Globivalvulina (?) sp. (Schubert, 1921) tại 2.327m, 2. Eoendothyra sp. (Miklukho - Maklay, 1960) tại 2.378m, 3.  
Palaeotextularia (?) sp. (Schubert, 1921) tại 2.378m, 4. Palaeotextularia sp. (Schubert, 1921) tại 2.327m, 5-6. Palaeotextularia sp. (Schubert, 1921) tại 2.378m, 7. Palaeotextularia sp.  
(Schubert, 1921) tại 2.333m, 8. Rectogandulina (?) sp. (Loeblich và Tappan, 1955) tại 2.327m, 9 - 10. Rectogandulina sp. (Loeblich và Tappan, 1955) lần lượt tại 2.378m và 2.540m, 11 - 12.  
Nodosinelloides sp. (Mamet và Pinard, 1992) tại 2.327m, 13. Nodosinelloides sp. (Mamet và Pinard, 1992) tại 2.540m, 14 - 15. Geinitzina sp. (Spandel, 1901) lần lượt tại 2.354m và 2.519m,  
16 - 17. Pachyphloia sp. (Lange, 1925) lần lượt tại 2.327m và 2.348m, 18-19. Pachyphloia sp. (Lange, 1925) tại 2.354m, 20. Pachyphloia sp. (Lange, 1925) tại 2.510m. Thước tỷ lệ 100µm.  
muộn (Moscovian) đến Permian thuộc hệ tầng Bắc  
Sơn [5]. Giống Cribrogenerina Schubert, 1908 phân bố  
trong Permian muộn (Changhsingian) thuộc hệ tầng  
Đồng Đăng được tìm thấy ở Cao Bằng, Lạng Sơn [5]. Họ  
Schwagerinidae Dunbar et Henbest, 1930 rất đặc trưng  
cho địa tầng Permian thuộc hệ tầng Bắc Sơn ở khu vực  
phía Bắc (Sơn La, Hà Giang, Lạng Sơn) và cả phía Nam  
(Kiên Giang) thuộc hệ tầng Hà Tiên [5].  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2020  
29  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
Tổ hợp Nodosinelloides - Geinitzina đặc trưng  
cho Permian sớm được ghi nhận ở Iran [12]. Tổ hợp  
Codonofusiella-ReichelinakháphongphúởvùngĐôngBắc,  
thuộc hệ tầng Bắc Sơn tương ứng với bậc Wuchiapingian  
[4]. Bên cạnh đó, phần muộn nhất của Permian được ghi  
nhận là sự xuất hiện của giống Codonofusiella Dunbar  
et Skinner, 1937 ở miền Nam Nhật Bản [13]. Ở Việt Nam,  
Codonofusiella phân bố trong Permian giữa - muộn của  
các hệ tầng Bắc Sơn, Đồng Đăng, Hà Tiên (Hà Giang, Cao  
Bằng, Điện Biên, Quảng Bình, Kiên Giang).  
Tài liệu tham khảo  
1. Ian Metcalfe. Palaeozoic-Mesozoic history of SE  
Asia. The SE Asian Gateway: History and Tectonics of the  
Australia-Asia Collision. 2011; 355: p. 7 - 35.  
2. Nguyễn Thị Dậu và nnk. Đánh giá tiềm năng bể  
Sông Hồng thuộc Dự án: “Đánh giá tiềm năng dầu khí trên  
vùng biển và thềm lục địa Việt Nam. Tập đoàn Dầu khí Việt  
Nam. 2012.  
3. L.H.Nielsen, H.I.Petersen, N.D.Thai, N.A.Duc,  
M.B.W.Fyhn, L.O.Boldreel, H.A.Tuan, S.Lindström, L.V.Hien.  
A Middle-Upper Miocene fluvial-lacustrine rift sequence in  
the Song Ba rift, Vietnam: An analogue to oil-prone, small-  
scale continental rift basins. Petroleum Geoscience. 2007;  
13: p. 145 - 168.  
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy sự tương đồng của  
các tổ hợp hóa thạch trong các giếng khoan SH1, SH2,  
SH3 và có thể liên kết với các khu vực lân cận. Tuy nhiên,  
trong các giếng khoan SH2, SH3, tổ hợp hóa thạch không  
phong phú, chủ yếu là giống Nodosinelloides, Pachyphloia,  
Geinitzina, Rectoglandulina, Palaeotextularia và mảnh hóa  
thạch thuộc phụ họ Boultoniinae (Skinner, 1954) thường  
phong phú trong khoảng tuổi Permian (Hình 8 (1 - 3), 9,  
10 và 11). So sánh với các nghiên cứu trong khu vực lô  
102, 106, 107 thì tổ hợp hóa thạch trùng lỗ được tìm thấy  
trong các giếng khoan SH1, SH2 và SH3 là trẻ nhất trong  
Paleozoic, trong khi các tổ hợp hóa thạch trùng lỗ đặc  
trưng Devonian - Carboniferous được tìm thấy trong các  
giếng khoan lân cận: HR, HRN, PL, HL và DS [14, 15].  
4. ĐặngTrần Huyên. Địa tầng các trầm tích Phanerozoi  
ở Đông Bắc Bộ. Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản.  
2007.  
5. Đoàn Nhật Trưởng. Atlas cổ sinh vật Việt Nam (Tập  
Trùng lỗ). Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản. 2012.  
6. Daniel Vachard. New SEM obdervations of  
Keriothecal walls: Implications for the evolution of Fusulinid.  
Journal of Foraminiferal Research. 2004; 34(3): p. 232 - 242.  
4. Kết luận  
7. Alfred R.Loeblich, Helen Tappan. Foraminifera  
genera and their classification. Journal of Foraminiferal  
Research. 1988; 18(3): p. 271 - 274.  
Các thành tạo móng đá vôi trong khoảng độ sâu khoan  
nghiên cứu ít bị biến đổi, chủ yếu là đá vôi packstone,  
wackestone và mudstone. Đá vôi chứa phong phú tổ hợp  
hóa thạch trùng lỗ với 24 giống và loài được xác định. Các  
tổ hợp này đặc trưng cho tuổi Permian giữa - muộn trong  
khu vực nghiên cứu. Trong đó, sự hiện diện phong phú của  
thượng họ Fusulinacea với đặc điểm vách ngăn có uốn nếp  
mạnh và cấu trúc tường vỏ kiểu keriotheca mà tiêu biểu là  
họ Schwagerinidae. Tổ hợp này được ghi nhận là trẻ nhất  
trong tất cả các giếng khoan được nghiên cứu của Lô 106  
và khu vực lân cận. Ngoài ra, thượng họ Fusulinacae còn  
phân bố chủ yếu trong các khối đá vôi khu vực Đông Bắc  
Việt Nam và các khu vực lân cận phía Nam Trung Hoa.  
8. J.R.Groves. Suborder Lagenide and other smaller  
foraminifers form uppermost Pennysylvanian-lower Permi  
rocks of Kansas and Oklahoma. Micropaleontology. 2000;  
46(4): p. 285 - 326.  
9. Haijun Song, Jin-Nan Tong, Ke-Xin Zhang, Qin-Xian  
Wang, ZHong-Qiang Chen. Foraminiferal survivors from  
the Permian-Triassic mass extinction in the Meishan section,  
South China. Palaeoworld. 2007; 16: p. 105 - 119.  
10. Jérémie Gaillot, Daniel Vachart, Thomas Galfetti,  
Rossana Martini. New latest Permian foraminifers from Laren  
(Guangxi Province, South China): Palaeobiogeographic  
implications. Geobios. 2009; 42(2): p. 141 - 168.  
Thành phần khoáng vật calcite chiếm hàm lượng phổ  
biến trong đá vôi và ít hơn là dolomite, hiếm siderite. Đá  
vôi trải qua quá trình biến đổi sau trầm tích do bị tác động  
bởi sự nén ép, hoạt động thủy nhiệt và sự xâm nhập của  
các đai mạch silicite tạo nên các dạng lỗ rỗng nứt nẻ, lỗ  
rỗng hòa tan và lỗ rỗng giữa các khoáng dolomite. Trong  
đó, lỗ rỗng dạng nứt nẻ là chủ yếu nhưng bị lấp đầy bởi  
các khoáng vật thứ sinh: calcite và dolomite, điều này làm  
hạn chế khả năng chứa của đá.  
11. ZHong-Qiang Chen, Annette D.George, W-R.  
Yang. Effects of Middle-Late Permian sea-level changes and  
mass extinction on the formation of the Tieqiao skeletal  
mound in the Laibin area, South China. Australian Journal  
of Earth Sciences. 2009; 56(6): p. 745 - 763.  
12. Hamed Yarahmadzahi, Daniel Vachard, Bahareh.  
Dibadin. Smaller foraminifers from the lower permian  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2020  
30  
PETROVIETNAM  
emarat formation, east of Firuzkuh (Central Alborz, Iran).  
Research in Paleontology and Stratigraphy. 2016; 122(3):  
p. 103 - 118.  
18. M.Soloman, R.Green. A chart for designing modal  
analysis by point counting. Geologische Rundsch. 1966; 55:  
p. 844 - 848.  
13. Ursula Leppig. Codonofusiella (Fusulinidae):  
Shell architecture and its functional meaning. Marine  
Micropaleontology. 1995; 26(1 - 4): p. 461 - 467.  
19. M.E.Tucker. Shallow-marine carbonate facies and  
facies models. Geological Society. 1985; 18: p. 147 - 169.  
20. Marcelle K.Boudagher-Fadel. Evolution and  
geological significance of larger benthic foraminifera.  
Developments in Palaeontology & Stratigraphy. 2008.  
14. Nguyễn Văn Săng Vô, Mai Hoàng Đảm. Xây  
dựng bản ảnh hóa thạch trùng lỗ (foraminifera) trong đá  
carbonate trước Cenozoic ở đảo Cát Bà, Hải Phòng và trong  
một số giếng khoan phía bắc bể Sông Hồng. VPI. 2016.  
21. Peter A.Scholle, Dana S.Ulmer-Scholle. A color  
guide to the petrography of carbonate rocks: Grains, textures,  
porosity, diagenesis. American Association of Petroleum  
Geologist Tulsa. 2003; 77: p. 372 - 375.  
15. PVEP-ITC. Đề án nghiên cứu địa chất, địa vật lý của  
móng carbonate trước Cenozoic ở các lô 102/10 và 106/10.  
2014.  
22. Robert J.Dunham. Classification of carbonate  
rocks according to depositional textures. American  
Association of Petroleum Geologist (AAPG) Memoir. 1962;  
1: p. 108 - 121.  
16. L.van der Plas, A.C.Tobi. A chart for judging the  
reliability of point counting results. American Journal of  
Science. 1965; 263: p. 87 - 90.  
17. Liêu Kim Phượng, Bùi Thị Luận, Vu Thị Tuyền.  
Nghiên cứu thạch học và sự biến đổi sau trầm tích của đá  
móng carbonate tuổi Paleozoic ở phía Tây Bắc bể Sông  
Hồng. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam. 2019;  
61(8): trang 1 - 6.  
23. VPI. Petrography report from the 106-YT-2X. 2009.  
24. VPI. Petrography report from the 106/10-HRD-  
1XST. 2016.  
CHARACTERISTIC OF PETROLOGY AND DISTRIBUTION OF LARGER  
BENTHIC FORAMINIFERA OF PERMIAN CARBONATE IN THE SOUTHERN  
PART OF BLOCK 106, SONG HONG BASIN  
Mai Hoang Dam, Vu Thi Tuyen  
Vietnam Petroleum Institute  
Email: dammh@vpi.pvn.vn  
Summary  
The paper presents a detailed stratigraphic study of some wells which drilled through carbonate basement formations by analising  
larger benthic foraminifera assemblages and lithological characteristics of carbonate rock. The results show that the limestone formations  
are mainly packstone, wackestone and mudstone which contain abundant fossilised coincidence characteristic for the Permian period  
(Wuchiapingian - Changhsingian). The petrographic composition of the rock has been less altered so most of the fossil traces are quite  
well preserved, in which the fossil frames were replaced by calcite and dolimite cement. The pores are formed mainly by the compression  
of the blocky carbonate basements and they are filled by calcite, dolomite and silicon due to the influence of magma and hydrothermal  
activities.  
Key words: Foraminifera fossils, carbonate basement, stratigraphy, packstone, wackestone, mudstone.  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2020  
31  
pdf 10 trang yennguyen 16/04/2022 1080
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm thạch học và sự phân bố của trùng lỗ trong đá vôi Permian phía Nam lô 106, bể sông Hồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_thach_hoc_va_su_phan_bo_cua_trung_lo_trong_da_voi_p.pdf