Điều kiện và các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành, phân bố hydrate khí trong tự nhiên

PETROVIETNAM  
ĐIU KIN VÀ CÁC YU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SHÌNH THÀNH,  
PHÂN BHYDRATE KHÍ TRONG TNHIÊN  
TS. Lê Văn Bình  
Đại học Mỏ - Địa chất  
Email: lebinh55@yahoo.com  
Tóm tắt  
Hydrate khí là nguồn năng lượng tự nhiên sạch rất có tiềm năng trong tương lai. Theo dự báo trữ lượng khí  
hydrocarbon chứa trong hydrate khí tự nhiên đạt 7,6 x 1018m3. Do chỉ được thành tạo trong điều kiện nhiệt độ thấp  
và áp suất cao nên 98% lượng khí hydrate nằm dưới đáy thềm lục địa và hồ, chỉ 2% ở vùng băng vĩnh cửu trên lục địa.  
Trong đó, Canada, Biển Đen, hồ Baikal… là các khu vực có trữ lượng hydrate khí lớn nhất thế giới. Bài báo giới thiệu  
các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phân bố hydrate khí trong tự nhiên; trữ lượng và phân bố trữ lượng khí  
hydrate trên thế giới.  
Từ khóa: Hydrate khí, sự phân bố hydrate khí, trữ lượng khí hydrate trong tự nhiên.  
1. Điều kiện và các yếu tổ ảnh hưởng đến sự hình  
thành, phân bố hydrate khí  
Trong hóa học, liên kết giữa các nguyên tử có 2 thông  
số đặc trưng là chiều dài liên kết l và góc α giữa hai liên  
kết. Trong liên kết chuẩn, chiều dài liên kết hydro và góc  
giữa chúng có giá trị chuẩn: l ≈ 2,7Ao α ≈ 109,5o phân  
tử sẽ bền vững nhất. Độ dài l và góc liên kết α càng khác  
với giá trị chuẩn thì càng hao phí năng lượng để tạo nên  
cấu trúc và cấu trúc càng kém bền vững. Tuy nhiên, liên  
kết hydro là “liên kết mềm” (độ dài và góc liên kết có thể  
thay đổi ở mức độ tương đối) nên khi kết tinh các phân tử  
nước có thể kết hợp với nhau để tạo thành các tinh thể là  
những khối đa diện khác nhau về số mặt, hình dạng mặt,  
số cạnh và tương ứng sẽ chứa các khoảng trống khác  
nhau về kích thước (Hình 2). Đây là nguyên nhân chính  
dẫn đến sự đa dạng về cấu trúc tinh thể nói riêng cũng  
như tổ hợp các tinh thể tạo nên cấu trúc hydrate khí nói  
chung [9].  
1.1. Điều kiện hình thành hydrate khí  
1.1.1. Nước chứa khí hòa tan ở mức độ nhất định  
Kết quả nghiên cứu lý hóa phân tử cho thấy: các  
nguyên tử hydro và oxy trong phân tử nước kết hợp và  
phân bố gần như nằm ở đỉnh của tam giác cân. Góc tại  
đỉnh có nguyên tử oxy là 109,5o, hai góc còn lại là 37,5o  
(Hình 1). Đôi điện tử dùng chung của nguyên tử hydro  
và oxy (trong liên kết đồng hóa trị) bị hút lệch về phía  
nguyên tử oxy tạo nên tính phân cực cho phân tử. Cực  
âm về phía nguyên tử oxy, cực dương về phía nguyên  
tử hydro. Hydro trong các phân tử nước có sự “gắn bó”  
chặt chẽ với các nguyên tử oxy tạo ra mối liên kết không  
chỉ với nguyên tử oxy trong phân tử (liên kết đồng hóa  
trị) mà còn tạo mối liên kết tạm thời với các nguyên tử  
oxy của các phân tử nước khác, thậm chí nó có thể liên  
kết với oxy trong phân tử khoáng chất tạo đá. Do vậy,  
các phân tử nước trong tự nhiên luônxoaytrong không  
gian, sao cho mỗi nguyên tử hydro nằm giữa 2 nguyên  
tử oxy. Liên kết giữa 2 nguyên tử oxy của 2 phân tử nước  
gần kề, thông qua nguyên tử hydro trung gian tạo ra  
mối liên kết hydro giúp cho H2O tồn tại trong trạng thái  
lỏng ở điều kiện tiêu chuẩn, tạo ra lớp nước liên kết bao  
quanh mặt đá. Do đặc điểm trên, nước có các tính chất  
vật lý khác so với hydrua khác nói riêng và các chất lỏng  
nói chung như: sức căng mặt ngoài lớn, nhiệt dung cao  
nhất ở điều kiện tiêu chuẩn, khả năng truyền nhiệt lớn  
nhất, khả năng hòa tan rất lớn, hằng số điện môi lớn,  
nhiệt hóa hơi cao.  
Công thức chung của hydrate khí là:  
M.nH2O  
Trong đó:  
M: Phân tử khí tham gia tạo hydrate;  
n: Chỉ số hydrate khí (số phân tử nước tương ứng với  
1 phân tử khí, thường dao động trong khoảng n = 5,75  
- 17). Ví dụ: quan sát thực tế chỉ ra các khí hydrocarbon  
tạo hydrate khí với tỷ lệ: CH4 x 7H2O; C2H6 x 12H2O; C3H8 x  
17H2O [1].  
Từ công thức chung có thể nhận thấy để tạo  
thành hydrate khí phải cần một lượng lớn nước. Theo  
V.I.Ermonkin, khi trong khoang trống của đá không đủ  
lượng nước cần thiết, chỉ một phần khí nằm trong cấu trúc  
hydrate, phần còn lại vẫn tồn tại trong trạng thái khí “tự  
DU KHÍ - S3/2015  
67  
DU KHÍ THGII  
do. Trong khoang trống tồn tại đồng thời 2 pha: pha rắn  
là hydrate khí nằm bao quanh, pha khí nằm giữa khoang  
trống [5]. Khi lượng nước trong tích tụ vừa đủ, toàn bộ khí  
tham gia vào thành phần hydrate khí, khi nước thừa sẽ có  
một số ngăn trống không được lấp đầy bởi phân tử khí.  
các điều kiện hình thành hydrate khí bền vững là nước  
phải có chứa lượng khí hòa tan nhất định.  
1.1.2. Nhiệt độ thấp  
Nước chỉ kết tinh ở nhiệt độ thấp. Ở điều kiện áp suất  
tiêu chuẩn trên mặt đất (P = 1at) nước kết tinh ở nhiệt độ  
4oC song trong điều kiện áp suất cao, khi chứa nhiều khí  
hòa tan, nước có thể kết tinh ở nhiệt độ cao hơn nữa. Tuy  
nhiên, phần lớn khí tự nhiên có nhiệt độ tới hạn (Hình 3).  
Nếu các khoang trống trong tinh thể hydrate không  
được lấp đầy bởi các phân tử khí thì tinh thể hydrate không  
bền về nhiệt động, dễ bị phá hủy. Điều kiện tối thiểu để  
cấu trúc ổn định là > 70% tổng số ngăn phải được lấp đầy  
(tỷ lệ các ngăn trống được lấp đầy càng cao thì hệ hydrate  
khí càng bền vững). Điều này giải thích vì sao một trong  
Nhiệt độ tới hạn tạo hydrate của một loại khí - là nhiệt  
độ cao nhất còn có thể tạo ra hydrate của khí đó. Nếu nhiệt  
độ môi trường vượt quá giá trị tới hạn thì dù có tăng áp suất  
lên mức rất cao cũng không thể tạo ra hydrate khí.  
Hydro  
Điện tử  
Các khí có kích thước phân tử nhỏ CH4, O2, N2, Ar, Kr, Xe  
(d < 0,4n.m) thường không có nhiệt độ tới hạn và gần như  
chỉ tham gia lấp đầy các khoảng trống nhỏ tạo hydrate  
khí hệ cấu trúc CS-I (bền vững nhất là hệ cấu trúc chứa  
khoảng trống có kích thước tương đồng với kích thước  
phân tử khí nằm trong đó). Trong tự nhiên, khí chứa trong  
hydrate khí hệ cấu trúc CS-I chủ yếu là khí methane.  
Oxy  
Các khí có kích thước lớn tham gia tạo hydrate khí các  
hệ cấu trúc CS-II; TS và HS đều có nhiệt độ tới hạn:  
- С3Н8 - Tt.h = 8,8oC dưới áp suất P ≈ 4аt;  
- C2H6 - Tt.h =14,8oC dưới áp suất P = 80аt,  
- Н2S - Tt.h = 29,5oC dưới áp suất P = 21аt.  
+H+  
+H+  
109,50  
1000  
O
9,9 - 10Ao  
-
-
N2  
Hình 1. Cấu trúc phân tử nước  
H2S  
Phân tử methane  
100  
Liên kết  
hydro  
CH4  
C4H10  
C3H8  
10  
Nguyên tử  
hydro  
C2H6  
iC4H10  
1
Nguyên tử  
oxy  
-10 -5  
0
5
10 15 20 25 30  
Nhiệt độ ToC  
Hình 2. Tinh thể hydrate methane  
Hình 3. Đồ thị nhiệt áp tạo hydrate một số loại khí  
DU KHÍ - S3/2015  
68  
PETROVIETNAM  
Từ đồ thị nhiệt áp tạo hydrate khí (Hình 3) có thể thấy  
vai trò của nhiệt độ là quan trọng nhất, khi nhiệt độ tăng  
lên theo tuyến tính thì áp suất tăng theo tỷ lệ logarite  
(hàm số mũ).  
Ở cùng điều kiện áp suất, khi kích thước phân tử khí  
tăng nhiệt độ tạo hydrate khí cũng tăng, ví dụ: dưới áp  
suất P = 0,1аt nhiệt độ tạo hydrate của СН4 là T = -78,6oC,  
С2Н6 là T = -31,4oC, С3Н8 là T = -11,5oC.  
Trong số các khí hydrocarbon, do độ đàn hồi của khí  
methane cao (khả năng và xu hướng quay trở lại tồn tại  
ở trạng thái khí khi bị hòa tan hay hóa lỏng dưới áp suất  
cao) nên khi tỷ phần khí methane trong hỗn hợp khí càng  
cao, điều kiện hình thành hydrate khí yêu cầu nhiệt độ  
càng thấp và áp suất càng cao.  
1.1.3. Áp suất cao  
Độ bền vững của tinh thể hydrate khí quyết định bởi  
lực tương tác Van der Waals giữa các phân tử nước “chủ”  
và các phân tử khíkháchnằm bên trong khuôn tinh thể.  
Ở điều kiện nhiệt độ thấp, nước đóng băng tạo tinh thể  
có chứa ngăn trống, song rất “xốp” và ngăn trống không  
chứa phân tử khí, không tạo hydrate khí. Khi áp suất tăng  
cao ép các phân tử lại gần nhau, với khoảng cách nhỏ  
hơn bán kính Van der Waals của một nguyên tử hay phân  
tử (bán kính của một hình cầu tưởng tượng, được dùng  
để mô hình hóa cho nguyên tử hay phân tử đó, là khoảng  
cách giữa các cặp nguyên tử hay phân tử khi giữa chúng  
không còn tương tác) - lực tương tác Van der Waals giữa  
các phân tử nước và các phân tử khí gia tăng đáng kể,  
“nhốt” các phân tử khí vào trong ngăn trống dẫn đến  
hình thành hydrate khí. Trước đây, khi nghiên cứu sự hình  
thành hydrate khí trong điều kiện áp suất không cao (P  
< 2kbar) người ta nhận thấy: trong một ngăn trống chỉ  
chứa không quá một phân tử khí và các khí có bán kính  
Van der Waals nhỏ như hydro, helium, neon không thể  
tạo hydrate khí. Hiện nay, khi nghiên cứu sự hình thành  
hydrate khí trong điều kiện áp suất cao thì thấy không  
những các khí có bán kính Van der Waals nhỏ có thể  
tham gia tạo hydrate khí mà trong một ngăn trống có  
thnhốt2 phân tử khí với kích thước không lớn. Những  
điểm trên chứng tỏ vai trò quan trọng của áp suất trong  
hình thành hydrate khí.  
Nghiên cứu thực tế cho thấy khí hydrocarbon tham gia  
vào quá trình tạo hydrate khí chủ yếu là khí methane sinh  
hóa do: (i) các tích tụ hydrate khí chỉ có thể hình thành và  
tồn tại trong điều kiện nhiệt độ và áp suất ở nửa phần trên  
của đới biến đổi sinh hóa của vật chất hữu cơ (H < 1.500m; T  
< 55 - 60oC), nơi hình thành chủ yếu khí methane sinh hóa và  
dioxide carbon từ phân hủy vật chất hữu cơ do tác động của  
vi khuẩn và men vi sinh; (ii) khí nhiệt (chủ yếu là methane,  
hình thành do cracking kerogen trong đới biến đổi địa hóa  
vật chất hữu cơ) chỉ có thể di chuyển từ dưới lên trên với  
lượng hạn chế, tập trung trong các đới đứt gãy, khe nứt).  
1.2.2. Độ khoáng hóa và thành phần hóa học của nước vỉa  
Nước tinh khiết có thể kết tinh ở nhiệt độ T = 4oC dưới  
áp suất khí quyển, song khi nước có chứa các chất hóa học  
nói chung và các muối vô cơ (độ khoáng hóa) nói riêng thì  
nhiệt độ kết tinh của nước đòi hỏi thấp hơn. Điều này dẫn  
đến: trong điều kiện tương tự, độ khoáng hóa của nước  
tăng thì nhiệt độ tạo thành hydrate khí cần giảm hơn nữa.  
1.2.3. Yếu tố địa chất  
Trong tự nhiên, dưới lớp trầm tích hydrate khí chỉ tồn  
tại bền vững ở khoảng độ sâu nhất định. Trạng thái tồn tại  
ổn định (trạng thái pha) của hydrate khí phụ thuộc nhiệt  
độ và áp suất. Đới trầm tích có nhiệt độ, áp suất thuận tiện  
cho thành tạo hydrate khí bền vững trong vỏ trái đất được  
gọi là “đới hydrate khí ổn định.  
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phân bố  
hydrate khí  
1.2.1. Thành phần khí  
Có nhiều loại tinh thể hydrate khí và tương ứng có  
nhiều loại khoang trống chứa trong các tinh thể, các tinh  
thể khác nhau kết hợp tạo nên các hệ cấu trúc tinh thể cơ  
bản CS-I; CS-II; HS và TS [10]. Trong mỗi hệ cấu trúc có từ  
2 - 3 loại tinh thể có chứa các ngăn trống với kích thước  
khác nhau. Các hệ cấu trúc chỉ thực sự bền vững khi các  
ngăn trống phải được lấp đầy bởi các phân tử khí (> 70%).  
Như vậy, để tạo hệ cấu trúc hydrate khí bền vững nhất, khí  
phải đa dạng về thành phần.  
Đới hydrate khí ổn định thường được xác định trong  
mặt cắt bằng phương pháp phân tích đồ hình (chồng đồ  
thị đường cong thành tạo hydrate lên đường cong phân  
bố nhiệt độ và áp suất theo độ sâu (Hình 4).  
Do đới hydrate khí ổn định chỉ tồn tại trong khoảng  
nhiệt độ và áp suất tương thích nên chiều dày của đới này  
trong tự nhiên phụ thuộc vào các đặc điểm địa chất:  
Phần lớn khí tự nhiên (CH4, C2H6, C3H8, CO2, N2, H2S,  
iC4H10...) tạo được hydrate khí, song chủ yếu là hydrate  
methane và dioxide carbon.  
- Do đặc điểm hình thành hydrate khí của methane,  
nên khi hàm lượng methane tăng sẽ làm giảm độ dày của  
đới ổn định hydrate khí.  
DU KHÍ - S3/2015  
69  
DU KHÍ THGII  
- Gradient địa nhiệt tăng cao dẫn đến “sự nâng” lên  
của đáy đới ổn định hydrate khí và làm giảm chiều dày  
đới ổn định hydrate khí. Ngược lại, khi gradient địa nhiệt  
giảm, đáy đới ổn định hydrate khíhạxuống và chiều dày  
đới ổn định hydrate khí tăng lên.  
nguyên, song nhiều nhà khoa học khác lại cho rằng quan  
điểm trên chỉ có tính lý thuyết còn kinh nghiệm quan  
sát thực tế lại nhận thấy hàm lượng vật chất hữu cơ tỷ lệ  
thuận với tốc độ trầm tích và “hiệu ứng làm loãng” chỉ có  
tác dụng khi tốc độ trầm tích quá cao [6]. Khi trầm tích lục  
nguyên giàu vật chất hữu cơ nằm trong đới biến đổi sinh  
hóa (Sedimentogenes và Diagenes), dưới tác động của vi  
khuẩn và men vi sinh tạo ra lượng lớn khí hydrocarbon,  
chủ yếu là methane, nguồn vật liệu thiết yếu để tạo  
hydrate methane.  
- Trên đất liền, khi nhiệt độ bề mặt tăng, độ dày đới  
tạo băng vĩnh cửu trên bề mặt giảm (nhiệt độ tăng và áp  
suất giảm trong đới đất đá bề mặt) làm giảm chiều dày đới  
ổn định hydrate khí.  
- Khi gradient nhiệt trong nước biển và gradient địa  
nhiệt không thay đổi, độ sâu đáy nước tăng, sẽ làm giảm  
nhiệt độ đáy nước, gia tăng áp suất trong đới đất đá bề  
mặt dẫn đến sự “nâng” cao của nóc đới ổn định hydrate  
khí, làm tăng chiều dày của đới này và ngược lại. Điều này  
có ý nghĩa lớn khi đới ổn định hydrate khí hoàn toàn nằm  
trong phạm vi trầm tích dưới đáy nước có chứa nhiều khí  
hòa tan.  
- Có ý kiến cho rằng tích tụ hydrate khí tự nhiên  
có thể hình thành khi không có tầng chắn và bản thân  
hydrate khí là tầng chắn rất tốt. Song, theo tác giả tầng  
chắn là điều kiện không thể thiếu cho hình thành tích  
tụ hydrate khí trong tự nhiên vì để tạo hydrate khí ngoài  
nhiệt độ thấp đòi hỏi nước chứa lượng khí hòa tan nhất  
định, trong điều kiện nhiệt độ thấp khí chỉ có thể hòa tan  
nhiều vào trong nước chỉ khi áp suất đạt giá trị cao nhất  
định, trong điều kiện đó nếu không có tầng chắn khí sẽ di  
thoát hết mà không hòa tan nhiều vào nước. Tầng chắn  
tạo điều kiện cho khí và nước tích tụ, là những nguồn vật  
liệu thiết yếu ban đầu cho thành tạo tích tụ hydrate khí  
tự nhiên.  
- Độ khoáng hóa tăng đòi hỏi nhiệt độ đóng băng  
của nước giảm, làm giảm độ dày đới ổn định hydrate khí.  
- Khi đi sâu vào lòng đất nhiệt độ tăng lên, vượt quá  
giá trị tới hạn về nhiệt độ làm cho hydrate khí không thể  
tồn tại.  
Khoáng thể hydrate khí tạo ra trong phần mặt cắt  
trầm tích có thể tiếp xúc: phía trên với tích tụ khí hoặc  
tầng đá chắn, bên dưới với nước vỉa, dầu, khí hoặc khí  
condensate.  
- Nghiên cứu thực tế cho thấy phần lớn các tích tụ  
hydrate khí tự nhiên nằm trong khu vực trầm tích được  
lắng đọng với tốc độ cao. Điều này hoàn toàn hợp lý. Mặc  
dù theo Simcus và Trimonis, do ảnh hưởng của “hiệu ứng  
làm loãng” của nguồn vật liệu trầm tích hàm lượng vật  
chất hữu cơ cũng như hàm lượng carbonate trong trầm  
tích tỷ lệ nghịch với tốc độ lắng đọng các trầm tích lục  
1.2.4. Yếu tố địa lý  
Trong tự nhiên nhiệt độ trên bề mặt trái đất phụ thuộc  
vào vĩ độ, những điều kiện phù hợp cho sự hình thành và  
bảo tồn hydrate khí thường tồn tại trong các tập trầm tích  
nông hoặc nằm ngay bên dưới lớp băng vĩnh cửu thuộc  
các vùng cực, ở đáy hồ hoặc biển (Hình 5) có độ sâu đáy  
nước hơn 500m ở các vùng có vĩ độ trung bình hoặc thấp  
và ở chiều sâu từ 150 - 200m tại các vùng vĩ độ cao.  
0
10  
20  
30  
40  
T (oC)  
Nhiệt độ  
nước biển  
Nóc đới ổn định hydrate khí  
500  
Ranh giới pha  
hydrate khí  
Vùng biển Bắc Cực tồn tại 2 đới thành tạo hydrate khí:  
(i) vùng nước nông gần bờ, nơi phân bố các trầm tích dưới  
lớp băng vĩnh cửu chứa ít hydrate khí; (ii) vùng nước sâu  
(trên sườn dốc lục địa) là nơi có điều kiện lý tưởng cho sự  
hình thành hydrate.  
1.000  
1.500  
Nhiệt độ trầm  
tích đáy biển  
2. Trữ lượng và phân bố trữ lượng khí hydrate trên  
thế giới  
Đáy đới ổn định hydrate khí  
Theo đánh giá của các nhà khoa học, lượng khí  
hydrocarbon (chủ yếu là khí methane) chứa trong hydrate  
khí tự nhiên đạt 1,8 x 1014 - 7,6 x 1018m³ [11]. Theo Iu.A Diain  
và A.L Gusin - Đại học Tổng hợp Novoxibirxk, trữ lượng  
Trầm tích bão hòa nước  
và khí hòa tan  
H
(m)  
Hình 4. Sơ đồ biểu diễn đới tồn tại ổn định của hydrate khí trong trầm tích biển  
DU KHÍ - S3/2015  
70  
PETROVIETNAM  
hydrocarbon này tạo năng lượng lớn gấp 2 lần  
năng lượng được tạo ra từ tổng trữ lượng nhiên  
liệu hóa thạch có trên hành tinh [4]. Nếu khai thác  
được, chỉ 10% lượng khí trên cũng đã gấp 2 lần  
lượng khí khai thác từ các nguồn truyền thống.  
Cơ quan tài nguyên thiên nhiên Canada cho rằng  
trữ lượng hydrate khí có thể đáp ứng 100% nhu  
cầu năng lượng của thế giới trong 2.000 năm.  
Trữ lượng của hydrate khí ở Canada được xem  
là nhiều nhất thế giới, tiếp theo là Liên bang Nga,  
Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc [2, 4]. Tinh thể  
khí hydrate tích tụ tại biển châu Á được đánh giá  
có chất lượng tốt nhất với hàm lượng khí methane  
tới 99%.  
Giám đốc Viện băng quyển (Criosfera)  
Triumen Vladimir Menhicov tổng hợp kết quả  
nghiên cứu hydrate khí của các nhà khoa học thế  
giới đã nêu: có 98% lượng khí hydrate nằm dưới  
đáy hồ sâu và biển, chỉ 2% nằm trong trầm tích  
bên dưới băng vĩnh cửu trên lục địa.  
Hình 5. Các phát hiện hydrate khí trên thế giới [7]  
Theo dự báo của các nhà khoa học, các tích  
tụ hydrate khí phân bố hầu như khắp nơi dọc  
theo bờ các biển sâu, đại dương (Hình 5). Những  
nơi hydrate khí phong phú nhất trên thế giới là  
Siberia, các vùng biển Đông Bắc Á, biển Trung  
Quốc, thềm lục địa Nhật Bản (đặc biệt là phía  
Đông), Bắc biển Đông, vùng lục địa phía Bắc Mỹ,  
Bắc Alaska, New Zealand... [2, 4].  
Dựa vào điều kiện thành tạo và bảo tồn của  
hydrate khí, phân tích chế độ nhiệt động khu vực  
và tổng hợp các phát hiện trên thế giới, các nhà  
khoa học cho rằng trong mặt cắt địa chất các mỏ  
hydrate khí tự nhiên chỉ có thể tồn tại ở phần trên  
của vỏ trái đất.  
Hình 6. Hydrate khí trên đáy hồ Baikal - Nga [4]  
- Khu vực băng giá vĩnh cửu ở độ sâu 100 -  
1.100m dưới mức nước biển (130 - 2.000m tính từ  
bề mặt), thường là h > 300m  
- Đáy thềm và sườn lục địa với Tđáy nước ≈ 2 -  
4oC vĩ độ Bắc, độ sâu đáy biển h > 300m, vĩ độ  
Nam h > 600m, thậm chí có thể tồn tại ở đáy đại  
dương thế giới  
Đến nay, các nhà khoa học đã phát hiện 3  
điểm phát lộ của hydrate khí trên đáy nước ở: vịnh  
Mexico; ven biển Vancover và tại điểm núi lửa  
phun bùn Saint-Petersburg dưới đáy hồ Baikal.  
Tại hồ Baikal với độ sâu đáy nước tới 1.640m  
Hình 7. Hydrate khí trong trầm tích đáy hồ Baikal - Nga [3]  
DU KHÍ - S3/2015  
71  
DU KHÍ THGII  
và nhiệt độ tương ứng khoảng 3,3oC, hydrate khí nằm ở độ  
sâu 350m, đôi chỗ phát lộ trên đáy hồ (Hình 6, 7) [4]. Theo  
dự báo hydrate khí có thể chiếm 70% diện tích đáy hồ. Năm  
2009, tàu lặn “mir” phát hiện cả hydrate khí trên mặt trầm  
tích đáy hồ và đã lấy được mẫu hydrate khí từ độ sâu 150m.  
Theo cisoilgas.com ngày 8/4/2012, bằng các phương  
pháp thăm dò địa chấn và khoan tìm kiếm trên các vùng  
băng vĩnh cửu và ven rìa lục địa đã phát hiện trên 200 điểm  
có phát hiện hydrate khí. Tuy nhiên, phần lớn các phát hiện  
chỉ căn cứ vào dấu hiệu trên mặt cắt địa chấn, tài liệu đo địa  
vật lý giếng khoan hoặc mẫu lõi được bảo tồn nhiệt áp. Các  
phát hiện quan trọng (xác định số lượng, diện tích phân bố  
cũng như chiều dày vỉa chứa hydrate khí; đã khai thác thử  
hoặc khai thác công nghiệp) không nhiều: mỏ Mallik trên  
đồng bằng Mackenzie ở Tây Bắc Canada; mỏ PrudoBei trên  
sườn Bắc Alaska, Mỹ; mỏ Nankai ở sườn Đông Nam Nhật  
Bản; mỏ Messhoyakha ở Tây Bắc Siberia và đáy hồ Baikal  
của Liên bang Nga.  
Hình 8. Mỏ hydrate khí Mallik trên đồng bằng Mackenzie, Canada [3]  
Giếng 7  
Giếng 121  
Giếng 150  
Giếng 109  
Giếng 142  
Canada là quốc gia có trữ lượng hydrate khí lớn nhất  
thế giới. Các chuyên gia dầu khí đánh giá miền đồng bằng  
sông Mackenzie (Tây Bắc Canada) là khu vực được đầu tư  
nhiều nhất để tìm kiếm, thăm dò hydrate khí. Trong giai  
đoạn 1998 - 2002, Tập đoàn khoa học sản xuất Canada  
khoan giếng khoan khảo sát Mallik và 3 giếng khoan thăm  
dò ở đồng bằng sông Mackenzie (Hình 8) đã phát hiện đới  
phân bố hydrate khí. Trên cơ sở nghiên cứu địa vật lý giếng  
khoan và mẫu lõi đã phân định 3 vỉa chứa hydrate khí A, B  
và C với tổng chiều dày 130m trong khoảng độ sâu 890 -  
1.108m. Chương trình hợp tác quốc tế lớn nhất trên thế giới  
về hydrate khí được thực hiện theo các giai đoạn tại đồng  
bằng sông Mackenzie - Bắc Canada [3].  
Khí  
Ranh giới BSR  
Nước vỉa  
Hydrate khí  
Sét  
Cát kết  
Hình 9. Hydrate khí nằm phủ trên tích tụ khí trong khu vực mỏ Messhoyakha [2]  
Liên bang Nga có tiềm năng lớn về dầu mỏ và đặc biệt  
là khí. Viện Nghiên cứu Khoa học về khí Liên bang Nga đánh  
giá ít nhất có 30% diện tích lãnh thổ Liên bang Nga có điều  
kiện thuận lợi cho việc hình thành hydrate khí. Tổng trữ  
lượng khí chứa trong hydrate trên lục địa và thềm lục địa  
thuộc chủ quyền của Liên bang Nga đạt 1015m3, riêng vùng  
thềm lục địa Siberia có khoảng 540 tỷ m3. Trữ lượng khí đốt  
tự nhiên của Liên bang Nga còn đủ dùng trong 200 - 250  
năm nữa.  
Biển Nhật Bản  
Theo thông tin của RIA Novosti, khi khảo sát đáy biển  
Okhot và biển Nhật Bản các nhà khoa học quốc tế Nga, Nhật  
Bản và Hàn Quốc đã phát hiện 2 mỏ hydrate khí mới: 1 mỏ  
nằm trên sườn trũng Kurin, miền Nam biển Okhot; 1 mỏ  
nằm trên sườn dốc đảo Sakhalin, eo Tatar của biển Nhật Bản.  
Bể Nankai  
Mỏ hydrate khí Messhoyakha nằm ở vùng phía Bắc của  
Tây Siberia (Hình 9) được phát hiện năm 1968 và bắt đầu  
Hình 10. Bể Nankai Đông Nam Nhật Bản, nơi tìm thấy hydrate khí  
DU KHÍ - S3/2015  
72  
PETROVIETNAM  
và dự kiến đưa vào khai thác công  
nghiệp từ năm 2017 [12; 13]. Tháng  
2/2007, Nhật Bản công bố đã phát  
hiện hydrate khí trong trầm tích đáy  
biển vùng Nigata. Khảo sát dò tìm  
bằng siêu âm cho thấy có khoảng  
7.000 tỷ m3 methane hydrate dưới  
lòng biển quanh Nhật Bản [8].  
Lượng methane hydrate này có thể  
đủ để cung cấp một lượng khí đốt  
cho Nhật Bản dùng trong 100 năm.  
TRUNG QUỐC  
VIỆT NAM  
THAILAND  
PHILIPPINES  
MALAYSIA  
Trữ lượng hydrate khí ở vùng  
biển phía Đông Hàn Quốc được ước  
INDONESIA  
tính khoảng 600 triệu tấn, có thể  
đáp ứng nhu cầu khí đốt tự nhiên  
của nước này trong khoảng 30 năm.  
Hàn Quốc đã phát hiện và chiết tách  
được hydrate khí ở vùng lãnh thổ đại dương phía Đông,  
phía Đông Bắc Tp. Pohang. Seoul hy vọng nguồn nhiên  
liệu thay thế này sẽ giúp làm giảm được sự phụ thuộc của  
nước này vào dầu mỏ nhập khẩu.  
Hình 11. Các điểm đã phát hiện có tiềm năng hydrate khí ở Biển Đông [8, 9]  
khai thác từ năm 1969. Đây là mỏ đầu tiên trên thế giới  
khai thác khí từ hydrate mang tính thương mại. Theo ước  
tính ban đầu mỏ chứa xấp xỉ 109m3 khí, nhưng đến nay  
lượng khí khai thác từ hydrate đã đạt trên 5 x 109m3 khí  
(36% tổng lượng khí khai thác từ mỏ). Trong khu vực trên  
đã phát hiện hơn 60 mỏ khí hydrate, chứa khoảng 22 x  
1012m3 khí.  
Năm 2007, Trung Quốc lần đầu tiên phát hiện hydrate  
khí ở Nam bồn trũng Châu Giang, nơi độ sâu nước biển  
1.500m, trong trầm tích dưới đáy biển 200 - 250m tồn  
tại đới hydrate dày đến 25m. Cuối tháng 9/2009, Trung  
Quốc đã phát hiện trữ lượng lớn băng cháy (methane  
hydrate) trong lòng đất tỉnh Thanh Hải và cao nguyên  
Tây Tạng, có thể cung cấp năng lượng cho Trung Quốc  
trong vòng 90 năm.  
Bộ Năng lượng Mỹ đã phối hợp với Chevron Texaco  
Corp. đã tìm ra nhiều mỏ khí methane hydrate ở vịnh  
Mexico và Alaska. Theo đánh giá của các nhà địa chất Mỹ,  
trữ lượng khí trong hydrate tại vùng Alaska là 66,6 x 1012m3;  
vịnh Mexico 1,03 x 1012m3. Trên vùng Prudo Bei - Kyparuc  
River sườn Bắc Alaska đã có 50 giếng khoan phát hiện 6 vỉa  
cát chứa hydrate khí ở độ sâu từ 210 - 950m [2].  
Philippines đã phát hiện được dấu hiệu hydrate khí  
trong trũng sâu nằm dọc đới hút chìm Tây Manila [8, 9].  
Indonesia xác định diện tích rộng lớn có triển vọng về  
hydrate khí dọc các đới hút chìm Sumatra và Borneo [8, 9].  
Malaysia phát hiện được hai khu vực rất có tiềm năng về  
hydrate khí là Andeman và Sabah [8, 9].  
Biển Đen được xem làmỏhydrate lớn nhất hành tinh  
với trữ lượng CH4 tới 20.000 - 25.000 tỷ m3. Tại đây đã xác  
định được tọa độ của hơn 150ngọn đuốc khíđộ sâu 60  
- 650m, trường phun khí ở một số nơi cao tới 2km, phân  
bố ở vùng biển của Romania, Gruzia, Bulgaria, Ukraine và  
Liên bang Nga. Có nơi ở đáy biển Gruzia lượng khí phun  
ra đo được 170.000m3/m2/ngày đêm. Biển Đen là nguồn  
năng lượng gần như không cạn, đủ dùng cho 64.000 năm.  
Vì vậy các quốc gia ở gần Biển Đen (Liên bang Nga, Đức,  
Pháp và Hy Lạp) rất quan tâm tới đối tượng này.  
3. Kết luận  
Hydrate khí chỉ được hình thành khi nước có chứa khí  
hòa tan ở mức độ nhất định trong điều kiện nhiệt độ thấp  
và áp suất cao. Ngoài ra, sự hình thành và phân bố hydrate  
khí trong tự nhiên còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác  
như: thành phần cấu tử khí hòa tan, đặc điểm lý hóa phân  
tử, nguồn cung cấp khí, đặc điểm địa chất, đặc điểm địa lý,  
độ khoáng hóa của nước, độ sâu đáy nước…  
Trong giai đoạn 1999 - 2004, Nhật Bản khoan 38  
giếng khoan tìm kiếm - thăm dò trên phạm vi bể trầm  
tích Nankai trong khoảng độ sâu đáy biển 720 - 2.033m  
(290m dưới đáy biển) và khẳng định sự tồn tại của 3 lớp  
hydrate khí với tổng chiều dày 16m trong cát đáy biển  
(Hình 10). Giai đoạn tiếp theo là nghiên cứu, khai thác thử  
Theo đánh giá của các nhà khoa học trong và ngoài  
nước, biển Đông Á nói chung và Biển Đông nói riêng có  
tiềm năng hydrate khí rất lớn. Đặc biệt, hydrate khí ở Biển  
DU KHÍ - S3/2015  
73  
DU KHÍ THGII  
Đông có chất lượng tốt do hàm lượng methane cao. Điều  
này đã được chứng minh bằng các phát hiện hydrate  
khí trong các trũng ven biển Philippines, Indonesia và  
Malaysia…  
7. Keith A.Kvenvolden. Gas hydrates - Geological  
perspective and global change. Reviews of Geophysics.  
1993; 31(2): p. 173 - 187.  
8. Nguyễn Thành Vạn, Trần Văn Trị. Một số thông tin  
về điều tra địa chất hydrate khí. Tạp chí Địa chất. 2007; 301.  
Tài liệu tham khảo  
9. Nguyễn Đức Thắng, Đỗ Tử Chung, Cao Thị Mai.  
Tiềm năng hydrate khí trên Biển Đông. Hội thảo chuyên  
đề “Hydrate khí - Nguồn năng lượng của tương lai và các  
phương pháp nghiên cứu. 2009.  
1. В.А.Чахмахчев. Геохимические исследования  
и методы при поисках и разведке нефти и газа.  
Издательство Нефти и газ РГУ нефти и газа им И.М  
Губкина. Москва. 2002.  
10. Lê Văn Bình. Cấu trúc hydrate khí. Tạp chí Dầu khí.  
2012; 8: trang 31 - 35.  
2. С.Коллет, Р.Льюис, Т.Учида. Растущий интерес к  
газовым гидратам. Журнал Нефтегазовое Обозрение.  
Москва. 2001; 2.  
11. B.A.Соловьев. Природные газовые гидраты как  
потенциальное полезное ископаемое. Росссийский  
химический журнал. 2003; 3.  
3. S.R.Dallimore, T.S.Collett, T.Uchida. Scientific results  
from JAPEX/JNOC/GSC Mallik 2L-38 gas hydrate research  
well, Mackenzie Delta, Northwest Territories, Canada.  
Geological Survey of Canada. 1999; 544.  
12. Hideaki Takahashi, Yoshihiro Tsuji. Japan explores  
for hydrates in the Nankai trough. Oil and Gas Journal.  
9/5/2005.  
4. Ю.А.Дядин, А.Л.Гущин. Газовые гидраты.  
Соросовский образовательный журнал. 1998; 3.  
13. Hideaki Takahashi, Yoshihiro Tsuji. Japan drills,  
logs gas hydrate wells in the Nankai trough. Oil and Gas  
Journal. 9/12/2005.  
5. A.A.Бакиров и друтие. Геология и геохимия  
нефти и газа. Издательство Недра. Москва. 1993.  
6. Хант Дж. Геология и геохимия нефти и газа.  
Издательство Мир. Москва. 1982  
Conditions and other factors affecting gas hydrate  
generation and distribution in nature  
Le Van Binh  
Hanoi University of Mining and Geology  
Summary  
Gas hydrate is a greatly promising source of clean natural energy in the future. According to the statistics, the hydro-  
carbon reserve in gas hydrate reaches 7,6 × 1018m3. Since gas hydrate forms only in low temperature and high pres-  
sure environments, 98% of gas hydrate reserves lie on the bottom of continental shelves and lakes. Canada, Black  
Sea and Lake Baikal are considered the largest hydrate reserve regions in the world. The article presents the factors  
affecting the formation and distribution of gas hydrate in nature as well as the reserves and distribution of gas hy-  
drate in the world.  
Key words: Gas hydrate, gas hydrate distribution, reserves of gas hydrate in nature.  
DU KHÍ - S3/2015  
74  
pdf 8 trang yennguyen 16/04/2022 3360
Bạn đang xem tài liệu "Điều kiện và các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành, phân bố hydrate khí trong tự nhiên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdieu_kien_va_cac_yeu_to_anh_huong_den_su_hinh_thanh_phan_bo.pdf