Tổng quan về ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ ở trẻ em bị hen phế quản

Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11  
Overview  
The Overview of Obstructive Sleep Apnea (OSA) Syndrome in  
Children with Asthma  
Duong Quy Sy1*, Nguyen Ngoc Quynh Le2, Nguyen Hoang Yen3,  
Nguyen Thi Thanh Mai4, Le Thi Minh Huong2  
1Lam Dong Medical College, 16 Ngo Quyen, Da Lat, Lam Dong, Vietnam  
2Vietnam National Children’s Hospital, No 18/879 La Thanh, Dong Da, Hanoi, Vietnam  
3Phu Tho General Hospital, D. Tan Dan, Viet Tri City, Phu Tho, Vietnam  
4Hanoi Medical University, No 1, Ton That Tung, Dong Da, Hanoi, Vietnam  
Received 29 November 2020  
Revised 25 December 2020, Accepted 26 December 2020  
Abstract  
Obstructive sleep apnea(OSA) syndrome is the most common of respiratory disorders  
during sleep. OSA in children is considered as one of causes inducing health problem in  
children. OSA is common in children from 2 to 8 years old and usually associated with the  
development of lymphoid tissue around the upper airway in children. OSA is also frequent  
among children with asthma. Recent studies showed that both OSA and asthma have been  
involved in inflammatory diseases of the upper and lower respiratory tract. The obstructive  
symptoms of these two diseases can be the same, making it difficult to diagnose and treat.  
Furthermore, OSA can affect the effectiveness of asthma control, and conversely, the  
severity of asthma increases the OSA symptoms. OSA is a comorbid disease and a risk  
factor of difficult-to-treat asthma. In children with asthma, clinicians should do early  
diagnosis and accurate treatment of OSA when these patients have suspicious symptoms.  
Keywords: Obstructive sleep apnea; Asthma; Apnea-Hypopnea  
*
_______  
* Corresponding author.  
1
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11  
Tổng quan về ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ  
ở trẻ em bị hen phế quản  
Dương Quý Sỹ1*, Nguyễn Ngọc Quỳnh Lê2, Nguyễn Hoàng Yến3,  
Nguyễn Thị Thanh Mai4, Lê Thị Minh Hương2  
1Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng, 16 Ngô Quyền, Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam  
2Bệnh viện Nhi Trung ương, Số 18/879 La Thành, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam  
3Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ, Phường Tân Dân, TP. Việt Trì, Tỉnh Phú Thọ, Việt Nam  
4Đại học Y Hà Nội, Số 1 Tôn Thất Tùng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam  
Nhận ngày29 tháng 11 năm 2020  
Chỉnh sửa ngày 25 tháng 12 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày26 tháng 12 năm 2020  
Tóm tắt  
Hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ (NTTNKN) là dạng phổ biến nhất của rối loạn hô  
hấp trong khi ngủ. NTTNKN ở trẻ em được coi là một trong những nguyên nhân gây ra  
các vấn đề sức khỏe nghiêm trọngở trẻ em. Bệnh thường gặp ở trẻ từ 2- 8 tuổi và liên quan  
với sự phát triển của mô bạch huyết quanh đường hô hấp trên ở trẻ em. Đặc biệt NTTNKN  
rất thường gặp ở trẻ em bị hen phế quản (HPQ).Các nghiên cứu gần đây cho thấy HPQ và  
NTTNKN đều là bệnh lý viêm đường hô hấp trên và đường hô hấp dưới. Các triệu chứng  
tắc nghẽn của 2 bệnh này có thể giống nhau gây khó khăn cho việc chẩn đoán và điều trị.  
Hơn nữa, NTTNKN có thể ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát HPQ, và ngược lại, mức độ  
nặng của hen làm tăng biểu hiện NTTNKN. NTTNKN là bệnh đồng mắc và là yếu tố nguy  
cơ của bệnh hen khó trị. Ở những trẻ HPQ, thầy thuốc lâm sàng cần chẩn đoán sớm  
NTTNKN và điều trị kip thời khi trẻ có những dấu hiệu nghi ngờ.  
Từ khóa: Ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ; Hen phế quản; Ngưng thở - giảm thở.  
một trong những nguyên nhân gây ra các  
vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, chiếm tỷ lệ  
từ 1- 5% các bệnh gặp ở trẻ em.  
1. Mở đầu  
Bệnh thường gặp ở trẻ từ 2 - 8 tuổi và  
liên quan với sự phát triển của mô bạch  
huyết quanh đường hô hấp trên ở trẻ em.  
Đặc biệt NTTNKN rất thường gặp ở trẻ em  
bị hen phế quản (HPQ).  
HPQ là một trong những bệnh lý mạn  
tính thường gặp nhất ở cả người lớn và trẻ  
em. Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới,  
tỷ lệ HPQ ở trẻ em là 10 - 12% và có xu  
hướng gia tăng, đặc biệt tại các nước châu  
Á. Các nghiên cứu gần đây cho thấy HPQ  
và NTTNKN đều là bệnh lý viêm đường hô  
Hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ  
(NTTNKN) được định nghĩa là sự lặp đi lặp  
lại hiện tượng tắc nghẽn một phần hay hoàn  
toàn đường hô hấp trên trong khi ngủ dẫn  
đến hậu quả giảm thở hoặc ngưng thở hoàn  
toàn kèm theo những gắng sức hô hấp.  
NTTNKN là dạng phổ biến nhất của rối  
loạn hô hấp trong khi ngủ. Trong những  
năm gần đây NTTNKN ở trẻ em được coi là  
* Tác giả liên hệ.  
Địa chỉ email: sduongquy.jfvp@gmail.com  
2
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11  
hấp trên và đường hô hấp dưới. Các triệu  
hợp của NTTNKN và những biểu hiện khác  
như triệu chứng buồn ngủ quá mức vào ban  
ngày.  
chứng tắc nghẽn của 2 bệnh này có thể  
giống nhau gây khó khăn cho việc chẩn  
đoán và điều trị. Hơn nữa, NTTNKN có thể  
ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát HPQ, và  
ngược lại, mức độ nặng của hen làm tăng  
nặng biểu hiện NTTNKN. Các tác giả coi  
NTTNKN là bệnh đồng mắc và là yếu tố  
nguy cơ của bệnh hen khó trị. Ở những trẻ  
HPQ, thầy thuốc lâm sàng cần chẩn đoán  
sớm NTTNKN và điều trị kịp thời khi trẻ có  
những dấu hiệu nghi ngờ.  
NTTNKN gây giảm oxy máu gián đoạn  
về đêm ở trẻ, từ đó gây ra các rối loạn sinh  
bệnh học trên huyết động học, chuyển hóa  
và tâm thần-vận động. Nếu không được  
chẩn đoán và điều trị kịp thời, trẻ NTTNKN  
sẽ chậm lớn, chậm phát triển hơn các trẻ  
khác, có các biến chứng nặng nề lên hệ tim  
mạch, thần kinh…làm giảm chất lượng cuộc  
sống của trẻ. Đặc biệt, NTTNKN có thể gây  
chậm phát triển tâm thần-vận động, giảm  
khả năng tập trung chú ý, sa sút trong học  
tập và trí nhớ. Ngoài ra trẻ bị NTTNKN có  
thể mắc chứng hiếu động quá mức hoặc  
trầm cảm. Các nghiên cứu trên thế giới cho  
thấy trẻ NTTNKN thường gia tăng tỷ lệ mắc  
và mức độ nghiêm trọng của các rối loạn  
hành vi so với trẻ không NTTNKN.  
2.1. Cơ chế bệnh sinh  
2.1.1. Vai trò của đường hô hấp trên trong  
cơ chế bệnh sinh NTTNKN  
Đường hô hấp trên có chức năng thông  
khí, phát âm và nuốt. Để đảm nhận các chức  
năng này, đường hô hấp trên có cấu tạo giải  
phẫu và điều khiển thần kinh chuyên biệt.  
Phần từ khẩu cái cứng đến hầu có khả năng  
thay đổi hình dạng, đường hô hấp trên sẽ  
đóng lại khi nuốt, nói và đây cũng là đặc  
điểm tiềm tàng của hẹp, tắc đường hô hấp  
trên khi ngủ. Đường dẫn khí trên ở người  
thường không có các cấu trúc xương hoặc  
sụn nâng đỡ, nhất là vùng hầu nên dễ bị xẹp  
và tắc nghẽn trong khi ngủ.  
2.1.2. Vai trò của các yếu tố thuộc về cấu  
trúc sọ - mặt trong bệnh sinh NTTNKN  
Mọi thay đổi của các thành phần giải  
phẫu khu vực đường hô hấp trên có xu  
hướng gây hẹp đường hô hấp trên là yếu tố  
đầu tiên được đề cập đến trong cơ chế bệnh  
sinh NTTNKN. Một trong những yếu tố gây  
NTTNKN ở trẻ em là các bất thường về giải  
phẫu vùng hàm mặt làm giảm đáng kể kích  
thước đường hô hấp trên và những cơ chế  
làm tăng khả năng xẹp đường hô hấp trên.  
Các yếu tố giải phẫu bao gồm các bất  
thường vùng sọ mặt như: hàm dưới nhỏ,  
cằm lẹm, phì đại lưỡi… Đây là nguyên nhân  
những trẻ có hội chứng bất thường sọ mặt  
(hội chứng Down, hội chứng Crouzon, hội  
chứng Apert và hội chứng Pierre-Robin),  
chứng bại não, rối loạn thần kinh cơ, bệnh  
hồng cầu lưỡi liềm, sọ nhỏ, bất sản sụn… có  
nguy cơ cao về NTTNKN.  
2. Tổng quan về hội chứng ngưng thở tắc  
nghẽn khi ngủ ở trẻ em  
Ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ  
(NTTNKN) là một rối loạn được đặc trưng  
bởi những đợt ngưng hoặc giảm thở kéo dài  
từ 10 giây trở lên, lặp đi lặp lại trong lúc  
ngủ mặc dù các cơ hô hấp đã gắng sức.  
Ngưng thở và giảm thở có thể cùng xảy ra  
trong khi ngủ nhưng thuật ngữ “ngưng thở  
tắc nghẽn khi ngủ” được sử dụng chung  
thay cho thuật ngữ cũ trước đây là “ngưng-  
giảm thở khi ngủ do tắc nghẽn”.“Hội chứng  
NTTNKN” là thuật ngữ dùng để chỉ sự kết  
2.1.3. Vai trò của các yếu tố thuộc về mô  
mềm trong bệnh sinh NTTNKN  
VA và amiđan phát triển dần trong suốt  
thời thơ ấu, trong khi ranh giới xương của  
đường hô hấp trên từ từ mở rộng. Trong  
3
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11  
khoảng từ 3 đến 8 tuổi, kích thước VA và  
thông thường. Với trẻ dưới 18 tuổi, chẩn  
đoán NTTNKN nếu chỉ số giảm thở - ngưng  
thở AHI ≥ 01 lần/ giờ.  
amiđan lớn nhất liên quan đến kích cỡ  
đường thở trên, làm cho đường hô hấp trên  
hẹp. Sự chênh lệch về kích thước này trùng  
khớp với thời điểm tần suất của NTTNKN  
cao nhất ở trẻ em. Tuy nhiên có một số trẻ  
bị phì đại VA-amiđan nhưng không bị  
NTTNKN hoặc thậm chí không ngáy trong  
khi ngủ.  
Ngoài phì đại VA-amiđan, trẻ em  
NTTNKN cũng cho thấy có tăng sản của  
các mô bạch huyết ở các vùng khác của  
đường thở, các hạch bạch huyết ở ngoài  
vòng đai của Waldeyer, hạch hạnh nhân  
lưỡi. Hoặc các bất thường đường hô hấp  
trên như viêm mũi, lệch vách ngăn mũi, tràn  
dịch tai giữa, và viêm xoang cũng được mô  
tả ở trẻ bị NTTNKN.  
2.2.2. Chẩn đoán mức độ nặng NTTNKN ở  
trẻ em.  
Độ nặng của NTTNKN được xác định  
dựa trên chỉ số giảm- ngưng thở (AHI).  
Bảng 1. Độ nặng của NTTNKN ở trẻ dưới 18  
tuổi  
AHI ≤ 1 lần giảm-ngưng  
thở/giờ ngủ  
AHI từ 1 đến ≤ 5 lần giảm-  
ngưng thở/giờ ngủ  
Bình thường  
Nhẹ  
AHI từ 5 đến ≤ 10 lần  
giảm-ngưng thở/giờ ngủ  
AHI > 10 lần giảm-ngưng  
thở/giờ ngủ  
Trung bình  
Nặng  
2.2. Chẩn đoán NTTNKN ở trẻ em  
2.2.1. Đa ký hô hấp  
Hiện tại, có hai phương tiện thường  
dùng để chẩn đoán xác định NTTNKN là đa  
ký hô hấp và đa ký giấc ngủ. Đa ký giấc ngủ  
là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán  
NTTNKN, giúp xác định mức độ nặng và  
đánh giá các rối loạn giấc ngủ khác có thể  
cùng hiện diện với NTTNKN. Đa ký giấc  
ngủ giúp ghi đồng thời nhiều tham số sinh  
lý liên quan đến trạng thái thức và ngủ. Tuy  
nhiên đa ký giấc ngủ thường khó triển khai  
do đòi hỏi xây dựng phòng đo và các trang  
thiết bị đi kèm. Do đó, đa ký hô hấp  
(respiratory polygraphy) là một phương  
pháp thay thế đa ký giấc ngủ để chẩn đoán  
NTTNKN. Đa ký hô hấp có thể được thực  
hiện ở phòng khám ngoại trú hoặc trong  
bệnh viện, kỹ thuật này đơn giản hơn, ít tốn  
kém hơn so với đa ký giấc ngủ. Các phép đo  
thông thường bao gồm: dòng khí thở ra, các  
gắng sức hô hấp, độ bão hòa ôxy máu, nhịp  
tim.  
3. Mối liên quan giữa NTTNKN và hen  
phế quản  
3.1. Hen phế quản ở trẻ em  
3.1.1. Định nghĩa  
Chiến lược Toàn cầu về Phòng chống  
Hen phế quản (Global Initiative for Asthma  
– GINA) đã đưa ra định nghĩa hen bao quát,  
ngắn gọn, dễ hiểu và thực tế: “Hen là một  
bệnh lý đa dạng, thường có đặc điểm viêm  
đường dẫn khí mạn tính. Nó được xác định  
bởi tiền sử có các triệu chứng hô hấp như  
khò khè, khó thở, nặng ngực và ho, các triệu  
chứng này thay đổi theo thời gian và cường  
độ, cùng với sự giới hạn luồng khí thở ra  
dao động”.  
3.1.2. Chẩn đoán hen phế quản ở trẻ em  
Chẩn đoán theo GINA 2020: dựa vào các  
đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng trên cơ sở  
Đa ký hô hấp cho phép chẩn đoán nhanh  
hội chứng NTTNKN hoặc chỉ là ngủ ngáy  
4
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11  
thăm khám một cách hệ thống cẩn thận và  
khai thác toàn diện bệnh sử.  
- Lưu lượng đỉnh (PEF): nghĩ đến hen khi  
giá trị đo buổi sáng giảm hơn 20% so với  
giá trị đo buổi chiều hôm trước.  
- Đo sức cản đường thở: trong hen phế  
quản đường kính đường thở giảm do co thắt  
phế quản dẫn đến gia tăng sức cản đường  
thở.  
Khai thác tiền sử gia đình và bản thân:  
- Tiền sử bản thân và gia đình: khai thác  
tiền sử các bệnh dị ứng như: chàm, viêm  
mũi dị ứng, viêm da dị ứng, chàm thể tạng,  
hen phế quản.  
- Hoặc tiền sử có một trong các biểu hiện  
sau: ho, đặc biệt ho nhiều về đêm, khò khè  
tái phát nhiều lần. Các triệu chứng trên  
thường xảy ra và/hoặc nặng lên về đêm hoặc  
tiếp xúc với các dị nguyên hô hấp, có đáp  
ứng với các thuốc giãn phế quản.  
3.1.3. Điều trị dự phòng hen phế quản ở trẻ  
em  
Nội dung điều trị dự phòng: Điều trị  
dự phòng hen theo mức độ nặng nhẹ của  
bệnh theo khuyến cáo của GINA.  
Bậc 1 (Hen nhẹ, ngắt quãng): Không  
cần dùng thuốc điều trị dự phòng; dùng  
thuốc cắt cơn phối hợp ICS ngắn ngày.  
Bậc 2 (Hen nhẹ, dai dẳng): Chỉ dùng  
một loại thuốc dự phòng cơn nếu cần, đó là  
sử dụng ICS, hoặc cromone, hoặc kháng  
Leucotrien.  
Các triệu chứng lâm sàng:  
- Triệu chứng cơ năng: ho, khò khè, khạc  
đờm, nặng ngực, khó thở tái đi tái lại và  
thường xảy ra nặng hơn vào ban đêm làm  
trẻ phải thức giấc.  
- Triệu chứng thực thể: phát hiện các dấu  
hiệu cơn hen cấp.  
Bậc 3 (Hen vừa, dai dẳng): Phối hợp  
ICS, với một trong các loại thuốc khác như  
LABA dạng hít hoặc kháng leucotrien.  
Bậc 4 (Hen nặng, dai dẳng): Dùng liều  
cao ICS phối hợp với LABA dạng hít, cộng  
với thuốc kháng Leucotrien.  
Các thăm dò cận lâm sàng: tiêu chuẩn vàng  
là đo chức năng hô hấp  
- Thăm dò chức năng hô hấp: giúp cho  
chẩn, theo dõi trong quá trình điều trị và dự  
phòng hen phế quản. Rối loạn thông khí tắc  
nghẽn đường thở được đánh giá bằng các  
thông số sau:  
Nguyên tắc và chu trình kiểm soát  
hen:  
+ FEV1 < 80% so với lý thuyết  
+ Chỉ số Tiffeneau (FEV1/VC ) < 80%  
so với lý thuyết  
Phác đồ điều trị hen theo 5 bước dựa trên  
mức  
độ  
kiểm  
soát  
hen  
chính  
+ Khi tắc nghẽn đường thở nhỏ được  
đánh giá bằng các thông số sau:  
thức được GINA đề xuất từ năm 2006 và  
được cấp nhật hàng năm. Mức độ điều trị  
(liều lượng và số lượng thuốc sử dụng) sẽ  
tăng dần theo từng bước. Từ bước 2 đến 5  
bắt đầu sử dụng các thuốc dự phòng hen.  
Mục tiêu điều trị là đạt được và duy trì kiểm  
soát hen. Nếu hen không được kiểm soát  
cần kiểm tra kỹ thuật xịt thuốc, việc tuân  
thủ điều trị, tăng bậc điều trị hen nếu không  
đạt được kiểm soát. Giảm bậc điều trị nếu  
kiểm soát hen ít nhất 3 tháng.  
. FEF25-57 ≤ 60% so với lý thuyết  
. MEF25 hoặc MEF50 ≤ 60% so với  
lý thuyết.  
+ Test phục hồi phế quản: đo chức năng  
thở ra tối đa trong giây đầu tiên trước và sau  
khi dùng salbutamol dưới dạng phun hít với  
liều lượng 200µg sau 10-20 phút. Nếu  
FEV1 tăng trên 12% (hoặc trên 200ml) thì  
coi là test phục hồi phế quản dương tính  
chứng tỏ loại thông khí tắc nghẽn có đáp  
ứng với thuốc giãn phế quản: nghĩ đến hen  
3.2. Mối liên quan giữa hen phế quản và  
NTTNKN ở trẻ em  
5
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11  
Trong những năm vừa qua, rất nhiều tác  
giả đã nghiên cứu mối liên quan giữa  
NTTNKN với các bệnh lý đường hô hấp  
dưới đặc biệt là HPQ do hai bệnh này có  
nhiều điểm tương đồng về cơ chế bệnh sinh,  
tần suất xuất hiện, điều trị. Các nghiên cứu  
đều cho thấy hai bệnh này là hai bệnh đồng  
mắc và đều là tình trạng viêm mạn tính  
đường thở. Tại Việt Nam, tỷ lệ NTTNKN  
trong nhóm bệnh nhân hen phế quản là  
65,9%; Tỷ lệ NTTNKN tăng lên rõ rệt ở  
nhóm bệnh nhân hen nặng [1].  
làm tăng nguy cơ xuất hiện NTTNKN mức độ  
trung bình đến nặng gấp 6 lần [3]. Một  
nghiên cứu trước đây cho thấy với mỗi  
ngưỡng tăng trong chỉ số BMI của 1kg/m²  
so với BMI trung bình so với tuổi và giới  
tính, nguy cơ NTTNKN tăng lên 12%. Béo  
phì làm tăng tần suất và mức độ nặng của  
cơn hen cấp và khó kiểm soát các triệu  
chứng hen.  
Hít khói thuốc lá  
Khói thuốc lá được coi là một yếu tố  
nguy cơ của cả hen phế quản và NTTNKN  
ở trẻ em. Khói thuốc lá gây phù nề đường  
thở, làm tăng sức cản đường thở và làm  
nặng thêm tình trạng co thắt đường thở. Do  
đó, tình trạng viêm có thể làm tăng sức cản  
của đường hô hấp trên và tình trạng xẹp  
đường thở khi ngủ, làm trầm trọng thêm hội  
chứng ngưng thở khi ngủ.  
3.2.1. Ảnh hưởng của hen phế quản lên  
NTTNKN  
Cơ chế cơ học  
Các nghiên cứu sinh lý cho rằng có sự  
gia tăng sức cản đường thở về đêm ở bệnh  
nhân hen do giảm thể tích cặn chức năng và  
thể tích khí thở ra trong khi ngủ, đặc biệt là  
trong giấc ngủ với chuyển động mắt nhanh  
(REM) [17]. Điều này gây ra tình trạng xẹp  
đường thở trên và làm trầm trọng thêm tình  
trạng ngáy và ngưng thở ở bệnh nhân  
NTTNKN.  
Vai trò của corticoid  
Cortiscosteroid dạng hít hoặc đường  
uống vẫn là một trong các biện pháp kiểm  
soát hen. Yigla và cộng sự đã báo cáo tỷ lệ  
mắc NTTNKN cao ở những bệnh nhân HPQ  
không ổn định được điều trị bằng  
corticosteroid đường uống kéo dài hoặc  
thường xuyên [4]. Cơ chế của corticosteroid  
ảnh hưởng đến đường thở bao gồm:  
corticosteroid dạng hít gây lắng đọng chất  
béo trong và xung quanh đường thở trên, thu  
hẹp diện tích đường thở; gây tổn thương cơ  
giãn đường thở, ảnh hưởng đến sự giãn nở  
của đường thở và có thể làm trầm trọng thêm  
bệnh béo phì.  
Các bệnh đồng mắc ở mũi  
Bệnh nhân hen có tỷ lệ mắc viêm mũi dị  
ứng và không dị ứng, polyp mũi cao hơn  
người bình thường. Các tình trạng viêm ở  
mũi làm tăng sức cản đường thở trên, làm  
nặng thêm các triệu chứng của NTTNKN.  
Nghiên cứu của tác giả Chirakalwasan và  
cộng sự cho thấy tình trạng phù nề xoang  
mũi trong viêm mũi dị ứng làm tăng tỷ lệ  
xuất hiện NTTNKN gấp 1,8 lần [2].  
3.2.2. Ảnh hưởng của NTTNKN lên hen  
phế quản  
Béo phì  
Béo phì là một trong các yếu tố nguy cơ  
của NTTNKN ở trẻ em và người lớn.  
Nghiên cứu của Peppard và cộng sự cho  
thấy cân nặng tỷ lệ thuận với độ lớn của chỉ  
số AHI, cân nặng tăng 10% sẽ làm tăng chỉ  
số AHI 32% [3]. Cân nặng tăng lên 10% sẽ  
Thiếu oxy ngắt quãng  
Các đợt tắc nghẽn một phần hoặc hoàn  
toàn đường hô hấp trên lặp đi lặp lại trong  
khi ngủ do NTTNKN sẽ dẫn đến tình trạng  
thiếu oxy ngắt quãng và tái oxy hóa. Hậu  
6
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11  
quả dẫn đến các phản ứng oxy hóa phức tạp,  
đường hô hấp đã hỗ trợ quan điểm cho rằng  
leptin đóng vai trò quan trọng trong quá  
trình hô hấp, phát triển phổi và cơ chế bệnh  
sinh của các bệnh hô hấp khác nhau.  
Sideleva và cộng sự kết luận rằng leptin có  
thể góp phần làm tăng phản ứng của đường  
thở, cùng với sự gia tăng nồng độ leptin  
huyết thanh được quan sát thấy trên bệnh  
nhân NTTNKN, hormon này được gợi ý là  
có liên quan đến các đợt cấp của hen trên  
bệnh nhân NTNTKN [6].  
tăng phản ứng viêm, tăng trương lực giao  
cảm và rối loạn chức năng nội mô, dẫn đến  
tái cấu trúc phế quản. Điều này làm nặng  
thêm tình trạng hen của trẻ em bị HPQ.  
NTTNKN và phản ứng viêm toàn thân  
Các nghiên cứu cho thấy NTTNKN làm  
tăng phản ứng viêm tại chỗ và toàn thân.  
Phản ứng viêm tại chỗ do các cơ chế cơ học  
gây tổn thương niêm mạc do ngáy. Phản  
ứng viêm toàn thân đặc trưng bởi sự gia  
tăng các cytokin và chemokin tiền viêm như  
TNF-α, CRP, IL-6. Nghiên cứu của Nadeem  
và cộng sự cũng cho thấy bệnh nhân  
NTTNKN có nồng độ các chất gây viêm  
trong máu cao hơn so với nhóm chứng là  
người khỏe mạnh [5]. Khi tình trạng viêm  
quá mức ở đường thở dưới, nó có thể dẫn  
đến bệnh hen, làm tăng nguy cơ xuất hiện  
cơn hen cấp tính hoặc cơn hen ác tính gây  
tử vong ở trẻ HPQ.  
NTTNKN- trào ngược dạ dày thực quản  
Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trào  
ngược dạ dày thực quản gặp ở 58 - 62%  
bệnh nhân NTTNKN. Sự gia tăng đáng kể  
áp suất âm do tắc nghẽn đường thở trên có  
thể dẫn đến sự di chuyển ngược của các chất  
chứa trong dạ dày gây trào ngược dạ dày  
thực quản. Trào ngược dạ dày-thực quản  
gây ra do NTTNKN có thể đóng một vai trò  
quan trọng trong các triệu chứng hen. Trào  
ngược dạ dày-thực quản có thể trực tiếp gây  
cơn hen do tổn thương niêm mạc đường hô  
hấp bởi các hạt hơi nước có chứa axit và  
pepsin của dạ dày hoặc axit mật và trypsin  
của tá tràng. Mặt khác, trào ngược dạ dày  
thực quản gián tiếp gây hen thông qua cơ  
chế trung gian mơ hồ hoặc phản xạ co thắt  
phế quản. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa hen -  
NTTNKN - trào ngược dạ dày - thực quản ở  
trẻ em vẫn còn phức tạp.  
Yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu  
(VEGF)  
Một số tác giả cho rằng các yếu tố tăng  
trưởng nội mô mạch máu có thể đóng vai  
trò quan trọng trong bệnh sinh của cả bệnh  
hen và NTTNKN. VEGF là một  
glycoprotein nhạy cảm với tình trạng thiếu  
oxy, do đó NTTNKN và hen có thể thúc đẩy  
sự xuất hiện yếu tố này. Ngược lại, VEGF  
góp phần gây viêm phế quản, tăng đáp ứng  
và tái tạo mạch máu ở những bệnh nhân  
HPQ.  
Ngủ ngáy  
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ngáy lặp  
đi lặp lại có thể gây tổn thương mô mềm  
xung quanh đường thở trên và mũi do tần số  
rung của nó và dẫn đến viêm đường thở.  
Ngoài chấn thương cơ học, sự gia tăng âm  
thanh phế vị trong các đợt ngưng thở trong  
NTTNKN sẽ kích hoạt các thụ thể  
muscarinic trong đường thở trung tâm, dẫn  
đến co thắt phế quản và các cơn hen về  
đêm.  
Leptin  
Leptin là một protein được sản xuất từ  
mô mỡ lưu thông trong hệ mạch máu và  
hoạt động trên vùng dưới đồi để tạo cảm  
giác no và tăng cường trao đổi chất. Nồng  
độ leptin tăng cao ở bệnh nhân NTTNTKN.  
Bên cạnh đó, một số tác giả tìm thấy bằng  
chứng về việc sản xuất leptin cục bộ trên  
7
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11  
(27,4) (p <0,001), và điểm ACT tăng đáng  
Gián đoạn giấc ngủ  
kể từ 15,35 (5,3) lên 19,8 (4,6) (p <0,001)  
dù không có sự thay đổi chỉ số khối cơ thể  
(BMI) [31]. Hơn nữa, trong số bệnh nhân  
thở máy CPAP, tỷ lệ bệnh nhân sử dụng  
thuốc cắt cơn hen giảm từ 36% xuống 8%  
(p <0,001) [7]. Tuy nhiên ở trẻ em việc điều  
trị NTTNKN bằng CPAP chỉ được chỉ định  
trong một số trường hợp đặc biệt vì khả  
năng dung nạp của trẻ rất thấp và thở máy  
CPAP kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sự phát  
triển của hình thể khuôn mặt.  
Nhiều tác giả lập luận rằng sự xáo trộn  
trong cấu trúc giấc ngủ có thể góp phần vào  
sự tương tác hai chiều giữa NTTNKN và  
hen. Giấc ngủ bị gián đoạn và thường xuyên  
bị kích thích do NTNTKN có khả năng gây  
tăng sức cản đường thở và làm giảm phản  
ứng kích thích đối với sự co thắt phế quản.  
Hơn nữa, các nghiên cứu ban đầu về rối  
loạn giấc ngủ đã chứng minh rằng những  
bệnh nhân bị hen thở không đều trong giấc  
ngủ REM (giảm nhịp thở, ngưng thở và tăng  
thở) so với những bệnh nhân không bị hen  
[29]. Điều này có thể liên quan đến sự gia  
tăng hoạt tính phó giao cảm(cholinergic)  
xảy ra trong giấc ngủ REM, từ đó điều  
chỉnh kích thước và phản ứng của đường hô  
hấp dưới.  
4.2.Phẫu thuật cắt amidan - nạo VA điều trị  
NTTNKN  
Cắt amidan và nạo VA được coi là  
phương pháp điều trị ưu tiên cho bệnh nhi  
có NTNTKN [8]. Trong 5 năm qua, nhiều  
tác giả đã nghiên cứu xem cắt amidal có thể  
cải thiện các triệu chứng hen ở trẻ em hay  
không. Bhattacharjee và cộng sự đã nghiên  
cứu trên nhóm trẻ em độ tuổi từ 3 đến 17  
tuổi [9]. Tổng số 13.506 trẻ em mắc bệnh  
hen đã trải qua phẫu thuật cắt amidan (AT+)  
được đưa vào nghiên cứu và 27.012 trẻ em  
mắc bệnh hen không cắt amidan (AT-) đưa  
vào nhóm chứng. Khoảng 27% bệnh nhân  
trong nhóm AT + có một số dạng rối loạn  
thở khi ngủ bao gồm ngưng thở khi ngủ,  
ngáy hoặc rối loạn giấc ngủ. Kết quả cho  
thấy nhóm AT+ giảm 30,2% đợt cấp của  
hen phế quản (p <0,0001) và giảm 37,9%  
mức độ nặng của bệnh hen (p <0,0001).  
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng số lần đến  
khám cấp cứu liên quan đến hen và nhập  
viện liên quan đến bệnh hen giảm xuống  
đáng kể lần lượt là 25,6% (p <0,0001) và  
35,8% (p = 0,02) [9]. Ngược lại, không có  
sự khác biệt về hiệu quả điều trị hen trong  
nhóm không cắt amidan (AT-). Tóm lại, cắt  
amidan điều trị NTNTKN sẽ cải thiện kết  
quả điều trị hen và sau đó sẽ giảm việc sử  
dụng các thuốc điều trị hen ở trẻ em.  
4. Mối liên quan về điều trị giữa hen phế  
quản và NTTNKN  
4.1.Thở máy áp lực dương trong điều trị  
NTTNKN  
Thở máy áp lực dương (CPAP) được chỉ  
định trong điều trị NTTNTKN từ những  
năm 1980 của thế kỷ trước. Máy sử dụng áp  
lực dương để duy trì đường thở không bị  
xẹp và làm giảm đáng kể các biến cố hô hấp  
và các hậu quả liên quan của chúng trong  
khi ngủ. Do đó CPAP loại bỏ hoặc làm  
giảm tình trạng thiếu oxy liên tục mãn tính  
và sự phân mảnh giấc ngủ được quan sát  
thấy trong các trường hợp ngưng thở.  
Nghiên cứu gần đây của Kauppi và cộng sự  
khảo sát hiệu quả của CPAP đối với bệnh  
nhân NTTNKN. Trong nghiên cứu trên, các  
tác giả khảo sát thấy tỷ lệ NTNTKN đồng  
mắc hen phế quản là 13%. Sau khi sử dụng  
CPAP để điều trị NTTNKN, mức độ  
nghiêm trọng của hen do bệnh nhân tự báo  
cáo giảm đáng kể từ 48,3 (29,6) xuống 33,1  
8
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11  
Trong nghiên cứu khác của Kheirandish-  
Gozal và cộng sự trên 92 trẻ em hen phế  
quản từ 3 đến 10 tuổi có kết quả kiểm soát  
kém với tần suất cơn hen cấp trung bình mỗi  
năm là 3,4 ± 0,4 cơn/ năm đi đo đa ký giấc  
ngủ [10]. Kết quả cho thấy 58 trẻ hen có  
NTTNKN (với AHI > 5 lần/ giờ) chiếm tỷ  
lệ 63% [10]. Ba mươi lăm trẻ NTTNKN  
đồng mắc hen phế quản đã được cắt amidan  
(AT+) và các tác giả tiến hành so sánh hiệu  
quả kiểm soát hen trước và 1 năm sau cắt  
amidan. Số liệu cho thấy tần suất cơn hen  
cấp giảm rõ rệt ở nhóm cắt amidan từ 4,1 ±  
1,3 cơn/năm xuống 1,8 ± 1,4 cơn/năm (p  
<0,0001). Tuy nhiên, không có thay đổi nào  
về hiệu quả kiểm soát hen trong nhóm  
không có NTTNKN. Tác giả kết luận rằng  
điều trị NTTNKN cải thiện đáng kể về mức  
độ nghiêm trọng của bệnh hen ở trẻ  
NTTNKN đồng mắc hen phế quản [10].  
NTTNKN ở trẻ em. Steroid toàn thân ngắn  
ngày không có tác dụng điều trị NTTNKN  
và steroid toàn thân kéo dài gây nhiều tác  
dụng phụ toàn thân. Do đó steroid dạng xịt  
tại mũi và thuốc đối kháng thụ thể  
leukotriene đã được lựa chọn và có hiệu quả  
trong điều trị NTTNKN mức độ nhẹ đến  
trung bình.  
4.4.Corticosteroid dạng xịt tại mũi  
Trong thập kỷ qua, nhiều nghiên cứu  
cho thấy corticosteroid dạng xịt tại mũi có  
hiệu quả trong việc làm giảm các triệu  
chứng của NTNTKN và giảm kích thước  
của amidan. Mặt khác, corticosteroid xịt tại  
mũi còn có hiệu quả làm các tắc nghẽn do  
viêm mũi dị ứng; giảm tình trạng ngứa mũi  
thường gặp ở trẻ ngủ ngáy. Corticosteroid  
xịt tại mũi cũng được chứng minh là làm  
giảm kích thước amidan, không phụ thuộc  
vào cơ địa dị ứng của từng cá nhân. Một  
nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi trên 62 trẻ  
em mắc NTNTKN mức độ nhẹ chẩn đoán  
bằng đa ký giấc ngủ được điều trị bằng  
budesonide xịt mũi. Các bệnh nhân được đo  
đa ký giấc ngủ và chụp X-quang đánh giá  
kích thước của amidal. Kết quả cho thấy  
điều trị 6 tuần với budesonide tại mũi làm  
giảm mức độ nghiêm trọng của NTNTKN  
và giảm mức độ phì đại amidan. Tác dụng  
này vẫn tồn tại ít nhất 8 tuần sau khi ngừng  
điều trị [12]. Một nghiên cứu khác đánh giá  
hiệu quả của liệu pháp corticosteroid đường  
mũi đối với các tế bào Tregs và các cytokin  
gây viêm khác trong mô amidal ở trẻ em  
mắc NTNTKN [13].Các bệnh nhân được  
điều trị bằng fluticasone furoate xịt mũi 2  
tuần trước khi cắt amidan. Kết quả cho thấy  
các tế bào được phân lập từ mô amidan của  
những bệnh nhân được điều trị bằng  
fluticasone giải phóng IL-6 ít hơn đáng kể  
so với những bệnh nhân không được điều  
trị. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng  
kể về số lượng tế bào CD4 / FOXP3-, CD25  
4.3.Liệu pháp chống viêm  
Các nghiên cứu trên trẻ em mắc  
NTNTKN cho thấy NTNTKN có liên quan  
đến các phản ứng viêm toàn thân và viêm  
khu trú tại đường thở trên. Phản ứng viêm  
hệ thống do NTNTKN biểu hiện bởi tăng  
tình trạng CRP trong huyết tương, tăng số  
lượng bạch cầu trung tính trong đờm, tăng  
nồng độ cysteinyl leukotrien trong nước tiểu  
và tăng mức độ leukotrien và prostaglandin  
trong khí thở ra ở trẻ em mắc NTNTKN  
[11]. Phản ứng viêm tại chỗ trên đường hô  
hấp trên ở trẻ em mắc NTTNKN biểu hiện  
bằng tăng cytokin tiền viêm TNF-αIL-6, IL-  
1α và tăng tế bào T và giảm tế bào B trong  
mô amiđan, tăng biểu hiện các thụ thể với  
leukotrien trong amidan, tăng biểu hiện các  
thụ thể với cysteinyl leukotrien trên tế bào T  
được sản xuất từ amidan và tăng điều hòa  
các thụ thể với glucocorticoid trong amidan.  
Các liệu pháp chống viêm nhằm làm  
giảm phì đại VA - amidan và giảm viêm  
đường hô hấp trên đã được dùng để điều trị  
9
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11  
/ FOXP3- hoặc tế bào có TGF-β dương tính  
[13].  
Do đó, thuốc xịt mũi corticosteroid và  
thuốc ức chế leukotrien ở trẻ em được  
khuyến cáo điều trị cho trẻ NTTNKN, đặc  
biệt ở những trẻ NTTNKN mức độ nhẹ và  
dai dẳng sau khi đã cắt amidan.  
4.5.Thuốc đối kháng Leukotrien  
Leukotrien là các chất trung gian gây  
viêm của đường hô hấp. Những chất hòa  
tan lipid này có liên quan đến sinh bệnh  
học của cả bệnh hen và dị ứng. Gần đây, các  
nhà nghiên cứu đã nghiên cứu vai trò của  
leukotriene trong sinh lý bệnh của phì đại  
VA-amiđan và NTTNKN, chúng đóng vai trò  
là chất trung gian gây viêm tại chỗ và toàn  
thân ở trẻ bị NTTNKN. Do đó, các thuốc  
chống viêm có thể dùng để điều trị và thay  
thế phẫu thuật cắt amidan trong điều trị  
NTTNKN trẻ em.  
Các nghiên cứu cho thấy điều trị bằng  
các thuốc ức chế thụ thể leukotrien như  
montelukast có hiệu quả làm giảm kích  
thước amidan, giảm chỉ số ngưng thở và các  
rối loạn hô hấp liên quan đến giấc ngủ ở trẻ  
mắc NTNTKN mức độ nhẹ. Trong một  
nghiên cứu mù đôi có đối chứng giả dược,  
46 trẻ em (tuổi trung bình: 4,8 tuổi) được  
chẩn đoán với NTNTKN được điều trị bằng  
montelukast uống hàng ngày hoặc giả dược  
trong 12 tuần [14].Kết quả cho thấy những  
đứa trẻ dùng montelukast có chỉ số ngưng  
thở AHI giảm đáng kể. Một nghiên cứu  
khác của tác giả Kheirandish L và cộng sự  
về hiệu quả của liệu pháp kết hợp steroid xịt  
tại mũi với thuốc kháng leukotrien đường  
uống ở trẻ em còn NTTNKN tồn lưu sau  
phẫu thuật cắt amidan [15]. 22 bệnh nhân  
(tuổi trung bình 6,3 tuổi) còn chỉ số ngưng  
thở AHI trong khoảng 1- 5 lần/ giờ 10- 14  
tuần sau cắt amidan được đưa vào nghiên  
cứu. Nhóm trẻ được sử dụng budesonide xịt  
mũi và montelukast đường uống trong 12  
tuần. 14 trẻ khác đáp ứng các tiêu chí như  
trên sử dụng giả dược để làm nhóm chứng.  
Sau 12 tuần, nhóm điều trị có cải thiện đáng  
kể về chỉ số AHI so với nhóm sử dụng giả  
dược.  
Tài liệu tham khảo  
[1] Yen NH, Thuy NTD, Sy DQ. Study of the  
clinical and functional characteristics of  
asthmatic children with obstructive sleep  
apnea. J Asthma Allergy 2017;10:285-292.  
[2] Togias A. Rhinitis and asthma: evidence for  
respiratory system integration. The Journal  
of allergy and clinical immunology  
2003;111(6):1171-1183.  
https://doi.org/10.1067/mai.2003.1592.  
[3] Peppard PE, Young T, Palta M et al.  
Longitudinal study of moderate weight  
change and sleep-disordered breathing.  
Jama  
2000;284(23):3015-3021.  
https://doi.org/10.1001/jama.284.23.3015.  
[4] Yigla M, Tov N, Solomonov A et al.  
Difficult-to-control asthma and obstructive  
sleep apnea. The Journal of asthma: official  
journal of the Association for the Care of  
Asthma  
2003;40(8):865-871.  
[5] Nadeem R, Molnar J, Madbouly EM et al.  
Serum inflammatory markers in obstructive  
sleep apnea: a meta-analysis. J Clin Sleep Med  
2013;9(10):1003-1012.  
[6] Sideleva O, Suratt BT, Black KE et al.  
Obesity and asthma: an inflammatory  
disease of adipose tissue not the airway.  
American journal of respiratory and critical  
care medicine 2012; 186(7):598-605.  
0573OC.  
[7] Kauppi P, Bachour P, Maasilta P et al.  
Long-term CPAP treatment improves  
asthma control in patients with asthma and  
obstructive sleep apnoea. Sleep Breath  
2016;20(4):1217-1224.  
10.1007/s11325-016-1340-1.  
10  
D.Q. Sy et al. / Journal of Pediatric Research and Practice, Vol. 4, No. 6 (2020) 1-11  
[8] Friedman M, Wilson M, Lin HC et al.  
Updated systematic review of  
2009;135(6):1496–1501.  
[12] Kheirandish-Gozal L, Gozal D. Intranasal  
budesonide treatment for children with  
mild obstructive sleep apnea syndrome.  
tonsillectomy and adenoidectomy for  
treatment of pediatric obstructive sleep  
apnea/hypopnea  
syndrome.  
Otolaryngology-head and neck surgery  
official journal of American Academy of  
Otolaryngology-Head and Neck Surgery  
Pediatrics  
2008;122(1),e149–155.  
[13] Esteitie R, Emani J, Sharma S et al. Effect  
of fluticasone furoate on interleukin 6  
secretion from adenoid tissues in children  
with obstructive sleep apnea. Arch  
Otolaryngol Head Neck Surg 2011;137(6):  
.2011.86.  
2009;140(6):800-808.  
10.1016/j.otohns.2009.01.043.  
[9] Bhattacharjee R, Choi BH, Gozal D et al.  
Association of adenotonsillectomy with  
asthma outcomes in children: a longitudinal  
database  
analysis.  
PLoS  
medicine  
2014;11(11):e1001753.  
53.  
[14] Goldbart AD, Greenberg- Dotan S, Tal A.  
Montelukast for children with obstructive  
sleep apnea: a double-blind, placebo-  
[10] Kheirandish-Gozal L, Dayyat EA, Eid NS  
et al. Obstructive sleep apnea in poorly  
controlled asthmatic children: effect of  
adenotonsillectomy. Pediatric pulmonology  
2011;46(9):913-918.  
controlled  
2012;130(3):e575–580.  
study.  
Pediatrics  
[15] Kheirandish L, Goldbart AD, Gozal D.  
Intranasal steroids and oral leukotriene  
modifier therapy in residual sleep-  
disordered breathing after tonsillectomy  
and adenoidectomy in children. Pediatrics  
42/peds.2005-0795.  
[11] Kaditis AG, Alexopoulos E, Chaidas K et  
al. Urine concentrations of cysteinyl  
leukotrienes in children with obstructive  
sleep-disordered  
breathing.  
Chest  
11  
pdf 11 trang yennguyen 14/04/2022 4680
Bạn đang xem tài liệu "Tổng quan về ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ ở trẻ em bị hen phế quản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfthe_overview_of_obstructive_sleep_apnea_osa_syndrome_in_chil.pdf