A successfully treated case of acute arsenic poisoning at the Vietnam national children’s hospital

Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 5, No. 2 (2021) 66-71  
Case Report  
A Successfully Treated Case of Acute Arsenic Poisoning at  
the Vietnam National Children’s Hospital  
Pham Thi Thanh Tam*, Phan Viet Hai, Nguyen Thi Nga,  
Duong Dinh Cua, Nguyen Thi Mai  
Vietnam National Childrens Hospital, 18/879 La Thanh, Dong Da, Hanoi, Vietnam  
Received 21 February 2021  
Revised 2 March 2021; Accepted 5 April 2021  
Abstract  
Arsenic is a poisoning metallic element, in which trivalent inorganic arsenic compounds are  
considered unique. Children can be exposed from arsenic containing water, food and folk  
remedies with unclear ingredients. The main toxic mechanism of As3+ is inhibition of the  
pyruvate dehydrogenase (PDH) complex, which leads to decrease in acetyl-CoAproduction,  
decreaseincellularrespirationandfreeoxygenradical(O-)andhydrogenperoxide(H2O2)are  
born, which make cytotoxic. Arsenic poisoning causes damage to multiple organs: keratosis  
of the skin, nail and squamous cell cancer, neuropathy, repolarization of the myocardium,  
liver damage and subsequent sequelae. Arsenic poisoning has no specific symptoms, so it  
is easy to overlook, especially in children. The epidemiological exploitation and history of  
poisoning drugs are very important to avoid missing arsenic poisoning. We report a case of  
successfully treated arsenic poisoning at the Vietnam National Children’s Hospital.  
*
Corresponding author.  
E-mail address: ochot1985@gmail.com  
66  
P.T.T. Tam et al./Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 5, No. 2 (2021) 66-71  
67  
Báo cáo một trường hợp ngộ độc Asen cấp tính được điều trị  
thành công tại Bệnh viện Nhi Trung ương  
Phạm Thị Thanh Tâm*, Phan Viết Hải, Nguyễn Thị Nga,  
Dương Đình Của, Nguyễn Thị Mai  
Bệnh viện Nhi Trung ương, 18/879 La Thành, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam  
Nhận ngày 21 tháng 2 năm 2021  
Chỉnh sửa ngày 02 tháng 3 năm 2021; Chấp nhận đăng ngày 05 tháng 4 năm 2021  
Tóm tắt  
Asen là một á kim gây ngộ độc, trong đó, hợp chất asen vô cơ hóa trị ba được coi là độc  
nhất. Trẻ em có thể bị phơi nhiễm từ nguồn nước, thực phẩm và bài thuốc dân gian chứa  
asen. Cơ chế gây độc chính của As3+ là ức chế phức hợp pyruvate ehydrogenase (PDH),  
dẫn tới giảm sản xuất acetyl-CoA, giảm hô hấp tế bào và sinh các gốc oxygen tự do (O-)  
và hydrogen peroxide (H2O2) gây độc tế bào. Ngộ độc asen gây tổn thương đa cơ quan:  
sừng hóa da, móng và ung thư tế bào gai, bệnh lý thần kinh, rối loạn tái cực của cơ tim, tổn  
thương gan và để lại nhiều di chứng sau này. Ngộ độc asen không có triệu chứng đặc hiệu  
nên rất dễ bỏ sót đặc biệt ở trẻ em. Việc khai thác dịch tễ, tiền sử dùng thuốc gây ngộ độc  
rất quan trọng để tránh bỏ sót ngộ độc asen. Chúng tôi báo cáo một trường hợp ngộ độc cấp  
asen điều trị thành công tại Bệnh viện Nhi Trung ương.  
I. Giới thiệu ca bệnh  
bình thường. Trẻ được điều trị kháng sinh và  
vitamin K1 trong 2 ngày, tình trạng không cải  
thiện chuyển Bệnh viện Nhi Trung ương.  
Tiền sử: con lần đầu, đẻ thường, đủ tháng,  
cân nặng lúc sinh 3 kg, tiêm phòng vaccin  
đầy đủ theo lịch của trung tâm y tế xã. Phát  
triển thể chất, tinh thần bình thường. Trẻ bị  
co giật do sốt lúc 8 tháng và co giật lúc 11  
tháng, 24 tháng tuổi không rõ nguyên nhân,  
Trẻ nữ 3 tuổi, dân tộc H’mông, tại Sơn La  
vào viện vì co giật, li bì. Bệnh diễn biến 5  
ngày, trẻ khởi đầu ho, chảy nước mũi trong  
không rõ sốt. Trước vào viện 3 ngày, trẻ xuất  
hiện 2 cơn co giật toàn thể, mắt trợn ngược,  
mỗi cơn kéo dài 30 giây. Sau co giật, trẻ lơ  
mơ, được điều trị tại Bệnh viện Đa khoa  
tỉnh Sơn La với chẩn đoán: Viêm phổi - Suy được ông nội cho dùng thuốc dân gian tại địa  
phương: mài đá đỏ thành bột, đun sôi cùng  
lông gà để uống mỗi khi co giật;  
gan cấp, xét nghiệm: (AST/ ALT 2270/3440  
mmol/L), rối loạn đông máu (PT 42%, APTT  
31s), kết quả dịch não tủy: 13 tế bào, sinh hóa  
Tại Bệnh viện Nhi Trung ương: đường thở  
thông thoáng, trẻ tự thở, SpO2 95-97%, phổi  
thông khí đều 2 bên, có ít ran phế quản. Nhịp  
tim chậm, 73-80 chu kỳ/ phút, nhịp xoang  
không đều, huyết áp 104/70/78 mmHg,  
*
Tác giả liên hệ  
E-mail address: ochot1985@gmail.com  
68  
P.T.T. Tam et al./Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 5, No. 2 (2021) 66-71  
Hình 1. Ảnh thuốc dân gian cản quang trên phim Xquang  
mạch quay rõ, refill 2s, chi ấm. Trẻ hôn mê, thường. Chẩn đoán sơ bộ: Hội chứng tăng áp  
Glasgow 8 điểm, đồng tử 2x2 mm, phản xạ lực nội sọ - Suy gan cấp / Theo dõi viêm não  
ánh sáng (+), không rõ liệt khu trú, không chưa loại trừ ngộ độc cấp. Trẻ được đặt nội  
co giật. Trẻ sốt cao 40 độ, bụng chướng khí quản, thở máy, điều trị tăng áp lực nội sọ,  
hơi, không vàng da, không xuất huyết dưới dùng kháng sinh, và điều trị hỗ trợ chức năng  
da. Các thăm khám khác chưa phát hiện bất gan. Các xét nghiệm được tiến hành cho thấy:  
Bảng 1. Rối loạn chức năng gan, rối loạn đông máu  
GPT  
UI/L  
GOT Pro Alb Bil Bil  
UI/L g/l g/l TP TT mmol/l ug/dL  
Calci  
NH3  
PT % PTs  
Vào viện 2352,3 2608 59,5 34,2 5,7 1,9  
Ra viện 142,6 140,1 61,6 35,6 2,9 0.0  
2,10  
2,36  
51,5  
56% 19.7  
85% 13.0  
Bảng 2. Các xét nghiệm tìm ổ nhiễm khuẩn  
WBC G/l  
11,26  
11,77  
NEUT %  
Hb g/l  
PLT T/l  
CRP mg/L  
Vào viện  
Ra viện  
68,9  
71,2  
119  
97  
171  
453  
12,27  
0,18  
Xquang phổi: Tăng đậm nhánh phế quản rốn phổi hai bên.  
Kết quả dịch não tủy: 0 tế bào, Protein: 0,16 g/l, Pandy (-), Glucose: 4,89mmol/l, vi sinh  
dịch não tủy âm tính.  
Hình 2. Tổn thương vỏ não và dưới vỏ hai bán cầu đại não trên MRI  
P.T.T. Tam et al./Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 5, No. 2 (2021) 66-71  
69  
Điện não đồ: Sóng chậm 2 bán cầu, bên methyl mononatri), dung dịch xử lí gỗ chống  
phải biên độ cao hơn bên trái  
mối mọt, côn trùng bằng asenat đồng crôm  
hóa (tanalith) [2], hoặc dùng các thuốc tây y  
(Arsphenamin điều trị giang mai, Trioxit asen  
(hay còn gọi là Thạch tín), trong điều trị mụn  
trứng cá, hay ung thư, đặc biệt là bạch cầu  
cấp dòng tủy và kháng lại ATRA (Tretionin)),  
đông y (an cung ngưu hoàng hoàn) có chứa  
asen [3]. Asen trioxit (thạch tín) là một loại  
quặng asen vô cơ, chứa nhiều tạp chất, được  
người dân địa phương mài, nghiền thành bột  
và trộn vào cơm, thức ăn, đun lên làm thuốc.  
Bởi họ nghĩ rằng thạch tín làm tăng sức đề  
kháng cho trẻ em. Đặc biệt những người sống  
trên núi cao, không khí pha loãng, việc sử  
dụng thạch tín làm họ cảm thấy dễ thở hơn.  
Những bệnh nhân nhiễm độc asen thường  
bị các bệnh mạn tính trước đó như: hen phế  
quản, vảy nến, tiêu chảy kéo dài, động kinh…  
mà không được theo dõi, kiểm soát bệnh bằng  
thuốc tây y.  
Asen dễ dàng được các tế bào hồng cầu  
hấp thụ và nhanh chóng phân phối đến các  
mô khác. Nồng độ đỉnh của asen trong huyết  
thanh đạt đỉnh sau 30-60 phút, thải trừ qua  
3 giai đoạn: giai đoạn 1 (2 đến 3 giờ): Rất  
nhanh trong đó hơn 90% đào thải khỏi máu  
trong hai đến ba giờ đầu tiên qua thận. t1/2  
1-2h. Giai đoạn 2 (3h đến 7 ngày): ước tính  
t1/2 30 giờ. Giai đoạn 3 ( lớn hơn 10 ngày):  
thải trừ rất chậm trong máu với ước tính t1/2  
300 giờ [1,2]. Vì vậy, xét nghiệm máu kém  
tin cậy hơn và phụ thuộc nhiều hơn vào xét  
nghiệm nước tiểu trừ những trường hợn ngộ  
độc cấp tính sớm.  
Các xét nghiệm virus viêm gan: âm tính  
Siêu âm tim: cấu trúc tim bình thường  
Điện tâm đồ: nhịp xoang không đều, tần số  
trung bình 101 chu kỳ/phút, QTc 415ms, QTc  
max 544ms, không có ngoại tâm thu nhĩ hoặc  
thất, không có khoảng ngưng xoang >2s.  
Tổng phân tích nước tiểu: bình thường  
Các xét nghiệm về độc chất  
Thành phần chủ yếu trong mẫu thuốc là  
Asen. Nồng độ Asen máu: 24,91 mcg/L;  
Nồng độ Asen niệu: 30542 mcg/L;  
Nồng độ chì máu: 4,41 mcg/dL  
Chẩn đoán xác định: Hội chứng não cấp/  
Suy gan cấp/Ngộ độc Asen.  
Sau 5 ngày thở máy, điều trị tăng áp lực  
nội sọ, dùng thuốc Mifros (D-penicilamine)  
liều 10mg/kg/ ngày * 2 lần/ngày để gắp  
Asen, cùng hỗ trợ chức năng gan, tình trạng  
bệnh nhân cải thiện dần: cai máy thở, men  
gan giảm dần, chức năng đông máu về bình  
thường. Trẻ được xuất viện sau 9 ngày điều  
trị, tiếp tục uống Mifros (D-penicilamine)  
ngoại trú.  
II.Thảo luận  
Asen là một á kim gây độc. Dạng tồn tại  
phổ biến dưới dạng các hợp chất vô cơ, hữu  
cơ và arsine (AsH3). Chúng được phân loại  
theo hóa trị: nguyên tố (0), asenit (hóa trị ba;  
+3) và asenat (hóa trị năm; +5). Đặc biệt các  
hợp chất vô cơ của asen có hóa trị ba được  
coi là độc nhất [1], asen hữu cơ được coi là  
không độc. Asen ở dạng dung dịch độc hơn  
(vì dễ hấp thụ hơn) dạng asen không hòa tan.  
Asen ban đầu được phân bố đến gan, thận,  
cơ, da và cuối cùng đến tất cả các mô kể cả  
Đối với trẻ em, ngộ độc asen thường do mô não. Asen cũng đi qua hàng rào nhau  
ăn phải thực phẩm có chất tạo màu chứa asen thai và có thể tích tụ trong bài thai. Cơ quan  
(asenat đồng), uống nhầm dung dịch thuốc đích chính gây độc là đường tiêu hóa, da, tủy  
trừ sâu có chứa asen (asenat hidro chì, asenat xương và hệ thần kinh ngoại vi. Chính vì vậy,  
70  
P.T.T. Tam et al./Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 5, No. 2 (2021) 66-71  
ngộ độc Asen có biểu hiện lâm sàng rất đa đó chính là hình ảnh cản quang trên phim gói  
dạng với tổn thương đa cơ quan có thể gây  
suy đa tạng nguy cơ dẫn đến tử vong [3].  
Cơ chế chính của As3+ ban đầu ức chế  
phức hợp pyruvate dehydrogenase (PDH)  
trong con đường chuyển hóa, gây giảm sản  
xuất ra acetyl-CoA, qua đó giảm sản xuất  
adenosine triphosphate (ATP), sản sinh các  
gốc oxygen tự do (0-) và hydrogen peroxide  
(H202) - gây độc tế bào. Ngoài ra asen hóa trị  
ba ảnh hưởng đến sự tái cực của cơ tim, gây  
QT kéo dài, xoắn đỉnh [4,5].  
Triệu chứng ngộ độc asen cấp tính xuất  
hiện sau vài phút đến vài giờ, khởi phát ở hệ  
tiêu hóa (nôn, đau bụng, tiêu chảy, phân có  
nhiều hạt như hạt gạo lẫn máu) [3]; rối loạn  
nhịp tim với QTc kéo dài ( khoảng QTc thường  
lớn hơn 500ms) với các lần xoắn đỉnh tiếp  
theo [4]. Co giật, hội chứng não cấp, hôn mê,  
hay gặp trong ngộ độc asen liều lớn [6]. Tổn  
thương da gồm: rụng tóc từng mảng, loạn sản  
tế bào sừng ở móng tay, đường Mee’s (vân  
ngang móng). Giai đoạn muộn của ngộ độc  
thuốc bệnh nhân uống, tiếp theo đó, khi phân  
tích mẫu thuốc tại viện Hóa học quốc gia,  
phát hiện thấy thành phần chính là asen vô cơ  
lẫn một số tạp chất khác. Bệnh nhân đã được  
lấy mẫu máu - với nồng độ Asen 24,91 mcg/L  
vượt quá nồng độ cho phép của WHO (10  
μg/L), mẫu nước tiểu tươi - với nồng độ asen  
rất cao 30542mcg/L. Bên cạnh đó, chúng tôi  
cũng định lượng các kim loại nặng khác từ  
mẫu máu của bệnh nhân, nhưng kết quả cho  
thấy, bệnh nhân nhiễm asen đơn thuần mà  
không đồng nhiễm cùng các kim loại nặng  
khác. Một câu hỏi khác đặt ra là: trẻ đã được  
dùng một loại quặng của asen từng đợt, từ  
khi 8 tháng tuổi mỗi khi co giật, vậy đây là  
ngộ độc asen cấp tính hay mạn tính? Điều này  
chưa hoàn toàn được lí giải. Các triệu chứng  
xuất hiện cấp tính với hội chứng não cấp kèm  
theo tình trạng suy gan cấp, không phát hiện  
thấy tổn thương trên da, móng tay, móng chân  
của bệnh nhân. Bên cạnh đó, xét nghiệm công  
thức máu không có giảm 3 dòng tế bào máu.  
asen (1-4 tuần), gây giảm 3 dòng tế bào máu Định lượng asen máu cao. Điều đó chứng tỏ  
[2]. Trường hợp bệnh nhi này được phát hiện tình trạng ngộ độc asen cấp tính hoặc đợt cấp/  
ngộ độc asen vào ngày thứ 6-giai đoạn 2 của  
bệnh (1-7 ngày) với các biểu hiện: Hội chứng  
não cấp (co giật, hôn mê Glasgow 8 điểm)  
có tăng áp lực nội sọ (mạch chậm, huyết áp  
tăng so với tuổi), tăng men gan >2000 IU/L,  
Prothrombin giảm nhẹ (56%), rối loạn nhịp  
tim với khoảng QTc kéo dài.  
Các xét nghiệm chẩn đoán ngộ độc asen  
gồm nồng độ asen trong máu và nước tiểu.  
Cần lấy mẫu tóc và móng để xác định nồng  
độ asen để xác định thời gian dài tiếp xúc với  
asen vô cơ. Chẩn đoán xác định khi giá trị  
nồng độ asen trong nước tiểu 24 giờ lớn hơn  
50 μg/L; hoặc mẫu nước tiểu tươi chứa >1000  
ngộ độc asen mạn tính. Cần tiếp tục phân tích  
asen trong tóc và móng tay để xác định thời  
gian nhiễm asen của bệnh nhi [2].  
Điều trị ngộ độc asen, ba loại thuốc gắp  
kim loại phổ biến là dimercaprol (BAL),  
meso-2,3-dimercapto-1-propane sulfonate  
(succumer), và D-penicilamine [8]. Hiện nay,  
tại Bệnh viện Nhi Trung ương chỉ có duy nhất  
D-penicilamine (Mifros) - thuốc tạo phức với  
kim loại Cu, Hg, Zn, Pb làm tăng thải trử các  
kim loại này qua nước tiểu.  
III. Kết luận  
Khai thác bệnh sử, tiền sử thường quy  
mcg/L [1] [7]. Ở bệnh nhân của chúng tôi, gợi trong thăm khám lâm sàng, đặc biệt trong  
ý đầu tiên để nghĩ đến ngộ độc kim loại nặng lĩnh vực Nhi khoa. Hỏi bệnh kết hợp với lâm  
P.T.T. Tam et al./Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 5, No. 2 (2021) 66-71  
71  
sàng vô cùng quan trọng. Asen dễ dàng hấp  
thụ và phân bố đến các cơ quan khác đặc biệt  
cơ quan đích như da, đường tiêu hóa, tủy  
xương và hệ thống thần kinh. Vì vậy, ngộ độc  
asen có thể gây tổn thương đa cơ quan để lại  
di chứng nặng nề.  
1485.  
[4] Drolet B, Simard C, Roden DM.  
Unusual Effects of a QT-Prolonging  
Drug, Arsenic Trioxide, on Cardiac  
Potassium  
Currents.  
Circulation  
CIR.0000109484.00668.CE. Epub 2003  
Dec 22.  
Do tính chất thải trừ nhanh của asen, ưu  
tiên xét nghiệm nồng độ asen trong nước tiểu  
trừ một số trường hợp nghi ngờ, mạn tính có  
thể xét nghiệm qua máu, tóc hoặc da. Điều  
trị bằng thuốc gắp kim loại : dimercaprol  
(BAL) và meso-2,3- dimercapto -1-propane  
sulfonate (DMSA, succumer). Quan trọng  
nhất, phát hiện và dừng được nguồn phơi  
nhiễm asen tại địa phương.  
[5] Wang CH, Chen CL, Hsiao CK et al.  
Increased risk of QT prolongation  
associated  
with  
atherosclerotic  
diseases in arseniasis-endemic area in  
southwestern coast of Taiwan. Toxicol  
Appl Pharmacol 2009;239(3):320-324.  
[6] Fincher RE, Koerker RM. Long-  
Term Survival in Acute Arsenic  
Tài liệu tham khảo  
[[1] Nelson LS, Howland MA L.N.  
Goldfrank’s Toxicologic Emergencies,  
11th ed, McGraw-Hill Education, New  
York 2019:1237.  
[2] Bose AJC, Guha D. Diagnosis and  
treatment of chronic arsenic poisoning  
2000:35-45.  
Encephalopathy  
1987;82:549-552.  
[7] Caussy, Deoraj. A Field Guide for  
Detection, management and surveillance  
of arsenicosis in South-East Asia region.  
World Heal Organ Reg Off South-East  
Asia 2006;(32):45.  
[3] Baker BA, Cassano VA, Murray C.  
Arsenic Exposure, Assessment, Toxicity,  
Diagnosis, and Management. Journal  
of Occupational and Environmental  
[8] Kosnett MJ. The Role of Chelation in  
the Treatment of Arsenic and Mercury  
Poisoning. J Med Toxicol 2013;  
2018;60(12):e634-e639.  
013-0344-5.  
Medicine  
pdf 6 trang yennguyen 14/04/2022 2020
Bạn đang xem tài liệu "A successfully treated case of acute arsenic poisoning at the Vietnam national children’s hospital", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfa_successfully_treated_case_of_acute_arsenic_poisoning_at_th.pdf