Đột phá trong minh giải tài liệu địa chấn 3D để phát hiện các bẫy chứa địa tầng

PETROVIETNAM  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 3 - 2021, trang 45 - 51  
ISSN 2615-9902  
ĐỘT PHÁ TRONG MINH GIẢI TÀI LIỆU ĐỊA CHẤN 3D  
ĐỂ PHÁT HIỆN CÁC BẪY CHỨA ĐỊA TẦNG  
Nguyễn Xuân Thịnh1, Hà Quang Mẫn2  
1Eliis Pty Ltd, Australia  
2Tổng công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí  
Email: manhq@pvep.com.vn  
Tóm tắt  
Bài báo giới thiệu phương pháp minh giải địa chấn toàn phần (global seismic interpretation method) được phát triển bởi Pauget  
và nnk. [1]. Mô hình 3D thời gian địa chất tương đối (3D relative geologic time, RGT) được xây dựng trực tiếp từ tài liệu địa chấn là kết  
quả của phương pháp này. Trong mô hình RGT, tuổi địa chất có sự tiếp diễn liên tục, được nội suy và xác định trên mọi điểm của tài liệu  
địa chấn 3D.  
Tài liệu sử dụng trong nghiên cứu này là khối địa chấn Maui 3D, bể trầm tích Taranaki, ngoài khơi New Zealand. Mô hình RGT với số  
lượng 400 mặt phản xạ được đưa ra nhanh chóng trong quá trình minh giải. Kết quả cho thấy rõ ràng và chi tiết các đặc điểm địa chất ngay  
cả với khu vực địa chất phức tạp mà phương pháp minh giải địa chấn truyền thống khó minh giải. Ngoài ra, việc tích hợp các thuộc tính  
địa chấn (như Root Mean Square - RMS, Spectral Decomposition…) cho phép minh giải chi tiết hơn về địa tầng, chính xác hóa các yếu tố  
về cấu trúc địa chất, đặc trưng vỉa chứa và môi trường cổ trầm tích, từ đó có thể phát hiện các bẫy chứa địa tầng.  
Từ khóa: Minh giải địa chấn, thuộc tính địa chấn, mặt phản xạ, bẫy chứa địa tầng, bể trầm tích Taranaki.  
1. Giới thiệu  
Gần đây, các kỹ thuật minh giải địa chấn đã phát triển  
ưu hóa quy trình minh giải địa chấn với độ chính xác  
và tin cậy cao hơn. Các mặt địa tầng có tuổi giống  
nhau ở mọi vị trí có thể được đưa ra trên mọi điểm  
của tài liệu địa chấn 3D, cho phép khắc phục hạn chế  
của sự thay đổi pha địa chấn.  
nhanh chóng, giúp xác định các cấu tạo địa chất, phát hiện và  
nghiên cứu đặc trưng của vỉa chứa. Nhìn chung, các phương  
pháp minh giải truyền thống thường phức tạp và tốn nhiều  
thời gian, phụ thuộc vào việc minh giải bằng tay một số tầng  
phản xạ quan trọng. Mặc dù các công cụ liên kết tự động xác  
định độ tương quan biên độ địa chấn (auto-tracking) là tiến  
bộ lớn nhưng phương pháp này chỉ có thể tự động minh giải 1  
tầng phản xạ/lần và chỉ giới hạn trong khu vực có tín hiệu địa  
chấn tốt, rõ ràng, hoặc cấu trúc địa chất đơn giản.  
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả áp dụng  
phương pháp minh giải địa chấn toàn phần và tích  
hợp các thuộc tính địa chấn liên quan như RMS và  
Spectral Decomposition để làm sáng tỏ hình ảnh  
các ranh giới địa tầng, làm nổi bật môi trường trầm  
tích cổ và đặc tính của vỉa chứa trong khối địa chấn  
Maui 3D.  
Nhiều phương pháp minh giải địa chấn mới đã và đang  
được giới thiệu để khai thác triệt để tính 3 chiều của dữ liệu  
và minh giải đồng thời cùng lúc các tầng phản xạ ở trong khối  
địa chấn 3D [2 - 6]. Năm 2009, Pauget và nnk. đề xuất phương  
pháp minh giải địa chấn toàn phần, giúp xây dựng mô hình địa  
chất trực tiếp từ tài liệu địa chấn 3D [1]. Phương pháp giúp tối  
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu  
2.1. Khu vực nghiên cứu  
Taranaki là bể trầm tích lớn nhất ở New Zealand,  
có diện tích 100.000 km2 với độ dày trầm tích Cre-  
taceous-Cenozoic khoảng 10 km (Hình 1). Quá trình  
tách giãn bắt đầu từ cuối Cretaceous và kết thúc  
hoàn toàn trong Paleocene, với sự lắng đọng trầm  
tích nhanh trong các khu vực địa hào, đi cùng với  
Ngày nhận bài: 26/10/2020. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 26/10/2020 - 4/2/2021.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 9/3/2021.  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2021  
45  
CÔNG NGHỆ DẦU KHÍ  
dòng nhiệt cao. Trong thời kỳ từ Paleocene đến Eocence,  
rìa thụ động được hình thành và phát triển trên toàn bộ  
tiểu lục địa, tốc độ lắng đọng chậm cho phép trầm tích  
được tích tụ trên khu vực thềm và đồng bằng ven biển  
trong bể Taranaki [7]. Thời kỳ từ Eocene muộn đến Oligo-  
cene sớm đánh dấu sự thiếu hụt trầm tích hạt vụn. Sau  
đó, bể trầm tích Taranaki trải qua giai đoạn lắng đọng từ  
Oligocene đến Miocene sớm, gây ra bởi sự phát triển của  
ranh giới giữa mảng Australia và Thái Bình Dương ở khu  
vực phía Đông. Tiếp theo là sự phát triển của trầm tích  
đá vôi và sét vôi ở khu vực ngoài của thềm cho đến phần  
trên của biển thẳm [8]. Sự gia tăng của vật liệu trầm tích  
đóng góp vào sự phát triển của hệ thống gờ thềm lục địa  
trong thời kỳ Miocene, dẫn đến sự lắng đọng của cát kết,  
sét, bột kết xen kẽ ở khu vực ngoài thềm. Sự phát triển  
của ranh giới mảng cũng dẫn tới việc tầng móng nghịch  
chờm lên đứt gãy Taranaki và sự hình thành của khu vực  
nghịch chờm Tarata trong thời kỳ Miocene sớm. Cho đến  
giữa thời kỳ Miocene, sự nén ép lên khu vực phía Bắc và rìa  
phía Đông của bể đã giảm xuống, đồng thời với sự phát  
triển của vòng cung núi lửa dưới đáy biển. Trong suốt thời  
kỳ Pliocene, vòng cung núi lửa dịch chuyển về phía Đông  
Nam vào bờ và khu vực phía Bắc của bể Taranaki bắt đầu  
mở rộng, tạo không gian cho sự tiến triển của đường bờ  
trong khoảng Pliocene - Pleistocene và sự bồi tụ trầm tích  
của hệ tầng Giant Foresets ở khu vực địa hào phía Bắc và  
trung tâm của bể Taranaki.  
2.2. Tài liệu địa chấn 3D Maui  
Tài liệu địa chấn 3D Maui có diện tích rộng khoảng  
1.000 km2 (Hình 1) được sử dụng trong nghiên cứu này  
là tài liệu xử lý dịch chuyển theo miền thời gian sau khi  
cộng. Tài liệu địa chấn đã được xử lý ở pha 0 (zero phase),  
trong đó sự gia tăng trở kháng âm học được hiển thị bằng  
biên độ dương (phản xạ đỉnh) và sự giảm trở kháng âm  
học được hiển thị bằng biên độ âm (phản xạ đáy) ở trên  
mặt cắt địa chấn (Hình 2). Khảo sát địa chấn 3D được thực  
hiện với bin size 25 × 25 m, 1.836 mẫu/xung, bước lấy mẫu  
3 ms và thời gian ghi là 5.600 ms. Trong khu vực khảo sát  
địa chấn này, mỏ khí Maui với 17 giếng khoan thăm dò và  
khai thác là một trong những mỏ khí condensate lớn nhất  
New Zealand (Hình 1).  
Hình 1. Vị trí của mỏ khí Maui và khu vực khảo sát địa chấn Maui 3D, bể trầm tích  
Taranaki, New Zealand. Chỉnh sửa từ King và Thrasher (1996), Higgs và nnk. (2012),  
Haque và nnk. [9].  
2.3. Phương pháp minh giải địa chấn toàn phần  
Các phương pháp minh giải địa chấn truyền thống  
gồm minh giải bằng tay (manually-picking) hoặc minh  
giải tự động (auto-tracking) các tầng phản xạ chính trong  
khối địa chấn là quá trình tốn nhiều thời gian và công sức.  
Việc minh giải chi tiết hàng trăm mặt phản xạ (horizon)  
trong khối địa chấn 3D có diện tích hàng nghìn km2, với  
độ tin cậy cao chỉ trong thời gian ngắn là khó khả thi với  
phương pháp minh giải truyền thống.  
Hình 2. Mặt cắt từ tài liệu địa chấn Maui 3D đi qua các giếng khoan Maui (M) 1, 7, 2, 6.  
Đường đứt đoạn màu vàng là những tầng phản xạ N40 và N30 trong Miocene giữa, được  
minh giải từ Thrasher và nnk. [10]. Các đường màu xanh tương ứng với các mặt phản xạ  
số 106, 120, 126 và 248 được đưa ra từ tập mặt phản xạ - Horizon Stack (Hình 5 - 7).  
Để giải quyết vấn đề này, Pauget và nnk. [1] đã nghiên  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2021  
46  
PETROVIETNAM  
Hình 3. Tóm tắt quy trình minh giải: (1) khối địa chấn Maui 3D, (2) 3D Model Grid được xây dựng, trong đó, toàn bộ các tầng phản xạ trong khối địa chấn được minh giải tự động cùng một  
lúc dựa vào độ tương quan của xung địa chấn, khi các điểm lưới màu vàng được kết nối lại trong 2D (a) và 3D (b), (3) Mô hình địa chất Maui - 3D RGT model là kết quả của việc nội suy 3D  
Model Grid.  
Hình 4. (a) 3D Model Grid, trong đó người minh giải có thể tinh chỉnh, sắp xếp theo ý muốn các tầng phản xạ đã được minh giải tự động. (b) Mặt cắt trong mô hình địa chất RGT, chỉ ra sự  
ảnh hưởng của tướng địa chấn lên trên tướng địa chất trong mô hình. Thay vì có giá trị biên độ, các giá trị tuổi địa chất tương đối được chỉ định trong mô hình RGT. (c) Tập mặt phản xạ bao  
gồm các bề mặt địa tầng dày đặc tương ứng với giá trị tuổi địa chất tương đối trong mô hình RGT.  
cứu ứng dụng phương pháp minh giải địa chấn mới, dựa  
trên thuật toán học máy (machine learning) có tên làCost  
function minimisation, bao gồm 2 bước chính sau:  
- Bước 2: Mỗi điểm lưới sẽ đại diện cho mảng phản  
xạ sơ cấp trong 3D, diện tích có thể điều chỉnh theo bin  
size của địa chấn, giúp xác định độ phân giải ngang của  
MDG (Hình 3b).  
- Bước 1: Mạng lưới tầng phản xạ - 3D Model Grid  
(MDG) xây dựng trực tiếp từ khối địa chấn 3D, chứa hàng  
triệu mảng phản xạ sơ cấp (Hình 3). Điều này được thực  
hiện dựa trên hàng triệu điểm lưới được phân bố trong  
khối địa chấn 3D, trên các pha của xung địa chấn như:  
peaks, troughs, zero crossings hoặc inflection points với  
khoảng cách không đổi dựa trên bin size của tài liệu địa  
chấn (Hình 3a). Ví dụ, có thể phân bố các điểm lưới lên  
trên toàn bộ pha peak và trough của xung địa chấn, và cứ  
3 xung địa chấn sẽ có 1 điểm lưới, qua đó có được độ phân  
giải dọc của MDG.  
Sử dụng thuật toán trên [1], các mảng phản xạ sơ cấp  
được kết nối dựa vào độ tương quan của xung địa chấn  
như: tần số, biên độ và khoảng cách trong không gian 3  
chiều. Ví dụ, 2 cực của 2 xung địa chấn cách nhau 3 bin  
size có độ tương quan 30%, 2 điểm lưới đặt trên 2 cực đó  
sẽ được liên kết, đồng nghĩa với 2 mảng phản xạ sơ cấp  
tương ứng với 2 điểm lưới đó cũng sẽ được kết nối lại,  
tạo ra một mảng phản xạ lớn hơn. Với quá trình liên kết  
này, cùng lúc tất cả tầng phản xạ có thể có trong khối địa  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2021  
47  
CÔNG NGHỆ DẦU KHÍ  
chấn 3D sẽ được tự động minh giải (Hình 3a và b), làm bộ  
khung cho mô hình địa chất sau này.  
toàn so với các mặt cắt ngang (time slices) trong khối địa  
chấn 3D. Thuộc tính địa chấn có thể được tính toán nhanh  
và đưa ra ngay trên các mặt phản xạ, như thuộc tính RMS,  
Spectral Decomposition... Những thuộc tính trên được  
tính toán trong khoảng cửa sổ cố định (theo số lượng  
mẫu) cho mỗi mặt phản xạ đã minh giải. Ví dụ, cửa sổ  
thuộc tính là 5 mẫu trong trường hợp khoảng lấy mẫu dọc  
của tài liệu địa chấn là 4 ms nghĩa là cửa sổ thuộc tính có  
độ lớn 20 ms, thuộc tính sẽ được tính toán và đưa ra theo  
cửa sổ +/- 10ms của mỗi mặt phản xạ trong tập mặt phản  
xạ . Phương pháp này đã được áp dụng thành công trong  
nhiều công trình nghiên cứu, khoanh vùng được các bẫy  
dầu khí dạng địa tầng với thân vỉa mỏng, cũng như làm rõ  
hơn hình ảnh của môi trường trầm tích cổ, đứt gãy và các  
đới dập vỡ [5, 11 - 13].  
Thực tế khi 2 mảng phản xạ sơ cấp được kết nối, sẽ  
được chỉ định có cùng “tuổi địa chất tương đối. Vì vậy, tất  
cả tầng phản xạ được minh giải cùng lúc sẽ được sắp xếp  
theo thứ tự địa tầng, không bao giờ cắt hoặc trùng nhau  
nhờ thuật toán nâng cao.  
Trong bước thứ 2, mô hình thời gian địa chất tương  
đối - 3D Relative Geologic Time model - được tính toán từ  
việc nội suy mạng lưới MDG, trong đó, tuổi địa chất tương  
đối sẽ mang tính liên tục và được chỉ định cho mọi điểm  
của khối địa chấn 3D. Vai trò của người minh giải địa chấn  
sẽ là tinh chỉnh và sắp xếp lại các tầng phản xạ được đưa  
ra tự động trong MDG theo ý tưởng phù hợp nhất với mô  
hình địa chất của khu vực nghiên cứu (Hình 3).  
3. Kết quả và thảo luận  
2.4. Tập mặt phản xạ  
Sử dụng phần mềm PaleoScanTM, tất cả tầng phản xạ  
đã được minh giải tự động cùng lúc, theo các pha peak,  
trough, zero-crossing, giảm thiểu tối đa thời gian so với  
các phương pháp minh giải truyền thống. Kết quả thu  
được là mô hình địa chất RGT, được xây dựng trực tiếp từ  
khối địa chấn Maui 3D. Trong quy trình minh giải, bước  
nội suy MDG đóng vai trò quan trọng nhất, chỉ định tuổi  
Từ mô hình địa chất RGT, tập mặt phản xạ (horizon  
stack) bao gồm không giới hạn các bề mặt phân cách địa  
tầng và trên mỗi bề mặt sẽ có tuổi giống nhau ở mọi vị trí,  
có thể được đưa ra để xác định rõ hơn các yếu tố và hiện  
tượng địa chất ở độ phân giải rất cao. Các mặt phản xạ  
này chỉ cách nhau từ 5 - 7 ms (Hình 4) và khác biệt hoàn  
Hình 5. Mặt phản xạ 248 với thuộc tính địa chấn RMS chỉ ra các thông tin, hiện tượng địa chất trong môi trường biển nông được hiển thị một cách chi tiết (vị trí mặt cắt chỉ ra trên Hình 2).  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2021  
48  
PETROVIETNAM  
địa chất tương đối cho mọi điểm của  
khối địa chấn dựa trên những tầng  
phản xạ đã được minh giải tự động,  
tạo nên sự liên tục về tuổi địa chất  
theo không gian và thời gian trong  
mô hình RGT.  
Trong nghiên cứu này, 400 mặt  
phản xạ tương ứng với tuổi địa chất  
tương đối được đưa ra từ mô hình  
RGT. Kỹ thuật minh giải cho phép  
điều hướng khối địa chấn 3D theo  
các mặt phản xạ, đưa ra các thông  
tin nội tầng với độ phân giải rất cao,  
ngay cả với khu vực cấu trúc địa chất  
phức tạp hoặc trong môi trường  
trầm tích phức tạp như trầm tích  
biển nông, trầm tích rìa hoặc biển  
sâu (Hình 5) mà phương pháp minh  
giải truyền thống khó phát hiện  
được.  
(a)  
(b)  
Hình 6. So sánh giữa mặt phản xạ được tính trong khoảng giữa N30 - N40, sử dụng phương pháp truyền thống  
(Iso-proportional slicing) của tác giả Kroeger et al. [14] (a) và mặt phản xạ số 106 trong tập mặt phản xạ với thuộc tính  
địa chấn Spectral Decomposition cho 3 tần số khác nhau được pha trộn cùng lúc (b).  
RGT model  
Inline 200  
Xline 3600  
Horizon 120  
Trong các phương pháp minh  
giải địa chấn truyền thống, thuộc  
tính địa chấn thường được đưa ra  
trên mặt cắt thời gian, hoặc trên các  
mặt phản xạ quan trọng hoặc các  
ranh giới khác được dịch chuyển  
song song với những tầng phản xạ  
quan trọng đó. Phương pháp này  
mất nhiều thời gian và khó có thể  
đưa ra chi tiết về đặc điểm địa chất  
khu vực nhất là khu vực có địa chất  
phức tạp, khi các mặt cắt trong nội  
tầng không đi theo đúng hình dạng  
những mặt phản xạ. Ở nghiên cứu  
này, trong khoảng thời gian ngắn,  
hàng trăm thậm chí hàng nghìn mặt  
phản xạ theo địa tầng có thể được  
đưa ra từ mô hình địa chất RGT và  
cho mọi điểm trong khối địa chấn  
3D. Ngoài ra, khác biệt với phương  
pháp iso-proportional slicing (các  
mặt cắt nội tầng được tạo ra khi chia  
đều tầng địa chất theo tầng phản xạ  
giới hạn đỉnh và đáy), tập mặt phản  
xạ đưa ra các mặt phản xạ, trong  
đó trên mỗi mặt phản xạ có tuổi  
địa chất tương đối theo địa tầng,  
thường liên tục từ trên xuống dưới  
Faults  
Channel systems  
Xline3600  
10 km  
(a)  
RGT model  
Inline 200  
Xline 3600  
Horizon 126  
Faulted area  
Channel systems  
Xline 3600  
10 km  
(b)  
Hình 7. Sử dụng thuộc tính địa chấn Spectral Decomposition với 3 tần số khác nhau để làm rõ hơn sự phát triển của hệ  
thống dòng sông cổ tuổi Miocene giữa trên mặt cắt 120 (a) và 126 (b) trong tập mặt phản xạ.  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2021  
49  
CÔNG NGHỆ DẦU KHÍ  
và đồng tuổi theo diện phân bố ở mọi vị trí. Các bề mặt  
phản xạ này có thể được chỉ ra trong những tầng địa chất  
phức tạp, nhưng vẫn tuân theo tướng địa chấn, là những  
tầng phản xạ được minh giải tự động trong MDG, do đó  
hiển thị tốt hơn và khai thác thông tin tối đa từ tài liệu địa  
chấn 3D (Hình 6).  
Tài liệu tham khảo  
[1] Fabien Pauget, Sébastien Lacaze, and Thomas  
Valding,“Aglobalapproachtoseismicinterpretationbased  
on cost function and minimization, SEG Technical Program  
Expanded Abstracts 2009. DOI: 10.1190/1.3255384.  
[2] Hilde G. Borgos, Thorleif Skov, Trygve Randen, and  
Lars Sonneland,“Automated geometry extraction from 3D  
seismic data, SEG Technical Program Expanded Abstracts  
2003. DOI: 10.1190/1.1817590  
Phương pháp này giúp minh giải địa chấn hiệu quả  
hơn, xác định được mô hình địa chất hoàn toàn nhất quán  
với tài liệu địa chấn 3D, cùng với các mặt phản xạ, hiển  
thị đứt gãy với độ chính xác cao để phục vụ cho bước kế  
tiếp như mô hình hóa cấu trúc địa chất, mô hình tướng…  
(Hình 6 và 7).  
[3] PauldeGroot, ArnaudHuck, GeertdeBruin, Nanne  
Hemstra, and Jonathan Bedford,“The horizon cube: A step  
change in seismic interpretation, The Leading Edge, Vol.  
29, No. 9, pp. 1048 - 1055, 2010. DOI: 10.1190/1.3485765.  
4. Kết luận  
Trong nghiên cứu này, một kỹ thuật minh giải mới  
được giới thiệu và áp dụng lên tài liệu địa chấn 3D để từ  
đó xây dựng trực tiếp mô hình 3D tuổi địa chất tương đối  
RGT. Phương pháp này cho phép đưa ra không giới hạn số  
lượng mặt phản xạ trong những tầng địa chất phức tạp  
theo thứ tự địa tầng, giúp làm nổi bật hơn các thông tin,  
yếu tố, hiện tượng địa chất quan trọng không thể nhìn  
thấy được khi sử dụng các phương pháp minh giải địa  
chấn truyền thống có số lượng giới hạn mặt phản xạ được  
minh giải.  
[4] H.J. Ligtenberg, G. de Bruin, N. Hemstra, and  
C. Geel, “Sequence stratigraphic interpretation in the  
wheeler transformed (flattened) seismic domain, 68th  
EAGE Conference and Exhibition Incorporating SPE EUROPEC  
2006. DOI: 10.3997/2214-4609.201402337.  
[5] Jesse Lomask, Antoine Guitton, Sergey Fomel,  
Jon Claerbout, and Alejandro A. Valenciano, “Flattening  
without picking, Geophysics, Vol. 71, pp. 13 - 20, 2006. DOI:  
10.1190/1.2210848.  
[6] Ingelise Schmidt, Sebastien Lacaze, and  
Gaynor Paton, “Spectral decomposition and geomodel  
Interpretation - Combining advanced technologies to  
create new workflows, 75th EAGE Conference & Exhibition  
Incorporating SPE EUROPEC 2013, London, UK, 10 - 13 June  
2013. DOI: 10.3997/2214-4609.20130567.  
Từ tài liệu địa chấn Maui 3D, bể trầm tích Taranaki,  
ngoài khơi New Zealand, mô hình địa chất RGT đã được  
xây dựng trong khoảng thời gian ngắn, giúp minh giải 400  
mặt phản xạ. Những mặt phản xạ đó được kết hợp với các  
thuộc tính địa chấn như Root Mean Square - RMS và Spec-  
tral Decomposition giúp cho người minh giải xây dựng  
lịch sử phát triển, kiến tạo địa chất trong khu vực nghiên  
cứu. Kết quả minh giải có thể áp dụng trong các bước tiếp  
theo như xây dựng mô hình cấu trúc địa chất cho khu vực  
nói chung và mỏ nói riêng. Việc phân chia các lớp (layer)  
trong mô hình cũng tiệm cận hơn với mô hình địa chất…  
Quy trình minh giải địa chấn này tiết kiệm công sức và rút  
ngắn thời gian, từ đó giúp đẩy nhanh toàn bộ quá trình  
tìm kiếm thăm dò dầu khí, định hình một phương pháp  
minh giải địa chấn mới trong tương lai.  
[7] Peter R. King, “Tectonic reconstructions of New  
Zealand: 40 Ma to the present, New Zealand Journal  
of Geology and Geophysics, Vol. 43, pp. 611 - 638, 2000.  
DOI: 10.1080/00288306.2000.9514913.  
[8] P.R. King and Glenn P. Thrasher, “Cretaceous-  
Cenozoic geology and petroleum systems of the Taranaki  
basin, New Zealand, Institute of geological and nuclear  
sciences, Vol. 13, No. 2, 1996.  
[9] Eahsanul Haque, Aminul Islam, and Mohamed  
Ragab Shalaby, “Structural modeling of the Maui gas  
field, Taranaki basin, New Zealand, Journal of Petroleum  
Exploration and Production Technology, Vol. 43, No. 6, pp.  
965 - 975, 2016. DOI: 10.1016/S1876-3804(16)30114-8.  
Lời cảm ơn  
Kết quả trong nghiên cứu này đạt được từ phần mềm  
minh giải địa chấn PaleoScanTM, phát triển bởi Eliis (www.  
eliis.fr). Nhóm tác giả gửi lời cảm ơn đến Ministry of Busi-  
ness, Innovation, and Employment (MBIE), New Zealand,  
đã cho phép công bố tài liệu địa chấn Maui 3D và anh  
Nguyễn Tiến Thịnh - Viện Dầu khí Việt Nam, đã góp ý giúp  
tác giả hoàn thiện nghiên cứu này.  
[10] Tracy J. Stark, “Relative geologic time (age)  
volumes - Relating every seismic sample to a geologically  
reasonable horizon, The Leading Edge, Vol. 23, No. 9,  
pp. 928 - 932, 2004. DOI: 10.1190/1.1803505.  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2021  
50  
PETROVIETNAM  
[11] Marco Fonnesu, Denis Palermo, Mauro Galbiati,  
Marco Marchesini, Enrico Bonamini, and Daniel Bendias,  
“A new world-class deep-water play-type, deposited  
by the syndepositional interaction of turbidity flows  
and bottom currents: The giant Eocene Coral field  
in northern Mozambique, Marine and Petroleum  
Geology, Vol. 111, pp. 179 - 201, 2020. DOI: 10.1016/j.  
marpetgeo.2019.07.047Ge.  
[14] Karsten F. Kroeger, Glenn P. Thrasher, and  
Monmoyuri Sarma, “The evolution of a Middle Miocene  
deep-water sedimentary system in northwestern New  
Zealand (Taranaki basin): Depositional controls and  
mechanisms, Marine and Petroleum Geology, Vol. 101,  
pp. 355-372, 2019. DOI:10.1016/j.marpetgeo.2018.11.052.  
[15] Lia Turrini, Christopher A-L. Jackson, and Philip  
Thompson, “Seal rock deformation by polygonal faulting,  
offshore Uruguay, Marine and Petroleum Geology, Vol. 86,  
pp. 892-907, 2017. DOI:10.1016/j.marpetgeo.2017.06.038.  
[12] Tony Marsh and Anne Powell, “Regional  
stratal slice imaging of the Northern Carnarvon basin,  
Western Australia, ASEG Extended Abstracts, 2019. DOI:  
10.1080/22020586.2019.12073062.  
[16] Xinming Wu and Dave Hale, “Horizon volumes  
with interpreted constraints, Geophysics, Vol. 80, No. 2,  
2015. DOI: 10.1190/geo2014-0212.1.  
[13] G. Thrasher, H. Seebeck, P. Viskovic, S. Bull, M.  
Sarma, and K. Kroeger,“Time structure grids for the greater  
Maui-Maari-Tui region, Taranaki basin, New Zealand, GNS  
Science Data Series, 2018.  
A BREAKTHROUGH IN 3D SEISMIC INTERPRETATION FOR  
STRATIGRAPHIC RESERVOIR DETECTION  
Nguyen Xuan Thinh1, Ha Quang Man2  
1Eliis Pty Ltd, Australia  
2Petrovietnam Exploration Production Corporation (PVEP)  
Email: manhq@pvep.com.vn  
Summary  
The paper presents theglobal seismic interpretation method, developed by Pauget et al. [1]. A 3D Relative Geologic Time (RGT) model  
was obtained directly from the 3D seismic volume which is the outcome of this method. In the 3D RGT model, the geologic time is continuous,  
and a relative geologic age can be interpolated and assigned for to every voxel of the seismic volume.  
The dataset in this study is the Maui 3D seismic volume from Taranaki Basin, offshore New Zealand. A stack of four hundred continuous  
stratigraphic horizons was quickly produced from the Maui RGT model, showing clearly and in detail the geological features of even  
complicated areas where classical methods failed to achieve good results. Besides, integrated with seismic attributes such as RMS amplitude  
and/or Spectral Decomposition, the horizon stack enables identification of geological elements, stratigraphic insights, and paleo-depositional  
environments in greater detail for stratigraphic reservoir detection and characterisation.  
Key words: Seismic interpretation, seismic attributes, horizon, stratigraphic reservoir, Taranaki basin.  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2021  
51  
pdf 7 trang yennguyen 16/04/2022 3040
Bạn đang xem tài liệu "Đột phá trong minh giải tài liệu địa chấn 3D để phát hiện các bẫy chứa địa tầng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdot_pha_trong_minh_giai_tai_lieu_dia_chan_3d_de_phat_hien_ca.pdf