Ước lượng mức sẵn lòng chi trả của người dân thành thị ở tỉnh Kiên Giang cho việc bảo tồn hệ sinh thái rừng U Minh
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP
ISSN 2588-1256
Tập 4(1)-2020:1647-1657
ƯỚC LƯỢNG MỨC SẴN LÒNG CHI TRẢ CỦA NGƯỜI DÂN THÀNH THỊ Ở TỈNH
KIÊN GIANG CHO VIỆC BẢO TỒN HỆ SINH THÁI RỪNG U MINH
Huỳnh Việt Khải*, Huỳnh Thị Đan Xuân, Nguyễn Hồ Như Thủy
Khoa Kinh tế, Trường Đại học Cần Thơ
*Tác giả liên hệ: hvkhai@ctu.edu.vn
Nhận bài: 20/09/2019
Hoàn thành phản biện: 03/12/2019
Chấp nhận bài: 08/12/2019
TÓM TẮT
Bài viết sử dụng phương pháp đánh giá giá trị ngẫu nhiên (Contingent Valuation Method -
CVM) để ước lượng mức sẵn lòng chi trả của người dân thành thị cho dự án bảo tồn hệ sinh thái của
rừng U Minh. Số liệu sơ cấp trong bài viết được thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp 150 người dân
sinh sống ở thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Kết quả phân tích cho thấy có 59% đáp viên sẵn
lòng chi trả cho việc bảo tồn hệ sinh thái rừng và mức sẵn lòng trả thêm 96.000 đồng vào hóa đơn tiền
nước mỗi tháng, gần bằng 0,7% thu nhập trung bình của hộ. Nghiên cứu cho thấy rằng nếu đáp viên là
công chức Nhà nước thì khả năng đóng góp vào chương trình bảo tồn nhiều hơn hoặc nếu đáp viên
biết người xung quanh tham gia vào dự án thì họ sẽ có xu hướng tham gia và đóng góp cho dự án.
Từ khóa: Phương pháp định giá ngẫu nhiên, Mức sẵn lòng chi trả, Bảo tồn hệ sinh thái rừng, Hàm
logit
ESTIMATING KIEN GIANG URBAN RESIDENTS’ WILLINGNESS TO PAY FOR
THE U MINH CONSERVATION PROJECT
Huynh Viet Khai, Huynh Thi Dan Xuan, Nguyen Ho Nhu Thuy
College of Economics, Can Tho University
ABSTRACT
The paper used the approach of Contingent Valuation Model (CVM) to estimate the urban
residents’ willingness to pay for the ecosystem conservation project in U Minh forest. The primary
data was collected by 150 residents in Rach Gia city, Kien Giang province who were directly
interviewed. The results showed that about 59% of respondents was willing to pay for forest
ecosystem conservation and their willingness to pay was about 96,000 VND per month. The study
showed that respondents who have been working as officers were more likely to contribute to the
conservation program. In addition, if respondents knew that their neighbors participated in the
conservation project, they could be more likely to engage in.
Keywords: Contingent valuation method, Willingness to pay, Forest ecosystem conservation, Logit
function
1. MỞ ĐẦU
Rừng U Minh được xem là một dạng
rừng rất đặc thù, được xếp hạng độc đáo,
quý hiếm trên thế giới và được coi là nơi
có giá trị đa dạng sinh học cao. Rừng U
Minh gồm có U Minh Thượng và U Minh
Hạ được chia cắt bởi dòng sông Trẹm,
trong đó U Minh Thượng thuộc tỉnh Kiên
Giang và U Minh Hạ thuộc tỉnh Cà Mau.
Rừng U Minh là khu rừng đầm lầy lớn
nhất Việt Nam, được xem là khu sinh
quyển và cũng là lá phổi xanh của Đồng
1647
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY
ISSN 2588-1256
Vol. 1(1)-2020:1647-1657
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với hệ sinh
thái vô cùng đa dạng và phong phú.
2000 đến nay đã xảy ra hàng trăm vụ cháy
lớn nhỏ gây thiệt hại hơn 4.600 ha rừng
tràm. Hiện nay, nguy cơ xảy ra cháy rừng
ở rừng U Minh là rất cao. Từ những lợi ích
vô giá mà rừng mang lại và những mối đe
dọa mà rừng U Minh đang đối mặt có thể
thấy việc bảo tồn rừng là nhiệm vụ hàng
đầu của quốc gia.
Theo báo cáo của Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh Kiên Giang (2017), rừng
U Minh là khu bảo vệ cần thiết đảm bảo
cho sự phục hồi các loài đặc hữu của hệ
sinh thái rừng ngập mặn với nhiều loài
được ghi trong sách đỏ của Việt Nam và
thế giới. Rừng U Minh là khu bảo tồn mẫu
chuẩn hệ sinh thái rừng tràm úng phèn trên
đất than bùn. Trong đó, vùng lõi của U
Minh được xem là nơi lưu giữ một diện
tích rừng trên đất than bùn lớn còn sót lại ở
Việt Nam và được công nhận là một trong
những khu đất ngập nước có mức độ ưu
tiên bảo tồn cao nhất tại khu vực ĐBSCL,
góp phần quan trọng cân bằng sinh thái,
đảm bảo an ninh môi trường và sự phát
triển bền vững của ĐBSCL, đồng thời phát
huy giá trị của hệ sinh thái rừng tràm là
điều tiết lũ, hạn hán, bảo tồn nguồn nước
mặt, nước ngầm, duy trì tính ổn định và
màu mỡ của đất, phục vụ nghiên cứu khoa
học, tham quan, du lịch sinh thái (Việt
Nam Forest, 2019).
Theo Khai và Yabe (2014), việc tính
toán chi phí của chương trình bảo tồn đa
dạng sinh học là tương đối dễ dàng, nhưng
khó ước tính lợi ích. Do vậy, việc nghiên
cứu triển khai thực hiện đánh giá nhận
thức về lợi ích cũng như mức độ đóng góp
của người dân cho một dự án bảo vệ rừng
là một yêu cầu bức thiết. Nhận thức được
tầm quan trọng của vấn đề trên và với mục
tiêu cung cấp thông tin và những gợi ý
chính sách khả thi cho các dự án bảo tồn
rừng U Minh, nghiên cứu được thực hiện
nhằm tìm hiểu về nhận thức, thái độ cũng
như mức sẵn lòng chi trả của người dân
thành thị tại tỉnh Kiên Giang đối với dự án
bảo tồn rừng. Nghiên cứu có thể cung cấp
một phần cho các nhà hoạch định chính
sách và những người quan tâm thêm thông
tin về thái độ của người dân đối với môi
trường và tài nguyên thiên nhiên cũng như
lợi ích của việc bảo tồn hệ sinh thái.
Rừng U Minh với mức đa dạng sinh
học cao nhưng tỷ lệ bảo tồn còn thấp và
chưa được quan tâm, bảo vệ đúng mức (Bộ
Tài Nguyên và Môi Trường, 2017). Theo
kết quả nghiên cứu của Viện Điều tra và
Quy hoạch rừng, nguyên nhân chính khiến
rừng bị suy giảm diện tích là do việc
chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng và
khai thác quá mức lâm sản. Bên cạnh đó,
trải qua nhiều sự cố, nhất là những vụ cháy
lớn, trong đó vụ cháy ở rừng U Minh
Thượng vào năm 2002 đã khiến hơn 3.000
ha rừng nguyên sinh quý hiếm tại đây bị
thiêu rụi, hệ sinh thái rừng tràm trên cả
nước chỉ còn duy nhất tại rừng U Minh Hạ
(khoảng 3.000 ha) là chưa bị tác động.
Mặc dù là vùng sinh thái đất ngập nước
nhưng rừng U Minh lại dễ bị cháy vào mùa
khô. Theo thông tấn xã Việt Nam, từ năm
Nghiên cứu này sử dụng phương
pháp đánh giá giá trị ngẫu nhiên
(Contingent Valuation Method - CVM) để
ước tính mức sẵn lòng chi trả của người
dân đối với dự án bảo tồn rừng U Minh.
Robert (1963) sử dụng phương pháp CVM
đầu tiên vào đầu những năm 1960 để ước
lượng lợi ích vui chơi giải trí ngoài trời ở
rừng Maine. Sau đó, Ridker (1971) áp
dụng phương pháp CVM cho các vấn đề ô
nhiễm không khí. Từ năm 1970 đến nay,
phương pháp này được áp dụng rộng rãi
bởi nhiều nhà kinh tế để đo lường lợi ích
của các hàng hóa môi trường như: giải trí,
săn bắn, chất lượng nước, giảm nguy cơ tử
1648
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP
ISSN 2588-1256
Tập 4(1)-2020:1647-1657
vong do tai nạn nhà máy điện hạt nhân và
các bãi chất thải độc hại (Wattage, 2002).
Cần Thơ, Hậu Giang và Bạc Liêu, tỷ lệ
phiếu điều tra thu lại là 86,7%. Mức sẵn
lòng trả trung bình của hộ từ 9.917
VNĐ/tháng đến 20.218 VNĐ/tháng. Kết
quả nghiên cứu còn cho thấy người dân ở
khu vực thành thị ở ĐBSCL có khả năng
đóng góp khoảng 9,5 tỷ VNĐ mỗi năm cho
chương trình bảo tồn đa dạng sinh học tại
vườn chim Bạc Liêu, nếu chương trình
được thực hiện.
Tại Việt Nam, có một số bài nghiên
cứu trước sử dụng phương pháp CVM để
ước lượng giá trị của rừng một cách trực
tiếp thông qua việc đóng góp dự án bảo tồn
hoặc gián tiếp thông qua việc bảo tồn
những loài động vật quý hiếm. Tống Yên
Đan và Trần Thị Thu Duyên (2010) đã
thực hiện đánh giá nhận thức của cộng
đồng về bảo tồn Sếu đầu đỏ bằng cách sử
dụng phương pháp CVM. Nghiên cứu đã
khảo sát 410 hộ gia đình ở thành phố Cần
Thơ. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tỷ
lệ đáp viên sẵn lòng chi trả để ủng hộ cho
chương trình bảo tồn Sếu đầu đỏ dưới
50%. Sự sẵn lòng chi trả trung bình được
ước lượng khoảng 12.222 VND/ hộ để bảo
tồn Sếu đầu đỏ (mặc dù việc ủng hộ tiền để
bảo tồn động vật bị đe dọa là việc khá mới
mẻ ở Việt Nam). Khai và Yabe (2014)
cũng sử dụng phương pháp CVM để đánh
giá sự sẵn lòng chi trả cho việc bảo tồn đa
dạng sinh học ở Rừng ngập nước đối với
người dân thành thị và sự sẵn lòng trả của
họ để bảo tồn đa dạng sinh học tại Vườn
quốc gia U Minh Thượng. Nghiên cứu ước
tính rằng mức sẵn lòng chi trả (Willingness
To Pay - WTP) trung bình của người dân
thành thị ở ĐBSCL là khoảng 16.510 đồng
cho mỗi hộ gia đình trên một tháng.
Nghiên cứu cũng ước lượng được tổng số
tiền mà người dân thành thị ở ĐBSCL
muốn đóng góp hàng năm khoảng
10.970.00 USD cho các dự án bảo tồn da
dạng sinh học.
Nhìn chung, tuy có một số ít nghiên
cứu trước đây đã sử dụng phương pháp
CVM để ước lượng giá trị của dự án bảo
tồn rừng, nhưng với mục tiêu cập nhật
thêm số liệu làm cơ sở vững chắc hơn cho
hình thành chính sách lên quan đến bảo tồn
rừng hiện nay, nghiên cứu này được thực
hiện để cung cấp và đóng góp thêm những
thông tin về nhận thức và thị hiếu hiện nay
của người dân đối với các dự án bảo tồn,
đồng thời, bài báo này cũng góp phần vào
giá trị trích dẫn về lượng giá hàng hóa môi
trường ở Việt Nam bằng phương pháp ước
lượng CVM.
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Kịch bản dự án, thiết kế bản câu hỏi
và khảo sát số liệu
Số liệu sơ cấp được thu thập bằng
cách phỏng vấn trực tiếp 150 hộ sinh sống
ở thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
thông qua bảng câu hỏi soạn sẵn bằng
phương pháp CVM. Các câu hỏi nhằm
đánh giá nhận thức, thái độ và hiểu biết
của đáp viên đối với vấn đề bảo vệ rừng và
đưa ra một tình huống giả định cho việc
bảo tồn hệ sinh thái rừng U Minh.
Phan Đình Khôi và Tăng Thị Ngân
(2014) cũng áp dụng phương pháp CVM
để đo lường mức sẵn lòng trả của người
dân cho chương trình bảo tồn đa dạng sinh
học tại vườn chim Bạc Liêu. Số liệu
nghiên cứu được thu thập bằng phương
pháp gởi bảng câu hỏi thăm dò ý kiến đến
550 hộ gia đình tại ba địa bàn ở thành phố
Cuộc điều tra được chia thành hai
giai đoạn chính. Giai đoạn đầu tiên được
gọi như là một thí điểm khảo sát (khảo sát
thử) đó là yếu tố cần thiết trong bất kỳ
nghiên cứu đánh giá ngẫu nhiên (Bateman
và cs., 1995). Mục đích của cuộc phỏng
vấn này là để điều chỉnh lại bảng câu hỏi,
1649
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY
ISSN 2588-1256
Vol. 1(1)-2020:1647-1657
mức giá khởi đầu rõ ràng và chính xác
hơn, và cũng giúp người phỏng vấn hiểu rõ
nội dung của câu hỏi. Có khoảng 30 hộ gia
đình được phỏng vấn trong giai đoạn này.
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn sau khi
phỏng vấn thử, các câu hỏi và các mức giá
được sửa đổi để phù hợp trong giai đoạn
thứ hai và tổng số 150 đáp viên được thu
thập.
triển rừng, hệ thống cây xanh trong khu
vực để tăng độ che phủ, bảo vệ đất khỏi bị
xói mòn, sạt lở và rửa trôi; (2) Thúc đẩy
đầu tư nâng cấp đường lên rừng U Minh để
tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch
đến thăm; (3) Hợp tác với các cơ quan, tổ
chức trong và ngoài nước để bảo tồn đa
dạng sinh học để cải thiện bảo tồn; (4)
Tăng cường quản lý rừng và bảo tồn đa
dạng sinh học thông qua các chương trình
bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái rừng, nâng
cao năng lực thực thi luật pháp và các quy
định của nhà nước về bảo vệ và phát triển
rừng; (5) Thực hiện các dự án sinh kế để
cải thiện dần cuộc sống của người dân
quanh rừng U Minh.”
Bảng câu hỏi bao gồm 4 phần chính.
Phần đầu tiên nêu lên những ý kiến và
thông tin về bảo tồn rừng và rừng, đặc biệt
là rừng U Minh. Những người được hỏi sẽ
bày tỏ thái độ và nhận thức của họ về
những ý kiến này bằng cách chọn một
trong năm cấp độ theo thang đo Likert.
Trong phần thứ hai, 5 câu hỏi liên quan
đến rừng U Minh được giới thiệu. Chẳng
hạn như 2 khu vực rừng U Minh, đa dạng
sinh học của vườn quốc gia U Minh
Thượng và U Minh Hạ và các mối đe dọa
của rừng U Minh. Người được hỏi trả lời
bằng cách chọn một trong ba lựa chọn: “tôi
không biết”,” tôi biết ít” và “tôi biết
nhiều”. Phần thứ ba là mô tả về kịch bản
giả định và các câu hỏi chính. Khi kết thúc
câu hỏi, thông tin kinh tế xã hội của người
trả lời, bao gồm tuổi tác, học vấn, thu
nhập, số thành viên trong gia đình sẽ được
thu thập.
Theo sau kịch bản này là câu hỏi sẵn
lòng chi trả (WTP) và một số câu hỏi tiếp
theo ngắn gọn về sự chắc chắn của câu trả
lời của người trả lời và lý do tại sao họ sẵn
sàng hoặc không muốn chi trả. Năm giá trị
khác nhau là 20.000 đồng, 50.000 đồng,
80.000 đồng, 110.000 đồng và 130.000
đồng được chọn để nghiên cứu. Mỗi hộ gia
đình được phỏng vấn ngẫu nhiên liệu họ có
sẵn sàng đóng góp một trong những giá trị
mức giá này hay không. Câu hỏi CVM có
dạng như sau “Ông/ bà có sẵn lòng trả …
đồng mỗi tháng cho Quỹ bảo tồn rừng để
bảo tồn hệ sinh thái U Minh trong 3 năm
hay không?” Ứng với các câu trả lời “có”
hoặc “không”, đáp viên đều được hỏi lý
do. Bên cạnh đó, nếu đáp viên trả lời
không, họ sẽ được hỏi là có đề nghị một
mức giá nào thấp hơn mức giá ở trong
bảng câu hỏi hay không.
Kịch bản giả định như sau: “Giả sử
Ủy ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang và Ủy
ban Nhân dân tỉnh Cà Mau sẽ thành lập
quỹ bảo tồn hệ sinh thái U Minh (UMECF)
với sự đóng góp của người dân. Sau đó,
quỹ sẽ nhận được hỗ trợ bổ sung từ các tổ
chức quốc tế và Chính phủ với số tiền bằng
hoặc cao hơn mức đóng góp của người
dân. Việc quyên góp sẽ kéo dài trong 3
năm dưới dạng số tiền được thêm vào hóa
đơn nước mỗi tháng. Sự đóng góp này là
cố định và không thay đổi theo mét khối sử
dụng nước. Số tiền này chỉ được sử dụng
cho UMECF để: (1) Lập kế hoạch phát
2.2. Phương pháp phân tích số liệu
Các lý thuyết cơ bản của cách tiếp
cận phương pháp CVM được đề xuất bởi
Hanemann (1998). Phương pháp này yêu
cầu trả lời câu hỏi khép kín, cụ thể là liệu
đáp viên có chấp nhận trả một số tiền nhất
định để có được một sự thay đổi nhất định
cho hiện trạng của họ. Giả sử rằng đáp
1650
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP
ISSN 2588-1256
Tập 4(1)-2020:1647-1657
viên được yêu cầu xem xét sự thay đổi từ
Q0 sang Q1 (Q1 đề cập đến giá trị của hàng
hóa môi trường, và có thể sự lựa chọn sau
được ưa thích hơn sự lựa chọn trước). Điều
này được mô tả bởi hàm hữu dụng của đáp
viên như sau V = V(P, Q, M, Z, ε), với P là
giá của tất cả các hàng hóa tồn tại trên thị
trường, M là thu nhập của đáp viên, Z là
đặc điểm kính tế xã hội của đáp viên, và
là thành phần ngẫu nhiên không quan sát
được của hàm hữu dụng. Sau đó nếu đáp
viên được hỏi có sẵn lòng chi trả một
lượng tiền t để được giá trị Q1 hay không,
câu trả lời của họ là “ có” với điều kiện
sau:
Pr(có) = Pr{V(P, Q1, M – t, Z) +ε1> V(P, Q0, M – 0, Z) +ε0}
= Pr{V(P, Q1, M – t, Z) - V(P, Q0, M – 0, Z) +ε1-ε0>0}
(1)
Trong đó, εo và ε1 là thành phần
không quan sát được của hàm hữu dụng,
có giá trị kỳ vọng bằng không và có phân
phối được xác định (i.i.d). Nếu chúng ta
gọi ΔV = V(P, Q1, M – t, Z) - V(P, Q0, M –
0, Z) và γ = ε1 - ε0, phương trình (1) trở
thành:
Pr(có) = Pr(γ> -ΔV) = 1 – Fγ(-ΔV) = Fγ(ΔV)
(2)
Với Fγ(ΔV) là hàm mật độ xác suất
tích lũy (cdf) của mức sẵn lòng chi trả
lớn nhất của đáp viên.
và đặc điểm kinh tế - xã hội khác của đáp
viên. Mô hình Probit và Logit là hai mô
hình thường được sử dụng để ước tính
mức sẵn lòng chi trả trong phương pháp
CVM. Bài viết này sử dụng mô hình Logit
với công thức ước lượng hệ số được trình
bày như sau:
Phương pháp CVM ước tính giá trị
trung bình và trung vị của mức sẵn lòng
chi trả dựa vào hệ số tự do của mô hình
hồi quy và hệ số của biến Bid; cùng với
hệ số của các biến về kiến thức, thái độ
ꢀ
ꢀ
Pr(có) = Fγ(ΔV) = ꢀꢁꢂꢃꢄ (ꢅꢆꢇ)
=
(3)
ꢀꢁꢂꢃꢄ ꢅ(ꢈꢁ ꢉ ꢋꢌꢍꢁ ꢉ ꢏ)
ꢊ
ꢎ
Với α và β là các hệ số được ước
lượng và BID là mức đóng góp cho dự án
bảo tồn được đề xuất trong bảng câu hỏi.
đa (Maximum Likelihood Estimation -
MLE). Với Rk biểu thị cho quan sát thứ
k:
Mô hình Logit được ước lượng
bằng phương pháp ước lượng hợp lý tối
Pr(có) = Pr(Rk = 1) = Pr(γk<ΔVk) = Fγ(ΔVk)
Pr(không) = Pr(Rk = 0) = Pr(γk<ΔVk) = 1 - Fγ(ΔVk)
Vì vậy, hàm số log – likelihood
được thiết lập như sau:
(4)
ꢔ
ꢑꢕꢀ
∑
logL =
{ꢐꢑꢒꢓ ( ꢖꢗꢑ) + (1 − Rk) ln(1-ꢒ (ΔVk))}
(5)
ꢓ
Với giả định là mối quan hệ
tuyến tính trong mô hình nên giá trị trung
bình và trung vị của mức sẵn lòng chi trả
là như nhau và được tính theo công thức:
ꢙ
ꢚ
Mean / Median WTP = - (ꢈꢘꢁ ꢉ ꢏ)
(6)
ꢎ
ꢙ
ꢉ
ꢊ
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
người dân về việc bảo tồn hệ sinh thái rừng
U Minh, nghiên cứu đã đưa ra tình huống
giả định nếu dự án có thể triển khai thì sự
sẵn lòng chi trả của người dân là bao
Sau khi trả lời một loạt các câu hỏi
để đánh giá các thông tin và kiến thức của
1651
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY
ISSN 2588-1256
Vol. 1(1)-2020:1647-1657
nhiêu. Bảng 1 trình bày người dân sẵn lòng
và không sẵn lòng trả cho việc bảo tồn
rừng U Minh với các mức giá khác nhau.
Kết quả cho thấy tỷ lệ phần trăm số người
được hỏi về sự sẵn lòng chi trả cho việc
bảo tồn hệ sinh thái rừng giảm khi mức giá
tăng lên. Cụ thể, có 90% sẵn lòng chi trả
cho mức giá 20.000 đồng, có 73,33% số
đáp viên đồng ý chi trả ở mức giá 50.000
đồng và chỉ có 40% đồng ý trả ở mức giá
130.000
đồng.
Bảng 1. Sẵn lòng chi trả và không sẵn lòng chi trả cho dự án
Sẵn lòng chi trả
Không sẵn lòng chi trả
Mức giá
Số quan sát
Tần số
Tỷ trọng (%)
90,00
Tần số
3
Tỷ trọng (%)
10,00
20.000
50.000
80.000
110.000
130.000
Tổng
30
30
30
30
30
27
22
14
13
12
88
73,33
46,67
43,33
40,00
8
26,67
16
53,33
17
56,67
18
60,00
150
58,67
62
41,33
Nguồn: Phân tích từ số liệu điều tra (2018)
Lý do sẵn lòng chi trả cho việc bảo
tồn hệ sinh thái rừng được tổng hợp ở bảng
2. Kết quả khảo sát cho thấy có 88/150 số
đáp viên trả lời sẵn lòng chi trả chiếm hơn
58% cho dự án bảo tồn hệ sinh thái của
rừng U Minh. Lý do sẵn lòng chi trả cho
dự án bảo tồn hệ sinh thái rừng U Minh mà
đáp viên quan tâm và chọn nhiều nhất là
“Tôi muốn bảo tồn hệ sinh thái rừng U
Minh bởi vì đây là lá phổi xanh của Đồng
bằng sông Cửu Long” với tỷ lệ 82,95%.
Tiếp theo là lý do “Tôi muốn bảo tồn rừng
U Minh cho thế hệ tương lai” có 58/88 đáp
viên trả lời, chiếm tỷ lệ 65,91%. Bên cạnh
đó, một số lý do khác được đáp viên đưa ra
là sau vụ cháy rừng năm 2002 thì rừng U
Minh cần được bảo tồn và bảo tồn rừng vì
lợi ích chung của cộng đồng.
Bảng 2. Lý do sẵn lòng chi trả cho dự án bảo tồn hệ sinh thái rừng U Minh (số đáp viên: 88)
Lý do Tần số Tỷ lệ (%)
1. Tôi muốn bảo tồn hệ sinh thái rừng U Minh bởi vì đây là lá phổi xanh
của Đồng bằng sông Cửu Long
2. Tôi muốn bảo tồn rừng U Minh cho thế hệ tương lai
3. Tôi muốn đóng góp vì tôi quan tâm đến những người sống dựa vào sản
phẩm và dịch vụ từ rừng U Minh
73
58
34
82,95
65,91
38,64
4. Tôi muốn đóng góp vì sản phẩm và dịch vụ khai thác từ rừng U Minh
có thể đáp ứng nhu cầu về cơ sở vật chất và thu nhập cho mọi người
5. Tôi chưa từng đến rừng U Minh, nhưng tôi sẵn sàng đóng góp để tôi có
cơ hội viếng thăm trong tương lai
6. Tôi đóng góp vì thực vật và động vật trong rừng U Minh có quyền
được sinh tồn và phát triển ở cả hiện tại và tương lai
7. Đây là nhiệm vụ lương tâm của tôi trong việc bảo tồn rừng U Minh
8. Khác
39
36
42
44,32
40,91
47,72
37
5
42,05
5,68
Nguồn: Số liệu điều tra (2018)
Những đáp viên trả lời không đồng
ý chi trả với mức giá mà nghiên cứu đưa ra
thì được tiếp tục hỏi để họ đề xuất mức giá
nào đó mà họ cảm thấy phù hợp. Câu hỏi
này được đưa ra nhằm mục đích xác định
xem đáp viên có đồng ý tham gia vào dự
án hay không và kết quả được trình bày
Bảng 3.
1652
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP
ISSN 2588-1256
Tập 4(1)-2020:1647-1657
Bảng 3. Tỷ lệ đáp viên đồng ý chi trả ở mức giá khác mức giá trong bảng câu hỏi
Số đáp viên
Tỷ lệ (%)
Hoàn toàn không sẵn lòng chi trả
Chi trả ở mức khác mức trong bảng câu hỏi
Dưới 20.000 đồng
10
52
13
38
1
16,13
83,87
20,97
61,29
1,61
20.000 đồng – 80.000 đồng
Trên 80.000 đồng
Tổng
62
100,00
Nguồn: Số liệu điều tra (2018)
Bảng 3 cho thấy trong số 62 đáp
viên không sẵn lòng chi trả cho khoản
đóng góp được đưa ra trong bảng câu hỏi
thì chỉ có 10 đáp viên không sẵn lòng chi
trả thêm bất kì mức nào, chiếm 16,13%.
Bên cạnh đó, có tới 52/62 đáp viên (chiếm
83,87%) đồng ý trả khoản tiền thấp hơn
khoản tiền đưa ra trong bảng câu hỏi. Cụ
thể có 20,97% số đáp viên đồng ý trả dưới
mức 20.000 đồng, cao nhất là ở mức
20.000 đồng-80.000 đồng có 38/62 (chiếm
57,3%) số đáp viên đồng ý chi trả và ở
mức trên 80.000 đồng có 1 đáp viên sẵn
sàng chi trả, chiếm 1,61. Lý do không sẵn
lòng chi trả được trình bày trong Bảng 4.
Bảng 4. Lý do không sẵn lòng chi trả cho dự án bảo tồn hệ sinh thái rừng U Minh (số đáp viên: 62)
Lý do Tần số Tỷ lệ (%)
1. Tôi không có đủ khả năng chi trả và đóng góp
36
8
29
58,06
12,90
46,77
2. Tôi nghĩ bảo vệ hệ sinh thái ở rừng U Minh là không quan trọng
3. Tôi không tin việc đóng góp của tôi sẽ giải quyết được vấn đề
4. Tôi nghĩ rằng việc bảo tồn sẽ được thực hiện mà không cần sự đóng góp
của tôi
5. Tôi không tin tưởng tiền đóng góp của tôi sẽ sử dụng cho việc bảo tồn hệ
sinh thái
24
28
38,71
45,16
6. Tôi không có được lợi ích cho việc đóng góp này
7. Khác
12
3
19,35
4,84
Nguồn: Số liệu điều tra (2018)
Bảng 4 cho thấy những đáp viên
không sẵn lòng chi trả cho dự án bảo tồn
hệ sinh thái rừng U Minh với lý do chiếm
tỉ lệ cao nhất là 58,06%, 36/62 đáp viên
cho rằng không đủ khả năng để chi trả một
khoảng tiền cộng vào hóa đơn tiền nước để
bảo tồn hệ sinh thái rừng, họ cảm thấy số
tiền được đưa ra trong bản câu hỏi là quá
cao so với nguồn tài chính của họ, đa số
đáp viên được hỏi cho biết là trong gia
đình đã có nhiều khoản phí phải chi tiêu và
thu nhập của họ chỉ đủ trang trải những
nhu cầu hàng ngày của gia đình. Lý do thứ
hai là “Tôi không tin việc đóng góp của tôi
sẽ giải quyết được vấn đề” (chiếm
46,77%), đa số các đáp viên cho rằng việc
đóng góp cho nguồn quỹ này không thể
giải quyết được tình trạng ngày một suy
thoái của rừng hiện nay. Tiếp theo là có
hơn 45% chọn lý do “Tôi không tin tưởng
tiền đóng góp của tôi sẽ sử dụng cho việc
bảo tồn hệ sinh thái”. Bên cạnh đó, có 3
đáp viên đưa ra một số lý do không đồng ý
khác là mặc dù họ có khả năng chi trả
nhưng họ cảm thấy số tiền này không phù
hợp để đóng góp, tiền nước mỗi tháng họ
đóng đã quá nhiều nên họ không đồng ý
quyên góp.
1653
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY
ISSN 2588-1256
Vol. 1(1)-2020:1647-1657
Bảng 5. Thống kê mô tả các biến trong mô hình hồi quy Logit
Tên biến
Y
Diễn giải
Sẵn lòng chi trả cho quỹ bảo tồn hệ sinh thái rừng U
Minh (1= có, 0= không)
Trung bình
Độ lệch chuẩn
0,494
0,587
Bid
Kienthuc*
Mức giá đề nghị (1.000 đồng)
Nhận giá trị từ 0 đến 5
78,000
2,213
39,832
1,225
Biến giả bằng 1 cho công chức Nhà nước và 0 cho
các công việc khác
CongchucNN
0,200
0,401
Tuoi
Tdhv
Tuổi tính đến thời điểm nghiên cứu
37,033
12,353
9,309
3,560
Nhận các giá trị từ 1 đến 18 năm
Gioitinh
Thunhap
Honnhan
Biến giả bằng 1 cho Nam và 0 cho đáp viên là Nữ
Thu nhập hộ gia đình hàng tháng (triệu đồng)
Biến giả bằng 1 cho có gia đình và 0 độc thân
0,620
13,747
0,827
0,487
6,370
0,380
Stv
Tổng số thành viên trong gia đình (người)
4,253
1,623
Số tiền trung bình trả cho hóa đơn tiền điện trên 1
tháng (1.000 đồng)
Tiennuoc
140,653
132,481
Biến giả bằng 1 khi đáp viên trả lời có xu hướng chi
trả theo người khác và 0 khi không có xu hướng
Xuhuong
0,813
0,391
*Đáp viên sẽ được hỏi 5 câu hỏi thông tin và kiến thức về U Minh, nếu câu trả lời là “tôi biết nhiều”
cho 1 điểm, nếu là “tôi biết ít” cho 0,5 điểm và “tôi không biết” là 0 điểm.
Nguồn: Số liệu điều tra (2018)
Bảng 5 trình bày thông tin về thống
kê mô tả của các biến được đưa vào mô
hình Logit. Đáp viên có độ tuổi trung bình
khoảng 37 tuổi và số năm đi học khoảng
12 năm, nghĩa là hầu hết các đáp viên đã
học hết phổ thông trung học. Nghiên cứu
khảo sát cho thấy kiến thức về rừng U
Minh đạt trung bình khoảng 2,2 điểm. Có
khoảng 81,3% đáp viên trả lời rằng sẵn
sàng đóng góp vào quỹ bảo tồn rừng nếu
biết người xung quanh cũng đồng ý tham
gia.
Bảng 6. Kết quả mô hình hồi quy Logit về mức sẵn lòng trả cho dự án bảo tồn
Mô hình 1
Mô hình 2
Biến
Sai số
chuẩn
Hệ số
Sai số chuẩn
0,0049
Hệ số
dy/dx
Bid
Kienthuc
CongchucNN
Tuoi
Tdhv
-0,0216*
-0,0478*
0,6084**
2,5298**
-0,0884**
0,3035*
0,6290
0,0102
0,2433
1,0631
0,0391
0,1144
0,5410
-0,0048*
0,0612**
0,2545**
-0,0089**
0,0305*
0,0633
Gioitinh
Thunhap
Honnhan
-0,0043
1,7530**
0,0516 -0,0004
0,7798 0,1764**
Stv
-0,3442*** 0,1763 -0,0346***
Tiennuoc
Xuhuong
-0,0054**
3,0539*
0,2023
0,0027 -0,0005**
0,8606
2,1778
0,3072*
Hệ số chặn
Giá trị Log Likelihood
Pseudo R2
Phần trăm dự báo đúng (%)
Giá trị trung bình WTP
(95% CI)
2,0995*
0,4480
-90,3070
0,1121
65,33
-47,7484
0,5305
90,67
97.410 đồng
(80.630 -120.590 đồng)
95.480 đồng
(83.940-109.940 đồng)
95% CI: Khoảng tin cậy 95% được ước tính bằng phương pháp Krinsky và Robb (1986); ***, ** và *
tương ứng với các mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.
Nguồn: số liệu điều tra (2018)
1654
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP
ISSN 2588-1256
Tập 4(1)-2020:1647-1657
Bảng 6 trình bày kết quả hồi qui
Logit cho 2 mô hình, cụ thể mô hình 1 ước
tính biến đồng ý chi trả với duy nhất một
biến độc lập là số tiền đóng góp mà chương
trình đưa ra (Bid), mô hình 2 ước tính biến
đồng ý mức sẵn lòng chi trả với các biến
độc lập bao gồm các đặc điểm của đáp viên
và các biến quan trọng khác ảnh hưởng đến
khả năng chi trả của đáp viên cho việc bảo
vệ rừng.
đúng như kỳ vọng trong bài viết nếu nguồn
quỹ bảo vệ rừng được thành lập.
Bảng 6 cho thấy các hệ số của 9 biến
số có ý nghĩa thống kê trong mô hình 2.
Trong đó các biến có quan hệ ngược chiều
với sự sẵn lòng chi trả bao gồm: mức chi
trả (Bid), tuổi của đáp viên (Tuoi), số thành
viên trong gia đình (stv), tiền nước
(Tiennuoc), xu hướng chi trả (Xuhuong),
những biến có quan hệ cùng chiều là kiến
thức của đáp viên về rừng U Minh
(Kienthuc), công chức Nhà nước
(CongchucNN), trình độ học vấn của đáp
viên (Tdhv), tình trạng hôn nhân
(Honnhan).
Trước khi thực hiện hồi quy, vấn đề
đa cộng tuyến đã được kiểm tra. Kết quả
cho thấy rằng các mô hình không có hiện
tượng đa cộng tuyến, bởi vì hệ số tương
quan giữa các biến độc lập đều nhỏ hơn
0,7 (Khai và Yabe, 2014). Hệ số Pseudo R2
ở mô hình 1 và 2 lần lượt là 0,11 và 0,53
tương đối đủ lớn có thể chấp nhận được
đối với các nghiên cứu sử dụng phương
pháp CVM. Tuy nhiên, hệ số Pseudo-R2
trong mô hình này không hoàn toàn giải
thích cho sự phù hợp của mô hình, do đó
cần xem xét thêm mức độ giải thích chính
xác của mô hình (phần trăm dự báo đúng
của mô hình). Kết quả phân tích cho thấy
phần trăm dự báo đúng của mô hình 1 là
65,33% và mô hình 2 là 90,67% nên có thể
đánh giá rằng khả năng dự báo đúng của
hai mô hình là tương đối phù hợp và chấp
nhận được.
Giống như kết quả nghiên cứu của
Khai và Yabe (2014), biến thông tin và
kiến thức về về U Minh (Kienthuc) có
quan hệ cùng chiều với mức sẵn lòng chi
trả WTP nên phù hợp với kỳ vọng mà mô
hình đã đưa ra, nghĩa là những đáp viên
hiểu biết nhiều về U Minh thì họ cũng
quan tâm nhiều hơn và khả năng đóng góp
cao hơn cho dự án bảo tồn. Hệ số của biến
công chức Nhà nước (CongchucNN) có ý
nghĩa thống kê ở mức 5%, chứng tỏ rằng
khi đáp viên là công chức Nhà nước thì
khả năng sẵn lòng chi trả cho dự án sẽ tăng
25,45% trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi.
Hệ số của biến Bid mô hình 1 và mô
hình 2 có tác động ngược chiều với mức
sẵn lòng chi trả và có ý nghĩa thống kê ở
mức 1%, cho thấy nếu số tiền đóng góp
càng cao thì tỷ lệ đáp viên trả lời đồng ý
càng giảm ở cả 2 mô hình nên phù hợp với
lý thuyết của đường cầu. Công thức (6)
được sử dụng để ước lượng mức sẵn đóng
góp trung bình của người dân cho dự án
bảo tồn rừng. Kết quả ước lượng cho thấy
mức sẵn lòng đóng góp cho việc bảo vệ
rừng ở mô hình 1 và mô hình 2 lần lượt là
97.410 đồng và 95.480 đồng mỗi tháng,
chứng tỏ dự án được người dân chấp nhận
Bên cạnh đó, biến xu hướng chi trả
(Xuhuong) có quan hệ cùng chiều với mức
sẵn lòng chi trả WTP. Lý giải cho điều này
là vì các đáp viên được hỏi cho biết rằng
nếu mọi người xung quanh đều đồng ý chi
trả hết thì họ cũng sẽ chi trả theo vì “hiệu
ứng đám đông” và một số đáp viên cho
rằng, nếu có nhiều người dân xung quanh
đã đồng ý thì chính sách hoặc dự án đó sẽ
hiệu quả, do đó họ sẵn lòng chi trả theo số
đông. Như vậy, khi các yếu tố khác không
thay đổi, với mức ý nghĩa 1% nếu đáp viên
biết có càng nhiều người tham gia chi trả
cho dự án thì mức sẵn lòng chi trả của họ
1655
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY
ISSN 2588-1256
Vol. 1(1)-2020:1647-1657
sẽ tăng lên 30,72%. Tương tự như kết quả
- Chính quyền địa phương cần phải
nghiên cứu của Tống Yên Đan và Trần Thị
Thu Duyên (2010) và Phan Đình Khôi và
Tăng Thị Ngân (2014), hệ số của biến trình
độ học vấn (Tdhv) tác động cùng chiều ở
mức ý nghĩa 10% cho thấy nếu số năm đi
học của đáp viên được tăng lên, xác suất
sẵn lòng chi trả của họ cũng tăng. Các biến
còn lại trong mô hình không có ý nghĩa
thống kê là biến giới tính (Gioitinh) và thu
nhập (Thunhap) cho thấy rằng sự chấp
nhận đóng góp cho dự án không phụ thuộc
nhiều vào giới tính và mức thu nhập của hộ
gia đình.
thường xuyên cập nhật các thông tin về
rừng U Minh, về đa dạng sinh học của
rừng, tình trạng hiện tại của rừng U Minh
cũng như những đe dọa mà rừng đang phải
đối mặt trên các phương tiện thông tin đại
chúng để người dân nắm rõ nhằm nâng cao
sự hiểu biết về rừng U Minh, từ đó hình
thành ý thức bảo vệ rừng U Minh trong
quần chúng nhân dân.
- Ban quản lý dự án cần phải công
khai minh bạch thu, chi, công bố mục đích
dự án, những hoạt động sẽ được triển khai
khi có dự án, cho thấy những lợi ích mà
người dân được hưởng khi dự án được
thực hiện, kết quả đạt được sau khi có dự
án để tạo lòng tin cho người dân khi đóng
góp vào dự án vì đa số người dân không tin
việc đóng góp của họ sẽ giải quyết được
vấn đề và số tiền đóng góp của họ được sử
dụng đúng mục đích. Ví dụ, sau năm thứ
nhất Ban quản lý dự án phải báo cáo tiến
trình từng giai đoạn thực hiện, kết quả đạt
được, công khai tài chính của Quỹ bảo tồn
trên phương tiện thông tin đại chúng cho
người dân được biết, khuyến khích người
dân tiếp tục tham gia thực hiện dự án.
4. KẾT LUẬN
Bài viết sử dụng phương pháp CVM
để ước lượng mức sẵn lòng chi trả của
người dân thành thị tỉnh Kiên Giang đối
với dự án bảo tồn rừng U Minh. Kết quả
khảo sát cho thấy tỷ lệ đáp viên sẵn lòng
chi trả cho dự án bảo tồn rừng khá cao với
khoảng 59% và mức giá trung bình sẵn
lòng chi trả cho dự án khoảng 96.000
đồng/hộ/tháng, chiếm khoảng 0,7% so với
tổng thu nhập trung bình của hộ. Bài viết
còn phát hiện xu hướng tham gia của mọi
người xung quanh có tác động mạnh mẽ
đến sự sẵn lòng chi trả cho dự án của
người dân, nếu đáp viên biết càng nhiều
người tham gia vào dự án thì họ sẽ có xu
hướng tham gia theo và mức sẵn lòng chi
trả của họ tăng khoảng 31%. Bên cạnh đó,
nếu đáp viên là công chức Nhà nước khả
năng chi trả của họ cho dự án cũng tăng
khoảng 26%. Ngoài ra, nghiên cứu không
đủ bằng chứng thể hiện tính ảnh hưởng của
các yếu tố như giới tính và thu nhập đến
khả năng chi trả của người dân thành thị
tỉnh Kiên Giang.
- Đẩy mạnh tuyên truyền và phổ biến
về dự án bảo tồn hệ sinh thái rừng U Minh,
các giá trị mà hệ sinh thái rừng mang lại
cho cộng đồng trong hiện tại và tương lai
khi dự án được thực hiện. Qua đó, vận động
và thu hút được nhiều người dân quan tâm,
tham gia vào dự án bảo tồn rừng khi đó tạo
được “hiệu ứng đám đông”, khi người dân
thấy có nhiều người xung quanh tham gia
đóng góp họ sẽ có xu hướng tham gia vào
dự án khi đó dự án sẽ có nhiều người tham
gia vào hơn.
Thông qua kết quả khảo sát thực tế,
tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng
cao ý thức bảo vệ rừng và khả năng chi trả
cho dự án bảo tồn hệ sinh thái rừng U
Minh như sau:
Tuy nhiên, do số quan sát của bài viết
còn khá nhỏ so với tổng số dân thành thị
tỉnh Kiên Giang nên cần có một nghiên cứu
sâu và chi tiết với số quan sát nhiều hơn để
thể hiện rõ nét thái độ cũng như mức sẵn
1656
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP
ISSN 2588-1256
Tập 4(1)-2020:1647-1657
data. Working paper No.798, Department
of Agricultural and Resource Economics
and Policy, University of California,
Berkeley.
lòng chi trả của người dân thành thị ở tỉnh
Kiên Giang đối với dự án bảo tồn này.
LỜI CẢM ƠN
Đề tài này được tài trợ bởi Dự án
Nâng cấp Trường Đại học Cần Thơ VN14-
P6 bằng nguồn vốn vay ODA từ Chính phủ
Nhật Bản.
Khai, H. V. & Yabe, M. (2014), The demand of
urban residents for the biodiversity
conservation in U Minh Thuong National
Park, Vietnam. Agricultural and Food
Economics, 2(1), 10.
Khai, H. V. (2015). Assessing Consumer
Preferences for Organic Vegetables: A Case
Study in the Mekong Delta, Vietnam.
Information Management and Business
Review, 7(1), 41-47.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tiếng Việt
Phan Đình Khôi và Tăng Thị Ngân. (2014).
Mức sẵn lòng đóng góp của người dân
ĐBSCL cho chương trình bảo tồn đa dạng
sinh học tại vườn chim Bạc Liêu. Tạp chí
Khoa Học và Phát Triển, (208), 17-26.
Tống Yên Đan và Trần Thị Thu Duyên. (2010).
Đánh giá nhận thức của cộng đồng về bảo
tồn Sếu đầu đỏ. Tạp chí khoa học Đại học
Cần Thơ, (16b), 32-41.
Việt Nam Forest. (12/10/2019). Rừng U Minh
là một khu rừng được xếp vào loại quý
hiếm trên thế giới. Khai thác từ
2. Tài liệu tiếng nước ngoài
Krinsky, I.,
&
Robb, A. (1986). On
Approximating the Statistical Properties of
Elasticities. The Review of Economics and
Statistics, 68(4), 715 - 719.
Ridker, R. G. (1971). Economic Costs of Air
Pollution Studies. The USA: Praeger
Publishers.
Robert, K. D. (1963). The Value of Outdoor
Recreation: An Economic Study of the
Maine Woods. PhD dissertation, Harvard
University.
Bateman, I. J., Langford, I. H., Turner, R. K.,
Willis, K. G., & Garrod, G. D. (1995).
Elicitation and Truncation Effects in
Contingent Valuation Studies. Ecological
economics, 12(2), 161-179.
Wattage, P. (2002). Effective Management
Biodiversity Conservation in Sri Lankan
Coastal Wetlands: CVM1 - Literature
Review. The UK: University of Portsmouth
Cemare.
Hanemann, W. M., & Kanninen, B. (1998).
The Statistical analysis of discrete-response
1657
Bạn đang xem tài liệu "Ước lượng mức sẵn lòng chi trả của người dân thành thị ở tỉnh Kiên Giang cho việc bảo tồn hệ sinh thái rừng U Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- uoc_luong_muc_san_long_chi_tra_cua_nguoi_dan_thanh_thi_o_tin.pdf