Vấn đề cải cách ngành công nghiệp khí Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

PETROVIETNAM  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 11 - 2018, trang 55 - 65  
ISSN-0866-854X  
VẤN ĐỀ CẢI CÁCH NGÀNH CÔNG NGHIỆP KHÍ TRUNG QUỐC  
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM  
Nguyễn Thu Hà1, Ngô Mai Anh2  
1Viện Dầu khí Việt Nam  
2Tập đoàn Dầu khí Việt Nam  
Email: hant@vpi.pvn.vn  
Tóm tắt  
Trong giai đoạn giá dầu giảm, các quốc gia châu Á đang tận dụng thời cơ để tiến hành tái cấu trúc ngành công nghiệp khí hướng tới  
thị trường tự do trong đó có Trung Quốc. Quá trình tái cấu trúc đánh dấu sự kết thúc của cơ chế định giá cộng chi phí (cost plus) tồn tại hơn  
50 năm trong lịch sử ngành công nghiệp khí của Trung Quốc. Giá khí hiện tại được tham chiếu và so sánh với giá của năng lượng thay thế  
và giá khí tự nhiên không chỉ được quyết định bởi Chính phủ mà còn tham chiếu theo thị trường cung - cầu năng lượng. Trong quá trình  
tái cấu trúc, Trung Quốc đã có ưu điểm và hạn chế trong cách tiến hành về quản lý cũng như cơ chế giá. Đây cũng là bài học kinh nghiệm  
cho Việt Nam trong quá trình triển khai quy hoạch, xây dựng lộ trình thiết lập thị trường khí tự do.  
Từ khóa: Công nghiệp khí, thị trường khí, định giá khí, Trung Quốc.  
1. Giới thiệu  
2016  
3%  
1.1. Cung - cầu khí tự nhiên  
9%  
19%  
1%  
Trung Quốc có diện tích lớn và dân số đông nhất thế giới,  
có vai trò quan trọng góp phần vào tăng trưởng tiêu thụ năng  
lượng toàn cầu. Theo BP, than đá chiếm hơn 60% tổng tiêu thụ  
năng lượng của Trung Quốc. Tuy nhiên, đến năm 2035, tỷ trọng  
than sẽ giảm đáng kể, chuyển sự phát triển sang khí, năng  
lượng hạt nhân và năng lượng tái tạo nhằm thực hiện mục tiêu  
cắt giảm lượng khí thải. Năng lượng tái tạo được xác định là  
nguồn năng lượng thay thế chính cho dầu và than đá trong dài  
hạn. Khí và năng lượng tái tạo sẽ kết hợp, thúc đẩy sự phát triển  
kinh tế và môi trường cho Trung Quốc [1].  
6%  
3053 triệu tấn dầu  
tương đương  
62%  
2035  
11%  
20%  
8%  
6%  
Trung Quốc đang có chiến lược mở rộng sử dụng khí ra  
nhiều lĩnh vực, giảm ô nhiễm môi trường do việc sử dụng than  
gây ra. Mặc dù vậy, đến năm 2016, khí chỉ chiếm 6% trong tổng  
tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc, chưa đạt mức chính phủ  
dự kiến là 8%. Theo dự báo của BP, cơ cấu tiêu thụ năng lượng  
của Trung Quốc thay đổi đáng kể: than giảm từ 62% năm 2016  
xuống còn 42% năm 2035, trong khi đó khí tự nhiên tăng từ 6%  
lên 11%; dầu tăng nhẹ từ 19% lên 20% [2].  
4425 triệu tấn dầu  
tương đương  
11%  
42%  
Dầu  
Khí  
Thủy năng  
Than  
Năng lượng tái tạo  
Hạt nhân  
Tiêu thụ khí giai đoạn 2000 - 2016 tăng trưởng trung bình  
14%/năm, trong đó giai đoạn 2000 - 2010 là 16%/năm còn giai  
đoạn sau đó tốc độ tiêu thụ chậm lại [3]. Tiêu thụ khí của Trung  
Hình 1. Cơ cấu tiêu thụ năng lượng sơ cấp của Trung Quốc giai đoạn 2016 - 2035  
(BP, 2017)  
Quốc tập trung tại các khu vực có hệ thống cơ sở hạ  
tầng phát triển, gồm 4 khu vực xung quanh Bắc Kinh  
và vịnh Bột Hải, Thượng Hải, đồng bằng sông Dương  
Ngày nhận bài: 3/10/2017. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 3/10 - 21/11/2017.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 4/10/2018.  
DẦU KHÍ - SỐ 11/2018  
55  
KINH TẾ - QUẢN LÝ DẦU KHÍ  
Tử và trung tâm phía Tây Trùng Khánh. Các khu vực này trở thành  
các trung tâm công nghiệp, dẫn đầu về tốc độ đô thị hóa và tăng  
trưởng dân số. Tuy nhiên, một số trung tâm tăng trưởng kinh  
tế khác lại không có cơ sở hạ tầng khí đốt phát triển, như khu  
vực phía Đông Nam Trung Quốc [3]. Tổng tiêu thụ khí tự nhiên  
của Trung Quốc năm 2016 đạt 208,7 tỷ m3. Cơ cấu tiêu thụ khí tự  
nhiên của Trung Quốc trong giai đoạn 2000 - 2016 chủ yếu cho  
ngành công nghiệp; điện và nhiệt (chiếm gần 70% tổng tiêu thụ,  
trong đó khí dành cho công nghiệp chiếm tới hơn 40%). Cơ cấu  
này vẫn giữ ổn định đến năm 2030 theo dự báo của SIA Energy  
[4].  
nhiên được chi phối bởi 3 công ty dầu khí quốc  
gia gồm: CNPC, Sinopec và CNOOC. CNPC nắm giữ  
khoảng 75% tổng sản lượng khí tự nhiên của Trung  
Quốc, sở hữu và vận hành hệ thống đường ống.  
Sinopec khai thác mỏ khí tự nhiên Puguang tại tỉnh  
Tứ Xuyên. CNOOC phát triển 3 terminal nhập khẩu  
LNG đầu tiên ở Thâm Quyến, Phúc Kiến và Thượng  
Hải, đồng thời quản lý tài sản ngoài khơi. CNOOC  
sử dụng hợp đồng PSC với các công ty nước ngoài  
muốn tham gia các dự án phát triển thượng nguồn  
và được phép mua bán lại đến 51% tỷ lệ tham gia  
của tất cả phát hiện ngoài khơi nếu Công ty Dầu  
khí Quốc tế (IOC) thu hồi được chi phí phát triển.  
Trung Quốc là quốc gia giàu tài nguyên khí tự nhiên với tổng  
tiềm năng khí khoảng 62 nghìn tỷ m3 [1]; trữ lượng khí có khả  
năng thu hồi khoảng 5,4 nghìn tỷ m3 [2] tính tại thời điểm 2016.  
Sản lượng khí tự nhiên của Trung Quốc trong giai đoạn 2000 -  
2016 tăng trung bình 10%/năm, trong đó giai đoạn 2000 - 2010  
tăng 14%/năm và giai đoạn 2010 - 2016, tốc độ khai thác có xu  
hướng giảm, còn 6%/năm [5].  
1.2. Cơ sở hạ tầng khí tự nhiên  
Cùng với sự phát triển mạnh của cung - cầu,  
Trung Quốc nhanh chóng hoàn thiện hệ thống cơ  
sở hạ tầng khí trong 10 năm trở lại đây. Tính đến  
cuối năm 2014, Trung Quốc đã xây dựng hệ thống  
đường ống vận chuyển dài 83.000km, 20 kho dự  
trữ ngầm. Năm 2006, Thâm Quyến xây dựng trạm  
nhập khẩu LNG đầu tiên của Trung Quốc là trạm  
tiếp nhận LNG Dapeng Quảng Đông để tiếp nhận  
LNG nhập khẩu đáp ứng nhu cầu trong nước. Tính  
đến cuối năm 2014, Trung Quốc hoàn thành xây  
dựng 14 trạm tiếp nhận LNG và 6 trạm khác đang  
trong quá trình xây dựng [6].  
Trước năm 2007, Trung Quốc là nước xuất khẩu ròng khí tự  
nhiên nhưng sau đó trở thành nước nhập khẩu khí tự nhiên do  
sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu [5]. Kể từ sau  
năm 2010, lượng khí tự nhiên nhập khẩu của Trung Quốc tăng  
mạnh cùng với sự tăng trưởng nhanh của cơ sở hạ tầng đường  
ống và chế biến khí. Lượng khí nhập khẩu chiếm 11% trong tổng  
lượng khí tiêu thụ năm 2010 và tăng lên 34% vào năm 2016.  
Trung Quốc nhập khẩu khí theo 2 hình thức: qua đường ống  
xuyên quốc gia và LNG (cơ cấu tương ứng 52% và 48% trong  
tổng lượng khí nhập khẩu).  
1.3. Quản lý ngành công nghiệp khí  
Các quốc gia cung cấp khí qua đường ống cho Trung Quốc  
gồm: Turkmenistan, Uzbekistan, Myanmar, Kazakhstan. Trung  
Quốc nhập khẩu LNG từ: Australia, Qatar, Indonesia, Malaysia,  
Papua New Guinea, Yemen, Equatorial Guinea, Nigeria, Trinidad  
& Tobago, Egypt và một số quốc gia khác.  
Lĩnh vực năng lượng của Trung Quốc, gồm cả  
ngành công nghiệp khí tự nhiên, chịu sự quản lý  
của Chính phủ thông qua Ủy ban Phát triển và Cải  
cách Quốc gia (NDRC) cùng các cơ quan quản lý  
khác. NDRC tập trung vào việc hoạch định kinh tế vĩ  
mô, thực thi chính sách về ngành khí trong lĩnh vực  
năng lượng (trực tiếp điều tiết/kiểm soát giá khí,  
phê duyệt các hoạt động liên quan đến các dự án  
khí). Bộ Thương mại (MOC) chịu trách nhiệm trong  
việc đàm phán thương mại quốc tế và các vấn đề  
kinh tế. Bộ Tài nguyên và Đất đai (MLR) kiểm soát  
quyền sử dụng/thâm nhập đất và từng tổ chức đấu  
giá quyền thăm dò dầu khí đá phiến. Bộ Tài chính  
(MOF) quản lý chương trình trợ giá nhằm phát triển  
các mỏ khí đá phiến. Bộ Bảo vệ Môi trường (MEP)  
từng bị hạn chế về quyền hạn trong lĩnh vực năng  
lượng, tuy nhiên, cơ quan trung ương đang nỗ lực  
mở rộng chức năng của cơ quan này. Chính quyền  
địa phương quy định giá bán cuối cùng đến hộ tiêu  
thụ sau “City Gate” (cổng thành phố). Các công ty  
Các công ty dầu khí quốc gia giữ vai trò dẫn dắt sự phát triển  
ngành công nghiệp khí Trung Quốc. Ngành công nghiệp khí tự  
250  
200  
150  
100  
50  
0
Sản xuất  
Tiêu thụ  
Hình 2. Sản xuất và tiêu thụ khí tự nhiên của Trung Quốc giai đoạn 2000 - 2016 (BP, 2017)  
DẦU KHÍ - SỐ 11/2018  
56  
PETROVIETNAM  
Cơ quan phối hợp  
Cấp độ lập pháp  
Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia  
Ủy ban Năng lượng  
Bộ Tài nguyên  
Bộ Thương Mại  
Bộ Tài chính  
và Đất đai  
Bộ Bảo vệ Môi  
trường  
Chính sách  
phát triển  
Nhà nước/tư nhân  
tham gia vào  
thị trường  
Chính quyền địa phương  
Các thành phần  
Các thành phần  
tham gia thị trường  
tham gia  
dầu khí (CNPC/  
thị trường điện  
CNOOC/Sinopec)  
Hình 3. Cấu trúc quản lý ngành khí Trung Quốc [7]  
dầu khí quốc gia: CNPC (nhà nước nắm hơn 86% cổ phần);  
CNOOC (100% vốn nhà nước) và Sinopec (nhà nước nắm  
76% cổ phần) đóng vai trò chính trong điều hành hoạt  
động thị trường.  
Mức giá khí đến hộ tiêu thụ cuối cùng sẽ có sự phân  
cấp theo đối tượng khách hàng:  
- Giá khí cho các hộ dân sinh được hưởng ưu đãi cao  
nhất;  
Thị trường khí Trung Quốc được quản lý và điều hành  
bởi Chính phủ, có rất ít sự đóng góp và tham gia từ phía  
tư nhân. Theo đó, Chính phủ Trung Quốc có thể kiểm soát  
toàn bộ các hoạt động công nghiệp khí thông qua cơ  
quan trung ương duy nhất là NDRC, đồng thời vẫn có thể  
kiểm soát được các doanh nghiệp đã được niêm yết. Mô  
hình quản lý này cũng bộc lộ nhược điểm, việc hạn chế  
sự tham gia thị trường nội địa của các nhà đầu tư tư nhân  
dẫn đến thế độc quyền trong ngành công nghiệp này. Cơ  
chế phối hợp đồng bộ giữa các cấp bộ ngành với chính  
quyền địa phương còn thiếu chặt chẽ; một số bộ còn bị  
giới hạn quyền và trách nhiệm trong quản lý (như Bộ Bảo  
vệ Môi trường).  
- Giá khí cho sản xuất đạm được điều tiết giữ ở mức  
thấp;  
- Nhà nước không điều tiết giá khí cho lĩnh vực giao  
thông vận tải và thương mại.  
Quá trình thay đổi cơ chế giá khí của Trung Quốc được  
phân theo 3 giai đoạn [1].  
- Trong giai đoạn đầu từ 1956 - 1993: Giá khí cho các  
khách hàng do Chính phủ Trung Quốc quy định (giá khí 1  
thành phần - không phân chia các khâu). Trong đó:  
+ 1956 - 1981: Cơ chế 1 giá khí và ở mức thấp nhằm  
khuyến khích việc sử dụng khí;  
+ 1981 - 1993: Cơ chế định giá khí 2 thành phần. Phần  
sản lượng khí theo kế hoạch vẫn được bán với mức giá  
thấp và phần sản lượng khí ngoài kế hoạch được giao sẽ  
chịu mức giá bán cao hơn.  
2. Cải cách cơ chế giá khí của Trung Quốc  
Trung Quốc đã từng sử dụng phương pháp cộng chi  
phí để xác định mức giá khí, dựa trên chi phí sản xuất  
hơn là giá trị tiêu dùng. Với hệ thống định giá này, NDRC  
và NEA cùng tính toán chi phí sản xuất, vận chuyển và  
đưa ra mức lợi nhuận biên để quyết định giá khí tại cổng  
thành phố - mức giá mà các nhà phân phối khu vực phải  
trả. Từ sau cổng thành phố, giá khí (phí phân phối khu  
vực (bao gồm cả phí kết nối) và giá đến hộ tiêu thụ cuối  
cùng) được quy định bởi chính quyền cấp tỉnh và địa  
phương [7]. Với cơ chế này, giá khí được chính phủ kiểm  
soát và điều tiết đến các khách hàng tiêu thụ.  
- Trong giai đoạn thứ 2, từ 1993 - 2005, cơ chế giá  
khí tồn tại song song 2 cách định giá: Giá khí Chính phủ  
Trung Quốc quy định và giá chính phủ định hướng. Trong  
lần cải cách này, giá khí được tính theo phương pháp cộng  
chi phí - được chia thành các thành phần nhỏ trong công  
thức tính.  
+ Đối với giá khí miệng giếng: Giá khí được chia theo  
2 mức sản lượng trong kế hoạch và ngoài kế hoạch (tương  
DẦU KHÍ - SỐ 11/2018  
57  
KINH TẾ - QUẢN LÝ DẦU KHÍ  
tự giai đoạn trước) với phần trong kế hoạch sẽ được Chính  
phủ Trung Quốc quy định và phần ngoài kế hoạch sẽ được  
xác định theo mức giá các nhà khai thác đề xuất trong  
biên độ dao động không quá 10% mức giá tiêu chuẩn do  
Chính phủ quy định;  
PCGPIN = K × (α × PFO ×  
+ β × PLNG  
×
) × (1 + R)  
Trong đó:  
PCGPIN: Giá khí cổng thành phố Thượng Hải cho lượng  
khí tăng thêm;  
K: Hệ số chiết khấu nhằm khuyến khích sử dụng khí,  
hiện đang được NDRC quy định bằng 85%;  
+ Cước phí vận chuyển đường ống được xác định  
trên cơ sở cộng các chi phí và đảm bảo mức lợi nhuận của  
các doanh nghiệp đường ống không thấp hơn 12%;  
α và β: Trọng số cho FO và LPG, thể hiện lần lượt mức  
đóng góp trong nguồn cung năng lượng của Trung Quốc;  
+ Phí chế biến thiết lập bởi nhà máy chế biến và được  
sự chấp thuận của NDRC.  
PFO và PLNG: Giá nhập khẩu trung bình của FO và LPG;  
HNG: Nhiệt trị của khí tự nhiên;  
- Giai đoạn 3 từ năm 2005 đến nay: Nhà nước đóng  
vai trò định hướng giá khí. Trong giai đoạn này, quá trình  
thay đổi giá khí được thực hiện 3 lần:  
HFO: Nhiệt trị của FO;  
HLPG: Nhiệt trị của LPG;  
+ Giá khí cổng nhà máy được Chính phủ Trung Quốc  
định hướng trong những năm 2005 - 2013. Năm 2005,  
NDRC thống nhất mức giá cổng nhà máy của khí tự nhiên  
theo 2 khu vực. Khu vực thứ nhất giá được đàm phán giữa  
bên mua và bên bán trong phạm vi dao động 10% quanh  
mức giá quy định của chính phủ; mức giá khí tại khu vực 2  
dao động ngoài khoảng 10% giá quy định của Chính phủ  
và không quy định mức tối thiểu. Tuy nhiên, năm 2010,  
NDRC lại hợp nhất giá khí cổng nhà máy cho 2 khu vực,  
theo đó, giá khí dao động ngoài khoảng 10% giá quy định  
của Chính phủ và không quy định mức tối thiểu.  
R: Mức thuế giá trị gia tăng cho khí tự nhiên.  
- Từ năm 2013 đến nay, giá khí tại cổng thành phố  
được tính theo giá Chính phủ Trung Quốc định hướng  
thông qua quy định mức giá trần. Trong đó có phân biệt  
lượng khí tiêu thụ và lượng khí tăng thêm (phần nhu cầu  
khí tăng thêm so với tổng tiêu thụ năm 2012) [8]. Điều  
chỉnh giá cho lượng khí tăng thêm theo phương pháp  
tính Net-back; tăng hợp lý mức giá cho lượng khí tiêu  
dùng hiện tại cổng thành phố; không điều chỉnh mức giá  
khí bán cuối cùng cho hộ dân dụng. Từ sau ngày 1/4/2015,  
đối với các hộ tiêu thụ cuối cùng ngoài dân dụng, giá khí  
cho phần tiêu thụ và lượng khí tăng thêm được hợp nhất;  
công khai mức giá khí của nguồn cung trực tiếp.  
+ Giá bán tại cổng thành phố:  
Từ năm 2011 - 2013, Chính phủ Trung Quốc thí điểm  
cách định giá theo thị trường tại Quảng Đông và Quảng  
Tây. Theo đó, giá bán khí cao nhất tại cổng trạm phân phối  
của 2 tỉnh này được xác định trên cơ sở giá khí tại cổng  
trạm phân phối của Thượng Hải và mức phát triển kinh tế  
tại Quảng Đông và Quảng Tây. Trong đó, giá khí tại cổng  
trạm phân phối của Thượng Hải được tính theo công thức:  
(NDRC, 2011; NDRC, 2013)  
Như vậy, giai đoạn từ năm 2002 đến nay, quá trình tái  
định giá khí đang trải qua từng bước để tiến tới cơ chế  
định giá theo thị trường và được phân chia qua mốc quan  
trọng năm 2011 (giới thiệu thử nghiệm cơ chế giá khí  
mới); năm 2013 (thí điểm cho các hộ ngoài dân dụng ở  
Quảng Đông và Quảng Tây, trong đó 9% trong tổng nhu  
2013  
2011  
2014 - 2015  
2016  
Áp dụng rộng  
Xóa bỏ chênh lệch  
giữa phần khí sử  
dụng thông thường  
và khí tăng thêm  
(ngoài dân dụng)  
Xuất hiện cơ chế định  
giá theo mùa (khí cho  
sản xuất phân bón); thử  
nghiệm giá tự do cho  
Fujian WEP-3  
2017 - 2020  
Thử nghiệm tại  
Kiểm soát giá  
miệng giếng  
trên toàn quốc  
công thức  
định giá  
Quảng Đông và  
Quảng Tây cho  
WEP-2  
Định giá khí theo  
thị trường?  
Net-back  
Cộng dồn chi  
phí  
Cơ chế giá Net-back  
Hình 4. Các bước thực hiện thay đổi cơ chế giá khí tại Trung Quốc từ năm 2011 đến nay  
DẦU KHÍ - SỐ 11/2018  
58  
PETROVIETNAM  
cầu khí bị ảnh hưởng và ngành công nghiệp chịu tác động  
lớn nhất từ cơ chế này); năm 2015 mức giá cho phần khí  
đang tiêu thụ và khí tăng thêm được hợp nhất hoàn toàn  
theo tham chiếu giá dầu) [9].  
back1 và có những tiến bộ đáng kể trong quá trình định  
giá khí tự nhiên theo định hướng thị trường. Về bản chất,  
việc thay đổi cơ chế này thực chất là thay đổi điểm kiểm  
soát giá từ giá miệng giếng sang giá tại điểm cổng thành  
phố. Mục đích của việc tái định giá này là tạo điều kiện  
cho các lực lượng thị trường nâng cao vai trò trong việc  
quyết định mức độ đầu tư hoạt động thượng nguồn trong  
nước và khối lượng nhập khẩu, nhằm tạo ra tính thanh  
khoản cao giúp phát triển các thị trường mới mà không  
ảnh hưởng đến tính bền vững và linh hoạt.  
Đồng thời, Trung Quốc đã trải qua 7 bước điều chỉnh  
giá khí cổng nhà máy (ex-factory prices). Với giá khí tự  
nhiên cho khu vực ngoài dân dụng là một điểm đột phá  
lớn, giá khí cổng nhà máy cho lượng khí hiện tại tăng lên  
liên tục kể từ sau năm 2013 [10]. Mối quan hệ giữa giá khí  
cho khu vực ngoài dân dụng và giá quy đổi theo nhiệt  
trị tương đương của năng lượng thay thế được thiết lập  
(Bảng 2).  
Sự khác biệt chính của cơ chế định giá khí mới là vị  
trí xuất phát điểm được xem xét tại cổng nhà máy. Theo  
cơ chế cũ, giá khí tự nhiên cổng nhà máy phần lớn được  
Trung Quốc đã áp dụng phương pháp định giá Net-  
Bảng 1. Sự thay đổi giá khí cổng nhà máy tại Tứ Xuyên và Trùng Khánh giai đoạn 2002 - 2015 [10]  
Đơn vị: NDT/1.000m3  
Thời  
gian  
3/1997  
Giá khí  
Giá khí  
Giá khí  
Giá khí  
cho dân dụng  
685  
TT  
Ghi chú  
Giá miệng giếng  
Giá miệng giếng + phí tách lọc  
Giá khí cho dân dụng và thương mại  
được gộp thành giá khí cho khu dân  
cư  
cho công nghiệp cho hóa dầu cho thương mại  
645  
725  
520  
590  
925  
1005  
1
2
1/2002  
765  
3
12/2005  
875  
690  
/
920  
4
5
11/2007  
5/2010  
1275  
1505  
690  
920  
/
/
920  
1150  
Mức trần giá cổng thành phố được  
thông qua tại Tứ Xuyên và Trùng  
Khánh  
6
12/2012  
1980  
1340  
/
1150  
7
8
6/2013  
1/2014  
2143(2110)  
2440(2320)  
1340  
1340  
/
/
1150  
1150  
Giá cho dân dụng được tính qua giá  
cổng nhà máy; giá khí ngoài dân  
dụng được tính thông qua giá cổng  
thành phố  
2/2015  
2350(2340)  
1350  
/
1150  
9
Sản xuất và nhập khẩu  
khí tự nhiên  
Nhà điều hành phân  
phối  
Các nhà vận hành  
Người sử dụng trực  
tiếp  
Công nghiệp  
Cổng nhà máy  
Vận chuyển  
Phân phối khu vực  
Cước phí phân phối  
Dân dụng  
Vận tải  
Cổng thành phố  
Giá cổng nhà máy  
Cước phí vận chuyển  
Giá cổng thành phố  
Giá bán lẻ  
Trước cải cách  
Sau cải cách  
Quy định bởi chính  
quyền địa phương  
Quy định bởi NDRC  
Hình 5. Sự khác nhau về cách định giá trong chuỗi giá trị khí của Trung Quốc trong cải cách  
1Cơ chế định giá Net-back: tham chiếu giá của nhiên liệu cạnh tranh của hộ tiêu thụ cuối cùng (giá tại cổng thành phố = Giá Net-back của hộ tiêu thụ cuối cùng - chi phí vận chuyển  
từ điểm cổng thành phố đến hộ tiêu thụ cuối cùng) [11]  
DẦU KHÍ - SỐ 11/2018  
59  
KINH TẾ - QUẢN LÝ DẦU KHÍ  
tính dựa trên chi phí sản xuất trong khi cơ chế mới được  
tính bằng giá PCGPIN trừ đi cước phí vận chuyển (tính  
theo khoảng cách từ khu vực sản xuất khí tới Thượng Hải).  
Ngoài ra, các tính toán cước phí vận chuyển và giá bán lẻ  
cũng theo cơ chế mới. Tuy nhiên, sau cải cách, giá khí tại  
Trung Quốc nổi lên một số vấn đề như sau:  
theo các thành phần và giá khí thành phần bao gồm: giá  
khí tại cổng nhà máy; cước vận chuyển qua các đường ống  
khoảng cách lớn và giá phân phối tại cổng thành phố. Giá  
khí tại cổng thành phố gồm: giá khí cổng nhà máy và cước  
phí vận chuyển. Giá khí cho hộ tiêu dùng cuối cùng bằng  
giá tại cổng trạm phân phối cộng với cước phí phân phối  
[1]. Việc đưa cơ chế định giá khí Net-back vào thị trường  
khí đã giúp Trung Quốc gỡ bỏ được những khó khăn và  
tạo ra môi trường đầu tư thu hút cho khâu thượng nguồn.  
- Giá khí đã có tham chiếu với giá nhiên liệu nhập  
khẩu trong công thức giá khí tại cổng thành phố. Thượng  
Hải được chọn là điểm bắt đầu của việc tính giá khí tự  
nhiên bởi vì Thượng Hải là khu vực tiêu thụ khí lớn và là  
trung tâm giao dịch năng lượng quan trọng của Trung  
Quốc;  
Kết quả đến hiện tại của quá trình cải cách giá khí lần  
3 đã mang lại cho Trung Quốc:  
- Có 4 loại giá khí cổng nhà máy được thông qua tại  
- Có 2 khái niệm mới được định nghĩa: Khối lượng  
hiện hữu - được định nghĩa là tổng khối lượng khí tiêu  
thụ trong năm 2012 - và khối lượng tăng thêm - tổng khối  
lượng khí tiêu thụ tăng thêm từ sau năm 2012. Việc áp  
dụng này nhằm giảm tối đa rủi ro chính trị xuất phát từ  
việc tăng giá khí;  
Trung Quốc [10]  
+ Giá khí cổng nhà máy định chuẩn cho nguồn khí  
trên bờ được NDRC công bố tháng 5/2010 hiện chỉ áp  
dụng cho tính giá khí khu dân cư - được gọi là giá khí cho  
dân dụng;  
+ Giá khí cổng nhà máy của LNG nhập khẩu sau tái  
hóa khí được quyết định bởi tỉnh/thành phố nơi đặt các  
thiết bị kho cảng LNG và được tính toán trên cơ sở giá LNG  
nhập khẩu và phí tái hóa khí. Loại giá khí này dao động  
từ 1,52 - 3,9 NDT/m3 tùy thuộc thời điểm giá hợp đồng  
và công thức tính. Với LNG khí hóa nhập khẩu qua đường  
ống để truyền tải hỗn hợp và thương mại được thông qua  
một giá thống nhất;  
- Cơ chế đề xuất mới chỉ áp dụng với phần khối  
lượng tăng thêm của khí đường ống;  
- Định giá cho LNG nhập khẩu và khí phi truyền  
thống trên cơ sở đàm phán giữa người sản xuất và người  
sử dụng, trong khi giá cho các hộ gia đình không thay đổi  
so với cơ chế cũ. Điều này gây trở ngại trong việc cạnh  
tranh của các nguồn khí này với khí đường ống;  
- 3 bước chuyển đổi được giới thiệu:  
+ Giá khí cho nguồn khí đá phiến, khí than (CBM) và  
than hóa khí (coal to gas) bị kiểm soát và thông qua đàm  
phán giữa các bên cung - cầu;  
+ Năm 2013: Áp dụng công thức giá khí mới cho khối  
lượng tăng thêm tại các cổng thành phố;  
- Giá khí cổng thành phố được thông qua theo cơ  
chế “market-netback” - giá khí tham chiếu theo giá năng  
lượng thay thế và không tính với hộ dân dụng;  
+ Năm 2014: Tăng giá khí cho phần khối lượng tăng  
thêm ở cổng thành phố và do đó khối lượng tăng thêm  
cũng được điều chỉnh theo cơ chế giá mới;  
- Giá khí cho hộ tiêu thụ cuối cùng (ngoài dân dụng)  
tăng trung bình 15%;  
+ Năm 2015: Giá khí cổng thành phố cho lượng khí  
hiện hữu tăng lên bằng mức của lượng khí tăng thêm và  
giá khí cho phần khí tăng thêm tiếp tục được điều chỉnh  
theo công thức mới. Công thức cuối cùng được xây dựng  
vào tháng 3/2015.  
- Giá khí mới đã đảm bảo đủ chi phí cho nguồn khí  
nhập khẩu qua đường ống và nguồn cung nội địa trên bờ.  
Tuy nhiên, giá từ các nguồn khí đá phiến, CBM, than hóa  
khí, nguồn cung ngoài khơi nội địa và LNG vẫn được đàm  
phán giữa nhà sản xuất và các nhà mua buôn [8];  
Cơ chế giá khí Net-back khắc phục được các yếu điểm  
của cơ chế Cost plus nhằm từng bước hướng tới thị trường  
khí tự do, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại. Ưu nhược điểm  
giữa 2 cơ chế giá khi áp dụng tại Trung Quốc được thể  
hiện trong Bảng 2.  
- Cơ chế giá khí mới mang lại lợi ích cho các nhà sản  
xuất và nhập khẩu khi giá bán tại cổng thành phố được  
điều chỉnh tăng so với cơ chế cũ [12];  
Nhìn chung, cơ chế định giá khí tự nhiên của Trung  
Quốc về thực tế là theo cơ chế độc quyền và Chính phủ  
đóng vai trò thống lĩnh trong định giá. Trong toàn chuỗi  
công nghiệp khí, Chính phủ Trung Quốc quản lý giá khí  
- Lợi nhuận của các nhà phân phối sẽ bị tác động  
nếu các công ty phân phối không kiểm soát được chi phí  
trong mức tăng giá khí tại cổng thành phố cho hộ tiêu thụ  
cuối cùng [12];  
DẦU KHÍ - SỐ 11/2018  
60  
PETROVIETNAM  
Bảng 2. So sánh ưu, nhược điểm của cơ chế giá Cost plus và Net-back tại Trung Quốc  
Ưu điểm  
Nhược điểm  
- Ổn định về giá, ít biến động do Chính phủ Trung Quốc quy  
định giá  
- Lợi thế cho khách hàng tiêu thụ và đáp ứng mục tiêu định  
hướng của chính phủ phát triển nguồn năng lượng khí tự  
nhiên do giá khí nội địa thấp  
-
-
Không phản ánh đúng chi phí sản xuất (do Chính phủ  
Trung Quốc quy định giá miệng giếng)  
Không thể hiện đúng nguyên tắc thị trường: Không  
thể hiện được chức năng thông tin tín hiệu của giá  
giữa nhà sản xuất và người tiêu thụ  
Cost  
plus  
-
-
Sự chênh lệch giữa giá khí quy định và giá khí nhập  
khẩu b giảm nguồn nhập khẩu  
Việc Chính phủ Trung Quốc quy định giá làm môi  
trường đầu tư không ổn định khi Chính phủ dễ dàng  
thay đổi giá cũng như các chính sách liên quan  
Việc chia giá khí theo các mức khác nhau cho hộ tiêu  
thụ và khu vực và quy định giá sẽ không khuyến khích  
phát triển LNG đồng thời gây áp lực lên nhà sản xuất  
và phân phối b không thu hút đầu tư vào ngành  
cũng như khó phát triển thị trường liên khu vực  
Cấu trúc tính giá khí phức tạp: Nhiều thành phần chi  
phí và với mỗi hộ tiêu thụ khác nhau giá miệng giếng  
và phân phối đô thị được quy định mức khác nhau  
-
-
-
- Phản ánh nguyên tắc thị trường thông qua tham chiếu giá  
theo sản phẩm thay thế (FO và LPG)  
- Quy định giá khí thống nhất tại cổng thành phố sẽ tạo  
công bằng cho các hộ tiêu thụ và tăng cạnh tranh cho các  
nhà sản xuất và nhập khẩu  
Cơ chế chưa phản ánh đúng hoàn toàn cơ chế thị  
trường tại Trung Quốc khi bỏ qua nguồn năng lượng  
than (nguồn năng lượng chiếm hơn 60% trong tổng  
tiêu thụ)  
Net-  
back  
-
Chưa thể hiện sự khác nhau giá bán tại các cổng  
thành phố do sự khác nhau giữa khả năng chi trả,  
nguồn tài nguyên và tính mùa vụ  
Chưa xác định được rõ ngưỡng và tần suất điều chỉnh  
Cơ chế giá này chịu ảnh hưởng của biến động giá dầu  
Chưa thực hiện cơ chế Net-back cho các hộ dân dụng  
- Giá khí phản ánh theo thị trường sẽ giúp minh bạch môi  
trường đầu tư b khuyến khích đầu tư vào ngành  
- Cấu trúc tính giá khí được đơn giản hóa: danh mục khách  
hàng từ 4 nhóm giảm còn 3 nhóm; cách tính giá được chia  
thành 2 (giá khí cho hộ ngoài dân dụng và cho hộ sản xuất  
phân bón; giá khí thượng nguồn và trung nguồn tính theo  
giá tính ngược từ cổng thành phố; giá khí cho khu dân cư  
gồm giá cổng nhà máy cộng phí vận chuyển đường ống)  
-
-
-
- Việc cải cách giá khí tự nhiên ở giai đoạn này không  
ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hộ tiêu thụ dân dụng vì  
người tiêu dùng được bảo vệ bởi chương trình trợ giá [12];  
3. Vấn đề cải cách cơ chế giá khí tại Trung Quốc  
3.1. Nhân tố thúc đẩy sự thay đổi cơ chế giá khí  
- Yếu tố bên ngoài [1]:  
- Ngành công nghiệp không được trợ cấp nên bị  
ảnh hưởng nhiều nhất bởi sự điều chỉnh giá khí. Ngoài ra,  
các hộ công nghiệp còn phải chi trả một phần giá cho hộ  
dân dụng thông qua chương trình trợ cấp chéo của chính  
quyền địa phương [12];  
+ Sự bùng nổ nguồn cung khí tự nhiên thế giới  
(nguồn cung khí đá phiến, các dự án LNG mới nổi ở  
Australia, Bắc Mỹ và Đông Phi) trong khi nhu cầu khí thế  
giới đang giảm dần, thị trường toàn cầu chuyển từ thị  
trường người bán sang thị trường người mua;  
- Lĩnh vực điện (và nhiệt) đặc biệt nhạy cảm với sự  
thay đổi giá khí. Giá sản phẩm đầu vào và đầu ra đều được  
chính phủ (đối với giá điện) và chính quyền địa phương  
(đối với giá khí và nhiệt) quy định. Ngoài ra, chính quyền  
địa phương còn có cơ chế trợ giá cho phần gia nhiệt  
không gian của các hộ gia đình và sản lượng điện nhằm  
kiểm soát ô nhiễm môi trường. Do đó, lợi nhuận của  
ngành này phụ thuộc lớn vào chính sách của chính quyền  
địa phương [12].  
+ Cuộc khủng hoảng Ukraine hướng Liên bang Nga  
chú trọng hơn vào thị trường khí Trung Quốc;  
+ Sự sụt giảm giá dầu thô và LNG giao ngay trên thị  
trường quốc tế đang tạo môi trường thuận lợi cho tái cơ  
cấu ngành khí tự nhiên;  
Trung Quốc đang phải tận dụng tối đa các cơ hội này  
để duy trì nguyên tắc cải cách theo hướng thị trường,  
đảm bảo an ninh năng lượng và cải thiện đời sống nhân  
DẦU KHÍ - SỐ 11/2018  
61  
KINH TẾ - QUẢN LÝ DẦU KHÍ  
dân, thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp khí tự  
nhiên.  
3.2. Khó khăn, hạn chế của cơ chế định giá khí mới tại  
Trung Quốc [1]  
- Yếu tố bên trong:  
- Thiếu tính thiết kế tổng thể:  
+ Năng lượng khí được sử dụng rộng rãi trong cơ cấu  
ngành năng lượng: Tầm quan trọng của việc quản lý vĩ mô  
lên khí tự nhiên để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội  
đề ra.  
+ Hiện Trung Quốc mới chỉ thông qua Luật Khoáng  
sản, Luật Bảo vệ Đường ống dẫn Dầu khí và một số quy  
định hành chính khác, chủ yếu liên quan đến thăm dò,  
khai thác và ít đề cập tới thị trường hóa và cạnh tranh.  
Trong khi đó tại Mỹ và châu Âu đã ban hành các luật và  
quy định liên quan trong ngành công nghiệp này tạo cơ  
sở đáng tin cậy cho các nhà đầu tư và những người tham  
gia thị trường.  
+ Giá khí không đồng nhất giữa các lĩnh vực và khu  
vực sử dụng: giá khí cho công nghiệp cao hơn 30% so  
với giá cho dân dụng và thấp hơn 9% so với giá cho giao  
thông vận tải; giá khí bán cho điện thấp hơn 20% so với  
bán cho công nghiệp [14].  
+ Các chức năng quản lý ngành khí của Trung Quốc  
được phân cấp cho các cơ quan Chính phủ khác nhau và  
không có tổ chức hành chính tập trung, điều này không  
thuận lợi cho quá trình cải cách ngành công nghiệp khí.  
+ Tác động từ chi phí sản xuất trong nước và triển  
vọng nguồn cung: Giá khí miệng giếng tại các khu vực bể  
khác nhau đang khác nhau và với sự phát triển của nguồn  
khí phi truyền thống, giá khí miệng giếng tăng sẽ tác động  
đến đầu tư trong lĩnh vực thượng nguồn cũng như cơ cấu  
nguồn cung (tỷ trọng nhập khẩu).  
+ Chính phủ Trung Quốc đã ban hành một số chính  
sách liên quan đến ngành khí tự nhiên và không có mục  
tiêu phát triển rõ ràng, quy hoạch tổng thể, kế hoạch chi  
tiết, hoặc tiến độ cải cách ngành khí tự nhiên.  
+ Tỷ trọng hộ tiêu thụ dân dụng và thương mại trong  
tổng tiêu thụ khí: Mạng lưới vận chuyển và sản lượng tiêu  
thụ cho dân dụng thương mại gia tăng đáng kể trong khi  
nhóm hộ này vẫn đang được hưởng cơ chế ưu đãi về giá  
rất lớn.  
- Trở ngại từ các nhóm lợi ích: Cải cách ngành khí tự  
nhiên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tinh giản quản  
lý và phân quyền cho các cấp thấp hơn để cho phép thị  
trường đóng vai trò quyết định trong phân bổ nguồn lực.  
Điều này có thể ảnh hưởng đến lợi ích của các nhóm liên  
quan.  
+ Mối tương quan giữa giá trị thực của khí và khả  
năng chi trả của khách hàng: Mỗi khu vực (phụ thuộc cơ  
cấu năng lượng tiêu thụ, nguồn tài nguyên và sự phát  
triển cơ sở hạ tầng) và mỗi khách hàng (phụ thuộc sự đa  
dạng hóa nguyên liệu đầu vào, công nghệ…) sẽ có mức  
sẵn sàng chi trả mua khí khác nhau. Tương tự, mỗi nguồn  
khí khác nhau giá trị thực tế cũng khác nhau (phụ thuộc  
điều kiện địa chất, khai thác, địa lý, khoảng cách vận  
chuyển…).  
- Thiếu giám sát thị trường: Đối với các ngành công  
nghiệp khí phát triển trên thế giới, việc thành lập các cơ  
quan quản lý có các tiêu chuẩn về độc lập, chuyên nghiệp,  
minh bạch, trách nhiệm giải trình và tính nhất quán thông  
qua luật nhằm bình thường hóa các hoạt động của doanh  
nghiệp, khắc phục sự thất bại của thị trường và nâng cao  
hiệu quả hoạt động của thị trường khí tự nhiên.  
+ Sự tác động của yếu tố mùa vụ: Trung Quốc bị ảnh  
hưởng bởi yếu tố mùa trên phần lớn lãnh thổ. Nhu cầu  
tiêu thụ đỉnh của Bắc Kinh trong mùa đông cao gấp 11  
lần mùa hè trong khi tỷ lệ này là 3:1 ở Thượng Hải và 2:1  
ở Trùng Khánh [12]. Việc chênh lệch này sẽ dẫn tới sự phụ  
thuộc lớn vào giá khí nhập khẩu.  
+ Thứ nhất, Trung Quốc thiếu một cơ quan quản lý  
tập trung về năng lượng hoặc khí đốt tự nhiên. Các chức  
năng điều tiết thiếu sự phối hợp vì được phân chia giữa  
các cơ quan Chính phủ;  
+ Thứ hai, các tổ chức quy định về khí tự nhiên của  
Trung Quốc thiếu sự độc lập vì liên quan đến Chính phủ  
Trung Quốc và được Chính phủ tài trợ;  
+ Tác động từ môi trường chính sách: Trong năm  
2013, Chính phủ Trung Quốc thiết lập mục tiêu cắt giảm  
ô nhiễm môi trường trong năm 2017. Đây là lần đầu tiên  
chính sách môi trường vượt chính sách kinh tế để định  
hướng chính sách năng lượng. Những động thái này sẽ  
tạo ra nhu cầu khí bổ sung và khuyến khích nhập khẩu  
LNG.  
+ Thứ ba, cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cho quy định khí  
tự nhiên của Trung Quốc không tồn tại; do đó, sự công  
bằng, nhất quán và minh bạch của quy định không thể  
được đảm bảo.  
- Cơ chế định giá còn tồn tại vấn đề:  
DẦU KHÍ - SỐ 11/2018  
62  
PETROVIETNAM  
+ Trợ cấp chéo của hộ tiêu thụ dân dụng và công  
nghiệp chưa phù hợp với logic kinh tế học. Thông thường  
nhóm hộ sử dụng lượng khí lớn (công nghiệp) với chi phí  
đơn vị sẽ thấp nên được hưởng giá khí thấp và hộ dân  
dụng sử dụng lượng khí thấp với chi phí đơn vị cao sẽ phải  
chịu giá khí cao. Tuy nhiên, hệ thống giá hiện tại chưa phù  
hợp với thông lệ quốc tế;  
nghiệp khí Việt Nam hiện nay thể hiện được vai trò quản  
lý của nhà nước và có tính thống nhất trong xây dựng quy  
hoạch/chiến lược cho từng phân ngành năng lượng.  
4.1. So sánh thị trường khí Trung Quốc và Việt Nam  
Quy mô thị trường Trung Quốc lớn hơn Việt Nam 19,5  
lần, tuy nhiên lượng khí tiêu thụ trên đầu người không  
chênh nhau nhiều, Việt Nam là 110 m3/đầu người và và  
Trung Quốc 144 m3/đầu người;  
+ Giá khí đốt cho công nghiệp tương đối cao dẫn  
tới hiện tượng “thay thế than cho khí tự nhiên” làm ảnh  
hưởng đến cấu trúc năng lượng;  
Thị trường mới chỉ tập trung tại các khu vực gần nguồn  
khí và có cơ sở hạ tầng phát triển. Về nhóm hộ tiêu thụ cuối  
cùng: khác vớiViệt Nam, nhóm hộ công nghiệp đóng vai trò  
dẫn dắt thị trường. Ngoài ra, nhóm hộ dịch vụ công cũng  
đóng góp một phần không nhỏ vào tiêu thụ khí cả nước;  
+ Với các hộ tiêu thụ dân dụng do được hưởng giá ưu  
đãi dẫn tới việc sử dụng quá mức xung đột với mục tiêu  
phát triển bảo tồn tài nguyên;  
+ Cơ chế định giá mới cũng không đánh giá chất  
lượng khí của các nguồn khí khác nhau do việc đo lường  
dựa trên khối lượng chứ không phải nhiệt trị;  
Danh mục nguồn cung cấp khí của Trung Quốc khá đa  
dạng qua cả đường ống và hợp đồng cung cấp LNG, trong  
khi Việt Nam mới chỉ sử dụng nguồn cung cấp trong nước,  
chưa có nhập khẩu;  
+ Các chính sách định các mức giá khác nhau đối với  
khí chưa được đưa ra, do đó không có quy định cụ thể về  
chênh lệch giá khí theo mùa, giá khí bị gián đoạn, chênh  
lệch giá đỉnh và giá nhu cầu hiện tại.  
Dẫn dắt ngành công nghiệp khí là các doanh nghiệp  
nhà nước. Các công ty dầu khí độc quyền quản lý cơ sở hạ  
tầng trung nguồn về vận chuyển khí.  
4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam  
4.2. Cơ chế định giá khí tại thị trường Việt Nam  
Ngành công nghiệp khí Việt Nam được điều hành và  
kiểm soát bởi Chính phủ và không có sự tham gia của tư  
nhân. Chính phủ kiểm soát toàn bộ hoạt động của ngành  
công nghiệp khí thông qua Bộ Công Thương (MOIT). Cơ  
quan dưới bộ điều hành dẫn dắt thị trường gồm: Tập  
đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tập đoàn Điện lực Việt  
Nam (EVN); không có sự tham gia quản lý của chính quyền  
địa phương như Trung Quốc. Cơ cấu quản lý ngành công  
Tại Việt Nam hiện nay, cơ chế giá khí đang được thực  
hiện theo nguyên tắc Cost plus:  
- Giá khí miệng giếng được thiết lập trên cơ sở đàm  
phán song phương giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam với  
các chủ mỏ với cách định giá theo chi phí đầu tư và tỷ suất  
lợi nhuận cho phép (RCS) hoặc theo giá dầu thô/sản phẩm  
dầu (OPE) hoặc hỗn hợp [13];  
Sản xuất khí  
Các nhà vận hành  
tự nhiên  
Nhà điều hành  
phân phối  
Người sử dụng  
trực tiếp  
Công nghiệp  
Dân dụng  
Vận tải  
Khai thác khí  
Vận chuyển  
Phân phối khu vực  
Giá miệng giếng  
Cước phí vận chuyển  
Cước phí phân phối  
Giá bán lẻ  
Quy định/Điều tiết bởi  
Chính phủ  
Hình 6. Cách định giá trong chuỗi giá trị khí của Việt Nam hiện nay  
DẦU KHÍ - SỐ 11/2018  
63  
KINH TẾ - QUẢN LÝ DẦU KHÍ  
- Cước phí vận chuyển đường ống khá giống của Trung Quốc được  
xác định trên cơ sở cộng các chi phí và đảm bảo mức lợi nhuận nhất định  
của các công ty đường ống;  
Ở giai đoạn hiện tại, Việt Nam vẫn xác  
định giữ nguyên cơ cấu thị trường cũng  
như mô hình tổ chức quản lý, mặc dù các  
nhân tố bên ngoài đang tạo môi trường  
thuận lợi cho các quốc gia trong việc tái  
cấu trúc ngành khí nhưng các yếu tố nội  
tại chưa đủ tạo tiền đề cho sự chuyển đổi  
này: thị trường nguồn cung nội địa (chưa  
nhập khẩu LNG, chưa có sự tham gia của  
nhiều thành phần kinh tế hay chưa có  
sự cạnh tranh trong nguồn cung); cơ sở  
hạ tầng chưa phát triển để khuyến khích  
cũng như thúc đẩy nhu cầu khí; danh mục  
khách hàng tiêu thụ còn hạn chế (hộ điện  
khí, hộ sản xuất phân bón, hộ công nghiệp  
và một phần nhỏ giao thông vận tải).  
- Phí chế biến và phân phối được xác định bởi các nhà máy chế biến  
và công ty phân phối được MOIT chấp thuận;  
- Giá bán khí đến hộ tiêu thụ cuối cùng được xác định theo các  
nhóm hộ tiêu thụ khác nhau là khác nhau. Trong đó nguyên tắc xác định  
có thể dựa trên công thức Cost plus hoặc theo giá dầu thô/sản phẩm dầu  
(OPE) và có sự điều tiết của chính phủ.  
Như vậy, về cơ chế định giá khí trên thị trường tại Việt Nam cũng có  
khá nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc trong giai đoạn trước năm  
2013. Chuỗi giá khí từ khâu vận chuyển trở đi được nhà nước quy định và  
điều tiết. Tuy nhiên, cũng có một số điểm khác với Trung Quốc như sau:  
- Giá khí khâu sản xuất hoàn toàn trên cơ sở đàm phán song phương  
và không chịu định hướng của Chính phủ;  
5. Kết luận  
- Sản phẩm khí một mặt được bán cho người sử dụng trực tiếp và  
một mặt được bán cho các công ty phân phối khu vực; không hình thành  
giá cổng thành phố;  
Việc đưa cơ chế định giá khí Net-back  
vào thị trường khí đã giúp Trung Quốc gỡ  
bỏ khó khăn và tạo môi trường đầu tư thu  
hút cho khâu thượng nguồn. Quá trình  
cải cách giá khí lần 3 của Trung Quốc đã  
thông qua 4 loại giá khí cổng nhà máy cho:  
(i) nguồn khí trên bờ; (ii) LNG nhập khẩu  
sau tái hóa khí; (iii) khí đá phiến, khí than  
và than hóa khí; (iv) giá khí cổng thành phố  
được thông qua theo cơ chế “market-net-  
back” - giá khí tham chiếu theo giá năng  
lượng thay thế và không tính với hộ dân  
dụng. Giá khí mới đã đảm bảo đủ chi phí  
cho nguồn khí nhập khẩu qua đường ống  
và nguồn cung nội địa trên bờ.  
- Giá bán lẻ và vận chuyển đều được quy định và điều tiết bởi nhà  
nước.  
Căn cứ Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam đến  
năm 2025, định hướng đến năm 2035 (ban hành kèm theo Quyết định  
số 60/QĐ-TTg, ngày 16/1/2017 của Thủ tướng Chính phủ), mô hình thị  
trường khí Việt Nam được đề xuất phát triển theo hướng thị trường tự do  
theo 2 giai đoạn [15]:  
- Giai đoạn đến năm 2025: Hoàn thành mở cửa một phần/thị trường  
đang phát triển;  
- Giai đoạn sau năm 2025: Thị trường đang phát triển hướng tới thị  
trường tự do.  
Từ bài học kinh nghiệm của quá trình  
cải cách ngành khí Trung Quốc, Việt Nam  
cần quan tâm đến một số vấn đề sau:  
Sự tham gia của bên  
Cục quản lý  
Cơ quan  
quản lý thị  
trường  
thứ ba và giá thị trường  
TTK Việt Nam  
hiện tại  
cạnh tranh  
- Cần có thiết kế tổng thể: Hoàn thiện  
khung pháp lý song song kiện toàn cơ cấu  
tổ chức, trong đó quan tâm tới cơ quan  
chức năng giám sát thị trường;  
Tự do hóa giá  
bán buôn  
Các nhà cung  
cấp cạnh tranh  
(khí nội địa/LNG)  
Đơn vị quản lý  
ngành khí  
Đa dạng hóa  
sản phẩm khí  
- Đa dạng hóa danh mục nguồn  
cung: Đa dạng cả về sản phẩm cung và  
nhà cung cấp;  
Chính phủ  
Xây dựng, hoàn thiện  
chính sách quản lý  
khâu trung nguồn  
Trước 2025  
Sau 2025  
Thị trường tự do  
- Đầu tư cơ sở hạ tầng kết nối các khu  
vực thị trường, thiết kế mở rộng thị trường  
tiêu thụ khí về cả quy mô và danh mục  
khách hàng;  
Thị trường bị  
kiểm soát  
Mở cửa 1 phần/ Thị  
trường đang phát triển  
Hình 7. Sơ đồ mô hình thị trường khí Việt Nam  
DẦU KHÍ - SỐ 11/2018  
64  
PETROVIETNAM  
- Xây dựng cơ chế định giá khí phù hợp với điều kiện  
thị trường Việt Nam trong đó bảo đảm bao quát được các  
yếu tố cơ bản: công bằng giữa các nhóm khách hàng; đảm  
bảo logic kinh tế; lồng ghép chất lượng giá khí; quy định  
thời gian hiệu lực, biên độ giá và có xét tới yếu tố mùa vụ.  
8. h t t p : / / w w w. m a r c o n . c o m / p r i n t _ i n d e x .  
cfm?SectionListsID=30&PageID=2803.  
9. Xunpeng Shi, Hari Malamakkavu Padinjare Variam.  
China’s gas market liberalisation: The impact on China -  
Australia gas trade. 2015.  
Tài liệu tham khảo  
10. Aolin Hu, Qing Dong. On natural gas pricing  
reform in China. Natural gas industry B. 2015; 2(4): p. 374  
- 382.  
1. Xiucheng Dong, Guanglin Pi, Zhengwei Ma, Cong  
Dong. The reform of the natural gas industry in the PR of  
China. Renewable and sustainable energy review. 2017;  
73: p. 582 - 593.  
11. Konoplyanick. Formation of gas pricing system in  
North-East Asia: European & US influence. 2012.  
2. BP. BP energy outlook 2035. 2017.  
12. Sergey Paltsev, Danwei Zhang. Natural gas pricing  
reform in China: Getting closer to a market system?. Energy  
policy. 2015; 86: p. 43 - 56.  
3. Miranda Wainberg, Michelle Michot Foss, Gürcan  
Gülen, Daniel Quijano. Current and future natural gas  
demand in China and India. 2017.  
13. Phan Ngọc Trung, Nguyễn Thị Thanh Lê. Định giá  
khí trên thế giới và xu hướng định giá khí tại Việt Nam. Tạp  
chí Dầu khí. 2017; 8: trang 41 - 50.  
4. SIA Energy. China gas market outlook and  
opportunities for Japan. 2017.  
14. Michael Chen. The development of Chinese gas  
pricing: Drivers, challenges and implications for demand.  
The Oxford institute for energy studies. 2014.  
5. BP. BP statistic review of world energy. 2017.  
7. Michael Ratner, Gabriel M.Nelson, Susan  
V.Lawrence. China’s natural gas: Uncertainty for markets.  
Congressional research service. May 2, 2016.  
15. PVN. Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển ngành  
công nghiệp khí Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến  
năm 2035. 2017.  
REFORMATION OF THE GAS INDUSTRY IN CHINA AND LESSONS  
DRAWN FOR VIETNAM  
Nguyen Thu Ha1, Ngo Mai Anh2  
1Vietnam Petroleum Institute  
2Vietnam Oil and Gas Group  
Email: hant@vpi.pvn.vn  
Summary  
During the prolonged period of low oil prices, many countries in Asia, including China, are taking advantage of this opportunity to  
restructure their gas industry towards liberalisation of the gas market. In China, the restructuring marked the end of the "cost plus" pricing  
mechanism that lasted more than 50 years in the country’s gas industry. Current gas prices are indexed on the price of alternative energies  
and prices of natural gas are not only regulated by the government but also by supply-demand balance. However, the restructuring  
process has shown advantages and disadvantages in China’s management and pricing mechanism. These experiences could be lessons  
for Vietnam in the process of implementing plans and building a roadmap towards a liberalised gas market.  
Key words: Gas industry, gas market, gas pricing, China.  
DẦU KHÍ - SỐ 11/2018  
65  
pdf 11 trang yennguyen 16/04/2022 4500
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề cải cách ngành công nghiệp khí Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfvan_de_cai_cach_nganh_cong_nghiep_khi_trung_quoc_va_bai_hoc.pdf