Bước đầu điều trị di căn gan bằng vi sóng tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh

Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ DI CĂN GAN BẰNG VI SÓNG  
TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  
1
2
3
4
PHẠM HỮU HUẤN , NGUYỄN VĨNH THỊNH , LÊ LÝ TRỌNG HƯNG , PHẠM HÙNG CƯỜNG  
TÓM TẮT  
Mở đầu: Di căn gan thường gặp trong nhiều ung thư nguyên phát. Điều trị di căn gan bao gồm: phẫu  
thuật, hóa trị, xạ trị, đốt nhiệt (sóng cao tần hoặc vi sóng). Bệnh viện Ung Bướu bắt đầu áp dụng phương  
pháp phá hủy bướu bằng vi sóng để điều trị di căn gan. Chúng tôi làm nghiên cứu này để đánh giá hiệu  
quả điều trị và tính an toàn của phương pháp đốt vi sóng (MWA) đối với tổn thương di căn gan.  
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện ở BV Ung Bướu TP HCM, gồm 36 bệnh nhân  
di căn gan (kích thước bướu trung bình 2.5cm; nhỏ nhất 1cm và lớn nhất 5cm).  
Hiệu quả kỹ thuật, tai biến, tái phát tại chỗ được ghi nhận.  
Kết quả: Không có biến chứng nào nghiêm trọng được ghi nhận. Phá hủy u hoàn toàn đạt 72% sau  
MWA lần 1.  
Kết luận: MWA an toàn và hiệu quả. Kỹ thuật này chứng tỏ hiệu quả tốt trong phá hủy bướu tại chỗ.  
Từ khóa: Di căn gan, đốt bướu gan bằng vi sóng.  
MỞ ĐẦU  
Di căn gan thường gặp trong nhiều ung thư  
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Đối tượng nghiên cứu: Gồm 36 bệnh nhân, được  
chẩn đoán di căn gan dựa theo kết quả giải phẫu  
bệnh tại khoa Ngoại 2 - BV Ung Bướu từ 01/2019 -  
06/2020.  
nguyên phát như: đường tiêu hóa, vú, phổi. Lựa  
chọn điều trị dựa trên số lượng bướu, vị trí, kích  
thước và tổng trạng bệnh nhân. Số ít bệnh nhân có  
thể phẫu thuật triệt để. Phần lớn không thể phẫu  
thuật. Khi đó các phương pháp phá hủy khối u tại  
chỗ là lựa chọn thích hợp bên cạnh hóa trị liệu.  
MWA bước đầu được thực hiện tại bệnh viện Ung  
Bướu từ năm 2017 đã cho thấy hiệu quả và an toàn  
trong điều trị ung thư gan nguyên phát. Sau đó bắt  
đầu được áp dụng trong điều trị di căn gan. Chúng  
tôi thực hiện đề tài này nhằm hai mục tiêu: Xác định  
tính hiệu quả (tỉ lệ phá hủy bướu) của bệnh nhân di  
căn gan điều trị bằng MWA và xác định tính an toàn  
(tác dụng phụ và biến chứng) của MWA khi điều trị  
di căn gan.  
Tiêu chuẩn loại trừ  
Không có chỉ định MWA: Huyết khối tĩnh mạch  
cửa, di căn ngoài gan, bướu >5cm hay >3 bướu;  
Có máy tạo nhịp, kẹp phình mạch não, có cấy  
ghép các loại thiết bị điện tử hoặc các vật liệu bằng  
kim loại khác;  
Rối loạn đông máu nặng (tiểu cầu < 50.000/ml,  
PT dài >50% so với chứng);  
Đang có bệnh nhiễm trùng;  
Đang có thai hay cho con bú;  
Có bệnh mãn tính phối hợp nặng;  
Ngày nhận bài: 1/10/2020  
Ngày phản biện: 03/11/2020  
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020  
Địa chỉ liên hệ: Phạm Hữu Huấn  
Email: phamhuuhuandr@gmail.com  
1 BSCKI. Khoa Ngoại ngực, bụng - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM  
2 BSCKI. Khoa Nội soi siêu âm - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM  
3 BS. Khoa Nội soi siêu âm - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM  
4 PGS.TS. Phó Trưởng Bộ môn Ung thư Đại học Y Dược TP. HCM,  
Trưởng Khoa Ngoại ngực, bung - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM  
277  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
Thể trạng kém (PST >2).  
Phương pháp nghiên cứu  
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.  
Thông số  
Giá trị  
Tuổi  
57 ± 11 (26 - 76)  
(Trung bình - thấp nhất - cao nhất)  
Giới tính (Nam/Nữ)  
14/22  
36 ± 15  
36 ± 22  
36/0/0  
Số liệu được ghi nhận vào phiếu thu thập dữ  
liệu.  
ALT  
AST  
Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS  
16.0.  
Child - Pugh (A/B/C)  
CEA  
24 ± 32  
Phương tiện nghiên cứu  
Máy phá hủy vi sóng AveCure do hãng  
Medwaves của Mỹ. Máy đốt bướu trực tiếp bằng vi  
sóng có tần số phát vi sóng từ 902 đến 928MHz.  
Sử dụng kim đốt 14G hay 16G có anten dài 1cm,  
2cm hay 4cm.  
Tuổi trung bình của bệnh nhân là 57 tuổi, nữ  
nhiều gấp 1,5 lần nam. Đa số các bệnh nhân không  
tăng AST, ALT và tất cả đều có chức năng gan tốt.  
Phần lớn bệnh nhân ung thư đại trực tràng có CEA  
trong giới hạn bình thường.  
Tiến hành  
Bảng 2. Đặc điểm bướu  
Giảm đau bằng lidocain 2% kết hợp Fentanyl  
tiêm tĩnh mạch chậm. Lập lại nếu bệnh nhân còn  
đau.  
Thông số  
Kích thước (cm)  
Giá trị  
2.5 ± 2 (1 - 5)  
Trung bình - thấp nhất - cao nhất  
Số lượng bướu (1/2/3)  
Chọn anten theo kích thước bướu: Chọn anten  
có đầu đốt 2cm cho bướu nhỏ hơn 3cm, chọn anten  
có đầu đốt 3cm cho bướu lớn hơn 3cm.  
1.5 ± 1 ( 1 - 3)  
Trung bình - thấp nhất - cao nhất  
Vị trí: (Phải/ trái/ 2 bên)  
Cài đặt thông số: Theo loại anten.  
28/5/3  
26/7/3  
Số ca: ĐTT/ Vú/ khác  
Thực hiện Corebiposy bướu ngay trước khi đốt  
với các trường hợp chưa có kết quả GPB.  
Tất cả bệnh nhân chỉ có ≤ 3 u, mỗi u ≤ 5cm.  
Tổn thương di căn gặp nhiều hơn hẳn ở gan phải và  
gặp nhiều nhất ở nhóm bệnh nhân ung thư đại trực  
tràng.  
Dưới hướng dẫn siêu âm, đưa điện cực vào  
mép xa của bướu và phá hủy phần xa trước, phần  
gần sau cho đến khi phá hủy toàn bộ bướu. Ghi  
nhận và điều trị các triệu chứng có thể xảy ra sau khi  
làm MWA như xuất huyết, đau bụng, sốt, mệt, buồn  
nôn, chóng mặt, khó thở. Khám lâm sàng và xét  
nghiệm AST, ALT, TPTTBM sau 1 ngày. Chụp CT  
Scan (MRI nếu cần) và xét nghiệm CEA sau 1 tháng  
để đánh giá hiệu quả phá hủy bướu. Nếu phá hủy  
hoàn toàn, sẽ hội chẩn xét chỉ định hóa trị hỗ trợ.  
Nếu phá hủy không hoàn toàn, xét chỉ định MWA  
lần 2.  
Bảng 3. Đặc điểm lâm sàng trong khi làm MWA  
Triệu chứng trong khi làm MWA  
Tỉ lệ (%)  
Đau vùng gan ít/ vừa  
100  
Tất cả các bệnh nhân đều thấy đau trong và  
sau khi đốt. Mức độ đau tử nhẹ đến vừa.  
Bảng 4. Phá hủy bướu hoàn toàn sau MWA  
Ghi nhận và xử trí các biến chứng có thể xảy ra  
sau khi làm MWA.  
Số lượng phá hủy bướu Tỉ lệ phá hủy bướu  
N: 36 ca  
hoàn toàn  
hoàn toàn (%)  
Sau 1 lần  
MWA  
Tổng hợp, phân tích kết quả.  
26  
72  
Khoảng 26% số ca đáp ứng hoàn toàn sau lần  
MWA đầu tiên. Thời gian thực hiện trung bình  
19 ± 8 phút (từ 7.5 - 37 phút)  
.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  
Bảng 5. Biến chứng của MWA  
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân  
Biến chứng  
Số bệnh nhân Tỉ lệ (%)  
278  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
Việc phá hủy bướu cũng làm tăng men gan sau  
đốt. Nghiên cứu ghi nhận AST, ALT tăng hơn 5 lần  
sau đốt. Tình trạng này chỉ thoáng qua và trở về  
bình thường sau 1 tháng mà không cần điều trị.  
Tràn dịch màng phổi.  
Biến chứng nhẹ Bỏng da thành bụng.  
Tụ máu bao gan  
1
0
0
1
0.02  
0
0
Tổng số  
0.02  
Biến chứng  
Chỉ một trường hợp có biến chứng, biến chứng  
tràn dịch màng phổi gặp phải là tràn dịch lượng ít và  
không cần can thiệp.  
Biến chứng thường gặp trong nghiên cứu của  
chúng tôi là đau, thường xảy ra khi bướu nằm gần  
bề mặt gan. Đau thường ở mức độ nhẹ hay vừa,  
thời gian từ 3 tới 5 ngày và được kiểm soát với  
thuốc giảm đau thông thường. Số ít bệnh nhân đau  
kéo dài 1 tháng. Biện pháp khắc phục là sử dụng  
power mode với mức năng lượng thấp và phủ bông  
tẩm cồn quanh chân điện cực.  
BÀN LUẬN  
Đặc điểm khối bướu gan  
Chúng tôi thực hiện MWA cho 36 bệnh nhân.  
Đa số bệnh nhân có 1 bướu (61%), 2 bướu là 30%  
chủ yếu phân bố ở gan phải (78%), cả hai bên (8%),  
kích thước từ 1 - 5cm (100%). Đặc điểm trên lý  
tưởng để chỉ định các phương pháp can thiệp tối  
thiểu như MWA. Tất cả bệnh nhân có Child Pugh A.  
Hầu hết bệnh nhân được chỉ định MWA có ung thư  
di căn từ đại trực tràng (72%) và vú (19%).  
Chúng tôi chỉ ghi nhận 1 trường hợp tràn dịch  
màng phổi lượng ít, không cần can thiệp dẫn lưu.  
Phá hủy bướu hoàn toàn  
Tiêu chuẩn đánh giá phá hủy bướu hoàn toàn  
sau điều trị bằng phương pháp phá hủy MWA là  
không có vùng tăng sinh mạch máu ở thì động mạch  
trên CT scan bụng và/ hoặc không có vùng tăng tín  
hiệu thì động mạch ở T1 của MRI. Tại thời điểm tái  
khám sau 1 tháng, nếu đạt tiêu chuẩn trên thì được  
xem là thành công về mặt kỹ thuật. Trong nghiên  
cứu của chúng tôi tỉ lệ phá hủy bướu hoàn toàn sau  
1 lần đốt là 72%.  
Tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu đều có kết  
quả giải phẫu bệnh là carcinoma di căn gan. Các  
trường hợp được chẩn đoán theo dõi di căn gan và  
thực hiện sinh thiết nhưng kết quả âm tính bị loại  
khỏi nghiên cứu, do đó chỉ có 36 trường hợp được  
khảo sát trong nghiên cứu này.  
Triệu chứng lâm sàng trong khi MWA  
Phá hủy bướu không hoàn toàn  
Đau là triệu chứng nổi bật trong suốt quá trình  
điều trị. Mức độ đau từ nhẹ đến vừa. Đau nhiều hơn  
khi sử dụng điện cực lớn, mức năng lượng cao, mức  
nhiệt độ cao. Nhất là khi đốt bướu sát bề mặt gan  
hay cắm điện cực gần mạch máu lớn.  
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 28% trường  
hợp thất bại kỹ thuật sau 1 lần đốt và 2 trường hợp  
phá hủy bướu không hoàn toàn sau 2 lần đốt.  
Các trường hợp phá hủy không hoàn toàn sau 2 hay  
3 đợt điều trị hoặc tiến triển nhiều tổn thương mới sẽ  
được chuyển qua hóa trị.  
Triệu chứng lâm sàng sau điều trị  
Diễn biến lâm sàng sau đốt có thể thay đổi từ  
nhẹ đến nặng tùy thuộc vào kích thước bướu, vị trí  
và biến chứng. Ở bệnh nhân không có biến chứng,  
thường gặp đau vùng gan, sốt nhẹ, mệt mỏi do hiện  
tượng hoại tử đông khởi phát hiện tượng viêm.  
MWA thường gây sốt nhẹ, kéo dài không quá 7 ngày  
do thể tích phá hủy tương đối nhỏ. Nếu bệnh nhân  
sốt cao, kéo dài hơn 7 ngày nên cảnh giác biến  
chứng như áp xe gan. MWA thường gây đau tại vị trí  
đưa điện cực qua da, đau vùng gan hay lan vai phải  
(bướu hạ phân thùy VII, VIII). Có thể đau nhiều nếu  
bướu nằm gần bao gan, thể tích nhu mô phá hủy  
lớn, có biến chứng xảy ra như tụ máu bao gan, tụ  
máu trong gan, viêm túi mật. Khi đau lan khỏi vùng  
gan và kéo dài nên nghĩ đến biến chứng. Buồn nôn,  
nôn chủ yếu do tác dụng phụ của fentanyl sử dụng  
trong đốt hay thuốc giảm đau sau đốt và sẽ giảm  
nhanh theo thời gian.  
Thay đổi CEA sau điều trị  
63% bệnh nhân ung thư đại trực tràng có CEA  
bình thường trước điều trị và CEA thay đổi không  
đáng kể sau điều trị. Do đó, CEA trong các trường  
hợp này không có giá trị trong theo dõi diễn tiến  
bệnh cũng như đánh giá hiệu quả phá hủy hoàn toàn  
bướu. Ở các bệnh nhân có hàm lượng CEA tăng  
trước khi điều trị, việc CEA giảm mạnh, nhất là giảm  
đến ngưỡng bình thường là dấu hiệu khẳng định  
hiệu quả phá hủy bướu hoàn toàn. Nếu CEA vẫn  
cao sau MWA thì đó là dấu hiệu xác định bướu vẫn  
còn tiến triển hay có tổn thương mới ở nơi khác.  
KẾT LUẬN  
Nghiên cứu ban đầu điều trị 36 bệnh nhân di  
căn gan có kích thước bướu trung bình 2.5cm bằng  
279  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
kỹ thuật MWA cho thấy MWA có hiệu quả và an toàn  
trong điều trị di căn gan.  
3. Jones C, Badger SA, Ellis G. The role of  
microwave ablation in the management of  
hepatic colorectal metastases. Surgeon. 2011;  
9: 33 - 7.  
Tỉ lệ phá hủy u gan 72%.  
Tỉ lệ tai biến 0,02%.  
4. Simon CJ, Dupuy DE, MayoSmith WW.  
Microwave ablation: principles and applications.  
Radiographics 2005; 25 (Suppl 1): S69 - S83  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Liu LX, Zhang WH, Jiang HC. Current treatment  
for liver metastases from colorectal cancer.  
World J Gastroenterol 2003; 9: 193 - 200  
5. Yaoping Shi, Zhenyu Wang, Jiachang Chi,  
Donghua Shi, Tao Wang, Dan Cui, Yan Lin, Bo  
Zhai, Long - term results of percutaneous  
2. Livraghi T., Meloni F., Solbiati L., Zanus  
G.(2011) “Complications of Microwave Ablation  
for Liver Tumors:Results of a Multicenter Study”.  
Cardiovasc Intervent Radiology. Published  
online: 11 August 2011.  
microwave  
ablation  
for  
colorectal  
liver  
metastases, HPB, 10.1016/j.hpb.2020.04.007,  
(2020).  
280  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
ABSTRACT  
Efficaty of microwave ablation on treatment in liver metastasic  
at Ho Chi Minh City of Oncology Hospital  
Background: Liver metastases are a common manifestation of many primary cancers. Options for  
treatment include surgical resection, systemic chemotherapy, external beam radiotherapy, thermal ablation  
techniques (such as radiofrequency or microwave). For the first time, microwave ablation applied for liver  
metastases in HCM City Oncology Hospital. To evaluate therapeutic efficacy and the safety of microwave  
ablation (MWA) to treat liver metastases.  
Methods: In this Descriptive cross-sectional study, 36 patients with liver metastases (2.5cm; range, 1-5  
cm) were enrolled. Technical effectiveness, complication, local progression were determined.  
Results: There were no major complications. Technical effectiveness was achieved in of tumors (72%)  
after the first MWA.  
Conclusion: MWA is safe and efficient. This method showed the excelent locally detroying effectiveness  
on the treatment of liver metastases.  
Keywords: Liver metastases; microwave ablation.  
281  
pdf 5 trang yennguyen 15/04/2022 4300
Bạn đang xem tài liệu "Bước đầu điều trị di căn gan bằng vi sóng tại bệnh viện ung bướu thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbuoc_dau_dieu_tri_di_can_gan_bang_vi_song_tai_benh_vien_ung.pdf