Giáo trình Lọc hóa dầu và công nghệ chế biến dầu

MỤC LỤC  
Đề mục  
Trang  
1
 
2
3
4
5
GIỚI THIỆU VỀ MÔ ĐUN  
Vị trí, ý nghĩa, vai trò mô đun  
Chương trình học về công nghệ lọc hóa dầu gồm những nội dung chính  
sau: công nghệ lọc và chế biến dầu thô, công nghệ chế biến dầu và hóa dầu.  
Nội dung của mô đun Công chế biến dầu bao gồm những lý thuyết cơ bản về  
phân loại dầu thô, phân tách dầu và các quá trình chế biến thứ cấp như  
cracking nhiệt, cracking xúc tác, reforming, các quá trình có sự tham gia của  
hydro, làm sạch dầu và sản phẩm dầu với mục tiêu nhận được các dạng  
nhiên liệu khác nhau và nguyên liệu cho công nghiệp hóa dầu. Đây là những  
kiến thức cơ bản mà kỹ sư và kỹ thuật viên trong lĩnh vực chế biến dầu cần  
được trang bị.  
Mục tiêu của mô đun  
Mô đun nhằm đào tạo cho học viên có đủ kiến thức và kỹ năng để làm  
việc trong các nhà máy chế biến dầu và hiểu các tài liệu kỹ thuật của các quá  
trình chế biến dầu, khí tiếp theo. Học xong đun này học viên được trang bị  
các kiến thức sau:  
Hiểu được tất cả các quá trình trong chế biến dầu  
Điều chế các xúc tác lọc hóa dầu  
Vận hành qui trình công nghệ chưng cất dầu thô, reforming xúc tác,  
cracking xúc tác trong phòng thí nghiệm  
Kiểm tra chất lượng sản phẩm lọc dầu thu được.  
Mục tiêu thực hiện của mô đun  
Học xong mô đun này học viên có khả năng:  
Mô tả lý thuyết về các quá trình chế biến dầu.  
tả vai trò của các sản phẩm từ dầu thô.  
Lựa chọn nguyên liệu, thiết bị cho quá trình lọc dầu.  
Điều chế các xúc tác cho phản ứng cracking, reforming, alkyl hóa,  
isomer hóa, hydrocracking v.v...  
Vận hành theo sơ đcracking, reforming... trong qui mô phòng thí  
nghiệm.  
Vận hành tháp chưng cất dầu thô ở áp suất thường và áp suất chân  
không.  
Kiểm tra chất lượng sản phẩm.  
Thực hiện các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm lọc-hóa dầu  
Nội dung chính/các bài của mô đun  
6
         
Bài 1. Giới thiệu chung  
Bài 2. Phân loại dầu thô  
Bài 3. Phân tách dầu thô  
Bài 4. Quá trình Cracking  
Bài 5. Quá trình Reforming  
Bài 6. Các quá trình chế biến khác  
Bài 7. Tổng hợp các cấu tử cho xăng gốc  
Bài 8. Làm sạch các sản phẩm dầu mỏ  
Bài 9. Các nguyên liệu cho tổng hợp hóa dầu  
Bài 10. Sự tiến bộ trong công nghệ lọc hóa dầu  
CÁC HÌNH THỨC HỌC TẬP CHÍNH TRONG MÔ ĐUN  
Học trên lớp về:  
thuyết cơ bản về các quá trình chế biến dầu.  
Các sản phẩm dầu thu được trong quá trình chế biến dầu.  
Các quá trình lọc dầu và chế biến sơ cấp.  
Các quá trình chế biến thứ cấp trong chế biến dầu.  
Các loại xúc tác sử dụng trong các quá trình chế biến dầu.  
Tự nghiên cứu tài liệu liên quan đến các quá trình chế biến dầu do giáo  
viên hướng dẫn.  
Học tại phòng thí nghiệm Chế biến khí : xem trình diễn và thực hành:  
Điều chế các xúc tác cho phản ứng cracking, reforming, alkyl hóa,  
isomer hóa, hydrocracking v.v... trong phòng thí nghiệm  
Kiểm tra chất lượng sản phẩm trong phòng thí nghiệm.  
- Vận hành theo sơ đcracking, reforming... trong qui mô phòng thí  
nghiệm.  
- Vận hành tháp chưng cất dầu thô ở áp suất thường và áp suất  
chân không trong qui mô phòng thí nghiệm.  
Tham quan các phòng thí nghiệm chuyên ngành chế biến dầu và cơ sở  
chế biến dầu.  
7
 
YÊU CẦU VỀ ĐÁNH GIÁ HOÀN THÀNH MÔ ĐUN  
Nội dung chính/các bài của mô đun  
Sự cần thiết phải có quá trình lọc dầu.  
Đặc điểm của các quá trình lọc dầu.  
Chưng cất dầu thô ở áp suất thường.  
Chưng cất dầu thô ở áp suất chân không.  
Quá trình cracking, reforming, alkyl hóa, isomer hóa, hydrocracking,  
polymer hóa.  
Tổng hợp các cấu tử cho xăng gốc.  
Quá trình làm sạch.  
Kiểm tra các sản phẩm thu được.  
- Sự tiến bộ trong công nghệ lọc hóa dầu.  
Về kiến thức  
Nắm vững lý thuyết về các quá trình chưng cất dầu thô ở áp suất  
thường chưng cất dầu thô ở áp suất chân không.  
Nắm vững lý thuyết về các quá trình chế biến dầu gồm, quá trình  
cracking, reforming, alkyl hóa, isomer hóa, hydrocracking, polymer  
hóa.  
Nắm vững đặc điểm các xúc tác ứng dụng trong từng quá trình.  
Nắm vững thành phần, tính chất và ứng dụng của các sản phẩm từ  
dầu thô.  
Cách lựa chọn nguyên liệu, thiết bị cho quá trình lọc dầu.  
Về kỹ năng  
Điều chế các xúc tác cho phản ứng cracking, reforming, alkyl hóa,  
isomer hóa, hydrocracking.v.v..  
Vận hành theo sơ đcracking, reforming... trong qui mô phòng thí  
nghiệm.  
Vận hành tháp chưng cất dầu thô ở áp suất thường và áp suất chân  
không.  
Phân tích các chỉ tiêu của các sản phẩm dầu.  
Thực hiện các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm lọc-hóa dầu.  
Về thái độ  
Nghiêm túc trong học tập lý thuyết trên lớp.  
Chủ động đọc và nghiên cứu tài liệu ở nhà.  
8
 
Ghi chép đầy đủ các số liệu thực tế khi đi tham quan nhà máy, viết  
thu hoạch và kết hợp với kiến thức sách vở.  
9
BÀI 1 . GIỚI THIỆU CHUNG  
Mã bài: HD C1  
Giới thiệu  
Dầu là hỗn hợp phức tạp gồm các hydrocarbon khác nhau và các chất  
phi hydrocarbon. Sản phẩm từ dâu thô rất đa dạng. Để nhận được các sản  
phẩm đó dầu phải trải qua:  
Các quá trình chế biến sơ cấp.  
Các quá trình chế biến thứ cấp.  
Do đó cần tìm hiểu mục đích của nhà máy lọc dầu và các quá trình diễn  
ra trong đó.  
Mục tiêu thực hiện  
Học xong bài này học viên có khả năng:  
Mô tả mục đích chung của nhà máy lọc dầu.  
Mô tả các quá trình cần thiết trong nhà máy lọc dầu.  
Nội dung chính  
1. Mục đích của lọc dầu.  
2. Nhiệm vụ của nhà máy lọc dầu.  
3. Các quá trình trong nhà máy lọc dầu.  
4. Vai trò của các quá trình chế biến dầu.  
Các hình thức học tập  
Nghe giảng trên lớp.  
Đọc tài liệu.  
Tìm hiểu thực tế về công nghiệp chế biến dầu Việt Nam.  
1. Mục tiêu của lọc dầu  
Dầu thô là hỗn hợp phức tạp chứa các hydrocarbon parafin, naphten và  
hydrocarbon thơm có nhiệt độ sôi khác nhau. Ngoài ra, trong dầu còn chứa  
các hợp chất lưu huỳnh, oxit và nitơ hữu cơ. Để điều chế các sản phẩm dầu  
cần phải tách dầu thô thành các phân đoạn, các nhóm hydrocarbon và thay  
đổi thành phần hóa học của chúng.  
Lựa chọn hướng chế biến dầu và phân loại sản phẩm dầu được xác định  
bởi tính chất hóa lý của dầu thô, trình độ phát triển của công nghệ chế biến  
dầu và nhu cầu sản phẩm dầu. Có các phương án chế biến dầu sau:  
Phương án nhiên liệu.  
Phương án nhiên liệu – dầu nhờn.  
Phương án hóa dầu.  
10  
           
Theo phương án nhiên liệu, dầu được chế biến thành nhiên liệu động cơ  
nhiên liệu đốt lò là chính. Với cùng công suất nhà máy, phương án chế  
biến nhiên liệu có số đơn vị công nghệ ít nhất và đầu tư thấp nhất. Chế biến  
dầu theo phương án nhiên liệu được chia thành chế biến nông và chế biến  
sâu. Chế biến sâu với mục đích có được sản lượng xăng máy bay, xăng ôtô,  
nhiên liệu diesel mùa đông và mùa hè, nhiên liệu phản lực chất lượng cao  
càng nhiều càng tốt. Theo phương án này hiệu suất nhiên liệu đốt lò thấp  
nhất. Như vậy trong chế biến thứ cấp cần lựa chọn các quá trình sao cho từ  
các phân đoạn dầu nặng và cặn dầu (Gudron) điều chế được nhiên liệu động  
cơ nhẹ. Các quá trình này gồm các quá trình xúc tác như cracking, reforming,  
hydrocracking và làm sạch bằng hydro cũng như quá trình nhiệt như cốc hóa.  
Chế biến khí nhà máy theo phương án này với mục đích làm tăng hiệu suất  
xăng chất lượng cao. Trong chế biến nông nhận được nhiều nhiên liệu đốt lò.  
Chế biến dầu theo phương án nhiên liệu – dầu nhờn bên cạnh nhiên liệu  
còn nhận được dầu nhờn. Để sản xuất dầu nhờn thường chọn dầu có hàm  
lượng phân đoạn dầu nhờn cao. Trong trường hợp này để điều chế dầu nhờn  
chất lượng cao yêu cầu số đơn vị công nghệ ít nhất. Phân đoạn dầu nhờn  
(phân đoạn có nhiệt độ sôi trên 350oC), được tách ra khỏi dầu, trước tiên  
được làm sạch bằng dung môi lựa chọn: phenol hoặc phurphurol để loại một  
phần các chất nhựa, sau đó tiến hành loại parafin bằng hỗn hợp  
metyletylketon hoặc axeton với toluen để giảm nhiệt độ đông đặc của dầu  
nhờn. Cuối cùng là xử lý phân đoạn dầu nhờn bằng đất sét đã tẩy trắng.  
Trong thời gian sau này trong công nghệ sản xuất dầu nhờn thường sử  
dụng quá trình làm sạch bằng hydro thay cho làm sạch lựa chọn và xử lý bằng  
đất sét. Bằng phương pháp này nhận được dầu chưng (distilat) gồm dầu nhờn  
công nghiệp nhẹ và trung bình, dầu nhờn máy kéo… Dầu cặn (dầu nhờn máy  
bay, xilanh) được tách ra từ Gudron bằng cách loại nhựa (deasphant) bằng  
propan lỏng. Trong quá trình này nhận được deasphantisat và asphant.  
Deasphantisat được xử lý tiếp bằng dầu cất, còn asphant được chế biến  
thành nhựa đường (bitum) hoặc cốc.  
Phương án hóa dầu bao gồm các quá trình để sản xuất các nhiên liệu  
cho hóa dầu như etylen, propylen, butylen, benzen, toluen, xylen…Càng ngày  
tỉ phần dầu dành cho sản xuất nguyên liệu hóa dầu ngày càng tăng. So với hai  
phương án trên phương án chế biến cho nguyên liệu hóa dầu có sản phẩm đa  
dạng hơn, số đơn vị công nghệ nhiều nhất và đầu tư cao nhất. Trong những  
năm sau này trên thế giới có xu hướng xây dựng các tổ hợp chế biến dầu lớn  
11  
có sử dụng các quá trình hóa dầu. Chế biến dầu theo phương án hóa dầu là  
sự kết hợp phức tạp các modul để bên cạnh điều chế nhiên liệu động cơ chất  
lượng tốt và dầu nhờn còn tổng hợp nguyên liệu (olefin, hydrocarbon thơm,  
parafin mạch thẳng, mạch nhánh…) cho tổng hợp hữu cơ, các quá trình sản  
xuất phân đạm, cao su tổng hợp, chất tẩy rửa, axit béo, phenol, axeton, rượu,  
eter và các hóa chất khác.  
2. Nhiệm vụ của nhà máy lọc dầu  
Việc ứng dụng rộng rãi các động cơ đốt trong, diesel, tuabin khí, tuabin  
phản lực và tuabin chong chóng đã ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của  
công nghiệp dầu và khí. Cung cấp dầu trở thành một trong những vấn đề  
chính trị và kinh tế quan trọng trên thế giới. Một trang đặc biệt trong lịch sử  
phát triển của công nghiệp chế biến dầu trong giai đoạn hiện nay là thiết lập  
và ứng dụng công nghệ tiên tiến chế biến tổng hợp dầu nhiều lưu huỳnh,  
nhựa và parafin cao. Ngành công nghiệp ứng dụng khí thiên nhiên và khí  
đồng hành để sản xuất phân bón hóa học, rượu, polyetylen, polypropylen, cao  
su tổng hợp, sợi tổng hợp, chất dẻo và các hóa chất, vật liệu có giá trị khác  
phát triển mạnh.  
Hiện nay, tuy năng lượng nguyên tử đã được ứng dụng, năng lượng mặt  
trời còn hạn chế thì cân bằng nhiên liệu - năng lượng thế giới do than đá, dầu  
và khí quyết định. Từ những năm 30 của thế kỷ trước nhịp độ phát triển khai  
thác than bắt đầu giảm và thị phần của nó trong sản xuất năng lượng cũng  
giảm, do đó nhiên liệu dầu đã thay thế than đá trong các lĩnh vực chủ đạo của  
công nghiệp và trước tiên là nhiệt điện, vận tải đường sắt, đường thủy.  
Chuyển sang sử dụng nhiên liệu dầu cho phép tăng tải trọng của tàu thủy,  
tăng quảng đường chạy và khiến cho nhiên liệu dầu có ý nghĩa kinh tế - chính  
trị và quốc phòng to lớn.  
Năm 1950 thị phần của than đá trong cân bằng nhiên liệu - năng lượng  
thế giới là 54,2%, đến năm 1965 giảm xuống còn 39%, còn thị phần của dầu  
tăng đến 34% và của khí thiên nhiên 16 ÷ 17% vào năm 1965. Đến năm 2000  
thị phần của than đá trong cân bằng nhiên liệu -năng lượng thế giới chỉ còn là  
23,7%, của dầu là 26,3%, của năng lượng nguyên tử 22,0%. Thị phần khí  
thiên nhiên vẫn tiếp tục tăng và đạt 23,0% trong năm 2000.  
Lượng sản phẩm dầu cơ bản được ứng dụng trong kinh tế quốc dân là  
nhiên liệu và dầu nhờn. Sản phẩm dầu được chia thành các nhóm sau:  
Nhiên liệu.  
Kerosene - dầu thắp sáng.  
12  
 
Dung môi và phụ gia octan cao.  
Dầu nhờn.  
Parafin, cerizin, vazelin.  
Nhựa đường (bitum).  
Các sản phẩm khác.  
Phụ thuộc vào lĩnh vực ứng dụng nhiên liệu được chia thành: 1) nhiên  
liệu động cơ chế hòa khí (xăng máy bay và ôtô, nhiên liệu máy kéo); 2) nhiên  
liệu phản lực; 3) diesel; 4) tuabin khí và 5) nhiên liệu đốt lò. Các phân đoạn  
dầu có nhiệt độ thấp và trung bình (phân đoạn xăng, ligroin và kerosen) cũng  
như khí nén và các sản phẩm nhẹ từ chế biến thứ cấp được dùng cho tổng  
hợp nhiên liệu chế hòa khí. Theo thành phần hóa học dầu nhờn là hỗn hợp  
các parafin, naphten, hydrocarbon thơm phân tử lượng cao và phụ gia nhựa  
và asphanten. Dầu nhờn được điều chế từ các phân đoạn nặng bằng các  
phương pháp khác nhau. Nhựa đường là sản phẩm dầu lỏng có hàm lượng  
nhựa độ nhớt cao hoặc rắn, chúng được điều chế từ cặn nặng trong lọc  
dầu. Các sản phẩm dầu khác gồm axit hữu cơ, cốc, muội và dầu bôi trơn.  
3. Các quá trình trong nhà máy lọc dầu  
Các quá trình chế biến dầu được chia thành chế biến sơ cấp và thứ cấp.  
Chế biến sơ cấp là các quá trình phân chia dầu thành các phân đoạn cất, còn  
chế biến thứ cấp là các quá trình chế biến phá hủy cấu trúc và làm sạch sản  
phẩm dầu. Quá trình phá hủy dùng để thay đổi thành phần hóa học bằng  
cách tác động nhiệt hoặc xúc tác. Nhờ các phương pháp này có thể điều chế  
các sản phẩm dầu có đặc tính cho trước.  
3.1. Quá trình cất phân đoạn dầu  
Trong các nhà máy chế biến dầu hiện đại các quá trình sơ cấp bao gồm  
cất dầu thành các phân đoạn, nghĩa là quá trình chưng cất. Các quá trình  
chưng cất được chia thành bay hơi một lần, bay hơi nhiều lần và dần dần.  
Trong chưng cất bay hơi một lần dầu được nung nóng đến nhiệt độ xác định  
và thu hồi tất cả các phân đoạn chuyển sang thể hơi.  
Chưng cất bay hơi nhiều lần gồm hai hay nhiều quá trình biến đổi pha  
của dầu. Trong chưng cất bay hơi nhiều lần, trong mỗi quá trình bay hơi hơi  
được tách ra khỏi chất lỏng, chất lỏng lại được nung nóng và hơi lại được tách  
ra khỏi pha lỏng, cứ như vậy dầu được nung nóng với số lần xác định. Thí dụ  
chưng cất bay hơi ba lần, trước tiên dầu được nung nóng đến nhiệt độ cho  
phép thu hồi được phân đoạn xăng nhẹ. Sau đó hỗn hợp đã tách xăng được  
nung nóng đến nhiệt độ cao hơn và cất được phân đoạn có nhiệt độ sôi cao  
13  
   
hơn, thí dụ 350oC (phân đoạn xăng nhẹ, nhiên liệu phản lực và diesel). Cặn  
chưng cất là mazut, được chưng cất tiếp dưới chân không thu hồi được dầu  
bôi nhờn, còn cặn còn lại là nhựa (gudron). Nói cách khác, dầu thô được nung  
nóng ba lần, trong mỗi lần tách pha hơi ra khỏi pha lỏng. Các pha hơi và lỏng  
tạo thành được tinh cất tiếp trong tháp cất.  
Chưng cất dầu bay hơi dần dần được ứng dụng chủ yếu trong phòng thí  
nghiệm trong thiết bị chưng cất làm việc theo chu kỳ và có công suất thấp.  
Nếu trong mỗi lần bay hơi một lần sự thay đổi trạng thái pha của dầu rất ít  
(nghĩa hơi được tạo thành liên tục được lấy ra khỏi pha lỏng), và số lần quá  
trình bay hơi một lần là vô cùng lớn thì quá trình bay hơi như vậy được gọi là  
bay hơi dần.  
Trong chưng cất bay hơi một lần pha hơi tạo thành tồn tại cân bằng với  
pha lỏng và ở nhiệt độ xác định nào đó nó được tách ra. Nhiệt độ pha hơi và  
pha lỏng là như nhau. Độ tinh khiết phân tách trong chưng cất bay hơi một lần  
kém nhất so với chưng cất bay hơi nhiều lần và chưng cất bay hơi dần.  
Chưng cất dầu trong công nghiệp thường tiến hành trong vùng nhiệt độ  
360 ÷ 380oC. Ở nhiệt độ cao hơn diễn ra phân hủy hydrocarbon (cracking).  
Trong trường hợp này cracking là không mong muốn do olefin tạo thành làm  
giảm mạnh chất lượng sản phẩm dầu. Mức phân hủy hydrocarbon tăng khi  
nhiệt độ tăng. Để tránh phân hủy, chưng cất dầu cần tiến hành ở áp suất thấp  
(trong chân không), nhờ đó tách được phần chưng (distilat) có nhiệt độ sôi  
500oC ở áp suất thường ra khỏi mazut ngay ở 400 ÷ 420oC. Áp suất dư trong  
các tháp công nghiệp là 10 ÷ 60 mmHg. Trong một số tháp tinh cất để tăng thu  
hồi phần chưng thường sử dụng hơi nước quá nhiệt nạp vào dưới tháp.  
Như vậy, để lọc dầu người ta xây dựng nhà máy chưng cất dầu khí  
quyển và chân không. Ứng dụng chân không để giảm nhiệt độ chưng cất  
xuống 130 ÷ 140oC để tránh phân hủy hợp chất nitơ hữu cơ thành hydro  
sulfua gây ăn mòn.  
Chưng cất thứ cấp được ứng dụng rộng rãi để tách isomer - là phụ gia  
octan cao cho xăng, từ phân đoạn xăng. Ngày nay những công nghệ như vậy  
được gọi là tinh cất, được sử dụng để tách isomer của parafin, etylbenzen và  
xylen là nguyên liệu cho tổng hợp hữu cơ. Nhu cầu về các hydrocarbon đơn  
chất trong công nghiệp dầu đòi hỏi tiếp tục xử lý và hoàn thiện các tháp tinh  
cất và siêu tinh cất có hàng chục, hàng trăm mâm. Trong các nhà máy hiện  
đại ứng dụng chưng cất thứ cấp xăng với mục đích điều chế nguyên liệu cho  
reforming xúc tác, là quá trình sản xuất phụ gia octan cao cho xăng, hoặc để  
14  
điều chế hydrocarbon thơm – benzen, toluen, xylen. Đối với quá trình thơm  
hóa xúc tác từ xăng người ta tách được phân đoạn benzen (62 ÷ 85oC), toluen  
(85 ÷ 120oC) và xylen (120 ÷ 140oC).  
3.2. Các quá trình chế biến thứ cấp  
Các quá trình chế biến hóa học dầu thô cho phép tăng hiệu suất sản  
phẩm sáng (quá trình cốc hóa, cracking xúc tác, hydrocracking); tăng chất  
lượng sản phẩm (chủ yếu là xăng); sử dụng phân đoạn reforming xúc tác,  
cracking xúc tác, đồng phân hóa, alkyl hóa làm thành phần cho nhiên liệu và  
các monomer cho tổng hợp hóa dầu như hydrocarbon thơm và olefin (benzen,  
toluen, xylen, etylen, propylen…).  
Cracking nhiệt dầu thô. Sản phẩm của quá trình cracking nhiệt là nhiên  
liệu đốt lò. Nguyên liệu của quá trình này là mazut nặng và cặn nhựa trung  
gian. Độ sâu chuyển hóa cặn nặng bị hạn chế do tạo cốc, cốc tạo thành đáng  
kể khi hiệu suất xăng là 3-7%. Xăng cracking nhẹ có trị số octan không cao  
(60 ÷ 65 theo phương pháp môtơ), không bền và cần phải thêm phụ gia chống  
oxy hóa. Khí cracking nhiệt chứa 15 ÷ 25% hydrocarbon không no và thuộc  
loại khí khô vì có chứa nhiều metan và phân đoạn etan-etylen. Hiệu suất khí 2  
÷ 5% so với nguyên liệu.  
Nhiệt phân dầu thô. Cracking nhiệt dầu thô ở nhiệt độ cao có tên gọi là  
nhiệt phân (pyrolysis), được ứng dụng để thu olefin khí như etylen, propylen  
và butadien. Quá trình nhiệt phân phổ biến nhất thường được tiến hành trong  
lò dạng ống. Nguyên liệu là các hydrocarbon no pha khí (etan, propan, n-  
butan) và phân đoạn xăng có trị số octan thấp từ quá trình chưng cất trực tiếp,  
sản phẩn reforming, phân đoạn nhẹ của khí ngưng tụ sẽ cho hiệu suất olefin  
cao nhất mà vẫn hạn chế được tạo cốc. Nguyên liệu nhiệt phân cũng có thể là  
các sản phẩm dầu nặng như phân đoạn kerosen - gasoil. Olefin là sản phẩm  
chính của quá trình nhiệt phân, các quá trình cracking nhiệt và tạo cốc cũng  
sinh ra olefin nhưng ít hơn so với nhiệt phân.  
Cốc hóa dầu nặng là quá trình nhiệt với hai mục đích là nhận cốc và tăng  
chất lượng sản phẩm sáng. Nguyên liệu để điều chế cốc là dầu lưu huỳnh  
thấp. Khác với quá trình cracking nhiệt cặn dầu nặng dưới áp suất cao, trong  
đó cốc là sản phẩm không mong muốn vì nó hạn chế độ sâu chuyển hóa của  
cracking, cốc hóa cho phép tập trung phần lớn cacbon nguyên liệu vào cốc,  
nhờ đó nhận được khí và sản phẩm distilat dầu trong phân tử của chúng giàu  
hydro hơn nguyên liệu. Nguyên liệu của quá trình cốc hóa thường là cặn dầu  
phân tử lượng lớn - gudron, cặn của quá trình cracking nhiệt cặn nhựa còn lại  
15  
 
trong quá trình nhiệt phân, asphaten từ quá trình loại asphaten và  
hydrocarbon thơm cao (gasoil nặng của quá trình cracking nhiệt và cracking  
xúc tác). Các nguyên liệu này cho cốc sản phẩm chất lượng cao. Cốc dầu mỏ  
được sử dụng nhiều trong sản xuất thép, kim loại màu, một số sản phẩm hóa  
học, sản xuất than chì, làm chất khử trong côngnghiệp.  
Cracking xúc tác là quá trình hiện đại, chuyển hóa các phân đoạn dầu  
nhiệt độ sôi cao thành các thành phần gốc của xăng máy bay và xăng ôtô chất  
lượng cao (MON = 76 ÷ 82); phân đoạn distilat trung bình - Gasoil và khí có  
hàm lượng phân đoạn butan - butadien cao được ứng dụng để điều chế phụ  
gia octan cao cho xăng. Nguyên liệu điển hình cho cracking xúc tác là gasoil  
chân không, gasoil của quá trình cốc hóa, cặn dầu loại asphanten. Hiệu suất  
xăng trong cracking xúc tác với xúc tác alumino - silicat vô định hình là 27 ÷  
35%, với alumino - silicat tinh thể là 40 ÷ 50%.  
Các quá trình hydro hóa gồm làm sạch bằng hydro và hydrocracking.  
Quá trình làm sạch bằng hydro là một trong những quá trình phổ biến trong  
công nghiệp chế biến dầu, đặc biệt là dầu lưu huỳnh và nitơ cao. Mục đích  
của quá trình này là giảm hàm lượng hợp chất lưu huỳnh, nitơ và hợp chất cơ  
kim, các hydrocarbon không no và hydro hóa hydrocarbon thơm. Trong trường  
hợp thứ nhất, quá trình dựa vào sự phân hủy các thành phần không mong  
muốn thành lưu huỳnh và nitơ nguyên tố và nhận được các sản phẩm dầu  
chất lượng cao hơn. Các chất không mong muốn, thí dụ, đối với nhiên liệu  
phản lực và diesel là hợp chất lưu huỳnh, hydrocarbon thơm và parafin mạch  
thẳng có nhiệt độ đóng rắn cao; còn đối với dầu nhờn là nhựa, hydrocarbon  
thơm đa vòng có mạch nhánh ngắn và hợp chất lưu huỳnh. Quá trình được  
tiến hành ở áp suất hydro ôn hòa (30 ÷ 50 atm) và nhiệt độ 360 ÷ 420oC.  
Quá trình làm sạch bằng hydro được tiến hành với xăng, nhiên liệu phản  
lực và diesel, nhiên liệu cracking xúc tác. Quá trình làm sạch sâu bằng hydro  
nhiên liệu diesel được tiến hành ở áp suất 100 ÷ 150 atm, với mục đích là  
giảm hàm lượng hydrocarbon thơm trong distilat diesel của quá trình cracking  
xúc tác để làm tăng trị số cetan. Trong quá trình này hydrocarbon thơm của  
nhiên liệu chuyển hóa thành naphten và parafin và trị số cetan có thể tăng 20  
÷ 25 đơn vị. Xúc tác thường được sử dụng cho làm sạch bằng hydro là nhôm  
coban - molibden và nhôm niken - molibden.  
Loại asphanten nguyên liệu cặn bằng dung môi. Trong dầu thô lưu huỳnh  
và nhiều lưu huỳnh có chứa lượng đáng kể các chất asphanten - nhựa. Các  
chất này làm giảm chất lượng nhiên liệu động cơ và nhiên liệu lò hơi, do đó  
16  
cần được loại trong quá trình chế biến sâu cặn dầu. Asphanten đặc biệt không  
mong muốn do nó chuyển hóa 70% thành cốc. Ngoài ra trong asphanten còn  
chứa nhiều muối, chất tạo tro, hợp chất kim loại nặng ăn mòn, hợp chất nitơ,  
lưu huỳnh và oxy. Loại asphanten bằng propan hoặc butan cho hiệu suất sản  
phẩm dầu loại asphanten thấp. Loại asphanten bằng xăng được ứng dụng  
rộng rãi.  
Loại hydrocarbon parafin. Mục đích của quá trình loại parafin là loại bỏ  
các parafin rắn ra khỏi rafinat sau khi làm sạch lựa chọn, hấp phụ và làm sạch  
axit - bazơ hoặc axit tiếp xúc. Thông số cơ bản xác định độ sâu loại bỏ parafin  
là nhiệt độ đông đặc của sản phẩm. Loại parafin thực hiện bằng cách kết tinh  
dung dịch dầu với dung môi như propan, naphten, hợp chất hydrocarbon chứa  
clo và phổ biến nhất là hỗn hợp xeton với toluen. Quá trình loại parafin gồm  
những giai đoạn sau: hòa tan nguyên liệu và xử lý nhiệt dung dịch; làm lạnh  
dung dịch đến nhiệt độ để loại bỏ phần lớn hydrocarbon thơm; lọc; chưng cất  
dung môi ra khỏi cặn trên lọc và ra khỏi sản phẩm loại parafin.  
Làm sạch và phân tách dầu bằng chất hấp phụ. Chất hấp phụ được sử  
dụng là đất sét tự nhiên, sét hoạt hóa, alumino - silicat nhân tạo, gel nhôm,  
oxit nhôm hoạt hóa, than và các chất có khả năng hấp phụ cao khác. Zeolit là  
chất hấp phụ được quan tâm, có khả năng phân tách các chất theo kích thước  
phân tử của chúng. Khả năng hấp phụ n-parafin của zeolit được ứng  
dụng để thu hồi n-parafin từ dầu parafin và tinh chế xăng cất trực tiếp và xăng  
reforming.  
Cracking xúc tác cho phép nhận xăng trị số octan cao, còn reforming xúc  
tác làm tăng trị số octan của xăng và tổng hợp các hydrocarbon thơm như  
benzen, toluen, xylen và etylbenzen. Reforming dưới áp suất thấp và kết hợp  
với chưng tách hoặc chiết bằng dung môi cho phép tổng hợp các hydrocarbon  
thơm.  
Alkyl hóa là quá trình được ứng dụng để điều chế thành phần xăng máy  
bay và ôtô chất lượng cao. Trong quá trình này parafin kết hợp với olefin để  
tạo thành hydrocarbon parafin có nhiệt độ sôi cao. Trước đây trong công  
nghiệp quá trình alkyl hóa chỉ giới hạn trong quá trình alkyl hóa isobutan bằng  
butilen với xúc tác là axit sulfuric và floric. Thời gian sau này trong điều kiện  
công nghiệp còn tiến hành alkyl hóa isobutan không chỉ bằng butilen mà cả  
bằng etylen, propylen, amilen và hỗn hợp các olefin này. Vai trò của alkyl hóa  
trong chế biến dầu tăng vì nhu cầu xăng ôtô octan cao tăng.  
17  
Đồng phân hóa là quá trình chuyển hóa các hydrocarbon n-parafin  
trị số octan thấp, chủ yếu là C5, C6 và hỗn hợp của chúng thành các  
isoparafin tương ứng có chỉ số octan cao. Trong công nghiệp có thể nhận  
được 97 ÷ 99,7% thể tích isoparafin. Isomer hóa diễn ra trong môi trường có  
hydro.  
Polymer hóa là quá trình chuyển hóa propylen và butylen thành sản  
phẩm oligomer, được sử dụng làm thành phần cho xăng ôtô hoặc làm nguyên  
liệu cho các quá trình hóa dầu. Phụ thuộc vào nguyên liệu, xúc tác và chế độ  
công nghệ khối lượng sản phẩm thay đổi trong khoảng rộng.  
4. Vai trò của quá trình chế biến dầu  
Lựa chọn công nghệ chưng cất dầu (lọc dầu) phải đáp ứng chủng loại  
sản phẩm từ nguồn nguyên liệu xác định với chỉ số kinh tế cao nhất. Trước  
đây người ta sử dụng hệ thống chế biến dầu sơ cấp công nghiệp đơn giản, đó  
là công nghệ chưng cất khí quyển (AR). Từ dầu thô không ổn định nhận được  
các sản phẩm sáng như xăng (nhiệt độ sôi 62 ÷ 130oC), kerosen (dầu hỏa)  
(nhiệt độ sôi 140 ÷ 210oC), nhiên liệu diesel (nhiệt độ sôi 210 ÷ 340oC). Sau  
chưng cất khí quyển còn lại cặn khí quyển (mazut có nhiệt độ sôi trên 350oC)  
được đưa đi chưng cất trong chân không trong cụm công nghệ chưng cất khí  
quyển-chân không (AVR). Từ chưng cất chân không nhận được các phân  
đoạn dầu nhờn và cặn nặng (gudron). Ngày nay ngoài hoàn thiện công nghệ  
chế biến sơ cấp còn bổ sung thêm các khối phụ trợ như loại muối bằng điện,  
ổn định xăng… Từ các bộ phận công nghệ riêng lẻ người ta liên kết lại thành  
tổ hợp công nghệ chưng cất khí quyển - chân không (AVR). Tổ hợp AVR kết  
hợp chặt chẽ, giảm số nhân công lao động, giảm thể tích chứa và điều hành  
thống nhất.  
Quá trình chế biến thứ cấp có vai trò chủ đạo trong các nhà máy chế biến  
dầu hiện đại. Tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm là những nhiệm vụ  
của ngành công nghiệp chế biến dầu. Giải quyết các nhiệm vụ này trong điều  
kiện tỉ phần dầu chứa lưu huỳnh hoặc lưu huỳnh cao ngày càng tăng và dầu  
giàu parafin đòi hỏi thay đổi công nghệ chế biến dầu. Trong đó các quá trình  
thứ cấp, đặc biệt là các quá trình xúc tác như cracking, reforming, làm sạch  
bằng hydro, alkyl hóa, đồng phân hóa và đôi khi cả hydrocracking đóng vai trò  
quan trọng. Sự cần thiết của những quá trình này một mặt do nhu cầu sản  
phẩm dầu ngày càng tăng và mặt khác là nhu cầu sản phẩm sáng và nguyên  
liệu cho hóa dầu tăng. Từ phần lớn các dầu thô không thể sản xuất xăng ôtô  
chất lượng cao nếu không ứng dụng reforming và cracking xúc tác do xăng  
18  
 
nhận được từ chưng cất sơ cấp có trị số octan thấp. Thí dụ, từ chưng cất dầu  
Tactar (Nga) nhận được các loại xăng sau:  
Xăng có nhiệt độ sôi đến 120oC, trị số octan MON = 56,4  
Xăng có nhiệt độ sôi đến 150oC, trị số octan MON = 50,4  
Xăng có nhiệt độ sôi đến 200oC, trị số octan MON = 41,6.  
Hiệu suất xăng tương ứng là 9,4; 14,1 và 22,4% so với dầu thô. Nếu  
thêm cụm cốc hóa, cracking xúc tác, reforming xúc tác, alkyl hóa isobutan  
bằng butylen và polymer hóa phân đoạn propylen khí cracking có thể nhận  
được xăng có nhiệt độ sôi đến 205oC, trị số octan MON = 72 và hiệu suất  
xăng đạt 30,5%. Ngoài ra còn nhận được khoảng 6% khí hydrocarbon có thể  
được sử dụng làm nguyên liệu cho công nghiệp hóa chất.  
Chế biến dầu, khí bằng phương pháp hóa học còn có ý nghĩa đặc biệt  
quan trọng khi công nghiệp hóa trên cơ sở nguyên liệu dầu ngày càng tăng.  
Các quá trình này gồm sản xuất etanol, polyetylen, cao su tổng hợp, sợi tổng  
hợp, chất tẩy rửa…. Tất cả các sản phẩm này đều được tổng hợp từ các  
hydrocarbon thuộc hai nhóm không no và thơm. Hydrocarbon không no chỉ  
được điều chế trong các quá trình chế biến thứ cấp như cracking.  
Hydrocarbon thơm có trong các phân đoạn chưng cất trực tiếp với khối lượng  
hạn chế; trong sản phẩm cracking nhiệt, cracking xúc tác và đặc biệt trong  
reforming xúc tác.  
Trong hình 1.1 là sơ đồ công nghệ chế biến dầu tổng hợp trong các nhà  
máy hiện đại. Trong đó, dầu sau khi xử lý và làm khan, loại muối trong cụm  
loại muối bằng điện (EDS) được đưa đi chưng cất. Trong sơ đồ có reforming  
xúc tác để sản xuất xăng octan cao, làm sạch bằng hydro và cất phân đoạn  
khí.  
19  
Cụm hydro-đồng phân hóa nhiên liệu diesel cho phép bên cạnh loại lưu  
huỳnh còn thực hiện đồng phân hóa các parafin để giảm nhiệt độ đông đặc.  
Để sản xuất xăng A93 trong sơ đồ còn có quá trình hydrocracking phân đoạn  
xăng nặng và thêm vào xăng những hydrocarbon nhánh nhận được trong  
chưng cất phân đoạn propan - butan của cụm cất trực tiếp. Trong sơ đồ cũng  
có cụm tổng hợp các hydrocarbon thơm. Để chuẩn bị nguyên liệu cho nhiệt  
phân trong sơ đồ có cụm loại hydrocarbon mạch thẳng trong rafinat còn lại  
sau khi tách hydrocarbon thơm từ sản phẩm. Trong sơ đồ còn có cụm chưng  
cất mazut dưới chân không. Để thực hiện quá trình hydrocracking trong công  
nghiệp cần đưa thêm vào sơ đồ cụm loại lưu huỳnh bằng hydro (HDS) đối với  
mazut. Để cung cấp hydro cho cụm hydrocracking trong nhà máy có cụm sản  
xuất hydro bằng cách chuyển hóa khí hydrocarbon của nhà máy dầu và tách  
hydro ra khỏi hỗn hợp ở nhiệt độ thấp.  
CÂU HỎI  
Câu 1. Hãy trình bày đặc điểm của các phương án chế biến dầu  
Câu 2. Hãy trình bày các quá trình cất phân đoạn dầu  
Câu 3. Hãy trình bày các quá trình chế biến thứ cấp dầu thô  
Câu 4. Nhiệm vụ của các nhà máy lọc và chế biến dầu.  
20  
 
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 303 trang yennguyen 16/04/2022 1540
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Lọc hóa dầu và công nghệ chế biến dầu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_loc_hoa_dau_va_cong_nghe_che_bien_dau.pdf