Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán

Lê Thị Thu Hà  
Học viện Ngân hàng  
Ngày nhận: 17/03/2021  
Ngày nhận bản sửa: 28/03/2021  
Ngày duyệt đăng: 22/04/2021  
Tóm tắt: Đạo đức nghề nghiệp là một trong những yêu cầu quan trọng nhất đối với  
người hành nghề kế toán - kiểm toán. Bài viết này được thực hiện nhằm hệ thống  
một số lý luận chung về đạo đức nghề nghiệp, và tổng quan các nghiên cứu về các  
nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp, cụ thể là việc ra quyết định liên quan  
đến đạo đức trong lĩnh vực kế toán- kiểm toán. Để thực hiện bài viết, tác giả đã đọc  
và thực hiện tổng quan một số nghiên cứu trên thế giới về các nhân tố ảnh hưởng tới  
đạo đức nghề nghiệp kế toán- kiểm toán. Trong đó các nhân tố ảnh hưởng đến việc  
ra quyết định liên quan đến đạo đức, bao gồm các nhân tố mang tính chất cá nhân  
như độ tuổi, giới tính, kinh nghiệm làm việc; và các nhân tố thuộc về môi trường  
như chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, giá trị đạo đức doanh nghiệp, văn hoá quốc  
gia. Bài viết cung cấp thông tin tham khảo cho các cơ quan quản lý, tổ chức, doanh  
nghiệp trong việc thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp  
trong các tổ chức, và định hướng các nghiên cứu thực nghiệm có thể được thực hiện  
về chủ đề đạo đức nghề nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.  
Literature review on determinants of professional ethics for accountants and auditors  
Abstract: Acting ethically is one of the most important requirements for accountants and auditors.  
This article is designed to systematize theories of professional ethics, and review research on  
determinants of professional ethics for accountants and auditors, particularly determinants of ethical  
decision-making. To achieve the objective, the author has read and conducted a review of the  
literature on determinants of professional ethics. In which determinants of the ethical decision-making  
include individual factors such as age, gender, work experience; and environmental factors such as  
professional ethical standards, corporate ethical values and national culture. The article provides  
references for regulatory agencies, organizations and businesses in the implementing measures to  
improve professional ethics in organizations, and guidance for future empirical studies on the topic of  
professional ethics in Vietnam.  
Keywords: ethics, professional ethics, accounting- auditing.  
Ha Thi Thu Le  
Email: lethithuha@gmail.com  
Banking Academy of Vietnam  
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng  
Số 227- Tháng 4. 2021  
© Học viện Ngân hàng  
54  
ISSN 1859 - 011X  
LÊ THỊ THU HÀ  
Từ khoá: đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, kế toán - kiểm toán.  
1. Giới thiệu  
và cái sai, và điều gì nên làm và không nên  
làm (Beekun và cộng sự, 2003; Beu và  
Buckley, 2001; Christie và cộng sự, 2003).  
Như vậy có thể hiểu đạo đức là hệ thống  
các tiêu chuẩn, nguyên tắc về các mối quan  
hệ và các hành vi được xã hội thừa nhận,  
dựa trên đó các thành viên của xã hội điều  
chỉnh cách thức ứng xử của mình để phù  
hợp với lợi ích chung của cộng đồng.  
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ  
thống những nguyên tắc nhằm điều chỉnh và  
đánh giá hành vi của con người trong quan  
hệ giữa con người với con người, được hình  
thành thông qua niềm tin cá nhân, các giá  
trị truyền thống và tác động của cộng đồng.  
Đạo đức qui định thái độ, nghĩa vụ, trách  
nhiệm của mỗi người đối với bản thân cũng  
như đối với các cá nhân khác và cộng đồng.  
Vì thế đạo đức là khuôn mẫu, tiêu chuẩn để  
xây dựng lối sống, lí tưởng mỗi người, đạo  
đức có vai trò quan trọng đối với sự phát  
triển của xã hội.  
Đạo đức nghề nghiệp là các tiêu chuẩn,  
nguyên tắc điều chỉnh hành vi của những  
người hành nghề trong một lĩnh vực nghề  
nghiệp cụ thể, nhằm đảm bảo người hành  
nghề thực hiện nhiệm vụ của mình với chất  
lượng tốt, tuân thủ các qui định của pháp  
luật, tạo niềm tin cho cộng đồng về chất  
lượng dịch vụ cung cấp. Đạo đức nghề  
nghiệp là một trong những yêu cầu quan  
trọng nhất đối với người hành nghề trong  
lĩnh vực kế toán, kiểm toán, xuất phát từ  
tầm quan trọng của thông tin kế toán tài  
chính của các doanh nghiệp.  
Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng  
đến đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực  
kinh doanh nói chung và đối với nghề kế  
toán- kiểm toán là cần thiết để từ đó các  
cơ quan quản lý và doanh nghiệp có định  
hướng phù hợp trong việc đề ra các biện  
pháp tăng cường đạo đức nghề nghiệp  
trong các tổ chức.  
2.2. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp  
2. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp kế  
toán- kiểm toán  
Đạo đức nghề nghiệp là “những phẩm chất  
cần có của mỗi người theo đúng những  
quy tắc chuẩn mực của một nghề nhất định  
được cộng đồng xã hội thừa nhận, nhằm  
điều chỉnh hành vi, thái độ của con người  
trong quan hệ với con người, tự nhiên và xã  
hội khi hành nghề. Đạo đức nghề nghiệp là  
những nguyên tắc chi phối hành vi của một  
người hoặc một nhóm trong môi trường  
công việc. Giống như các giá trị, đạo đức  
nghề nghiệp cung cấp các quy tắc về cách  
một người nên hành động đối với người  
khác và các tổ chức trong một môi trường  
như vậy” (Nghiêm Vũ Khải và Lê Thanh  
Tùng, 2019).  
2.1. Khái niệm đạo đức  
Theo từ điển Cambridge, đạo đức là “hệ  
thống các tiêu chuẩn cá nhân hay xã hội  
về các hành vi và tính cách tốt hay xấu”.  
Theo Wikipedia, đạo đức là “hệ thống quy  
tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực xã hội mà nhờ  
đó con người tự nguyện điều chỉnh hành vi  
của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng  
đồng, xã hội”. Đạo đức còn được hiểu là  
các hành vi đúng đắn của các cá nhân; các  
nguyên tắc về các hành vi tốt và xấu; là sự  
phân biệt giữa cái tốt và cái xấu, cái đúng  
Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng  
55  
Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán  
Như vậy đạo đức nghề nghiệp là các tiêu  
chuẩn, nguyên tắc điều chỉnh hành vi của  
những người hành nghề trong một lĩnh vực  
nghề nghiệp cụ thể, nhằm đảm bảo người  
hành nghề thực hiện nhiệm vụ của mình  
với chất lượng tốt, tuân thủ các qui định  
của pháp luật, tạo niềm tin cho cộng đồng  
về chất lượng dịch vụ cung cấp. Mỗi nghề  
nghiệp đều có thể có các nguyên tắc đạo  
đức nghề nghiệp riêng, ví dụ đạo đức nghề  
nghiệp đối với ngành y, ngành luật, ngành  
kế toán… Đạo đức nghề nghiệp là sự phát  
triển của những nguyên tắc đạo đức chung  
trong một nghề nghiệp cụ thể, được các  
tổ chức, cá nhân hành nghề trong lĩnh vực  
nghề nghiệp đó công nhận, là cơ sở để đánh  
giá, điều chỉnh hành vi trong lĩnh vực nghề  
nghiệp.  
nghiêm trọng cho xã hội, làm suy giảm  
niềm tin của công chúng vào các BCTC và  
tác động tiêu cực đến sự hiệu quả của thị  
trường tài chính.  
Trong quá trình thực thi công việc, các  
kế toán viên, kiểm toán viên có thể gặp  
phải các tình huống khó xử về đạo đức, có  
thể ảnh hưởng đến tính trung thực, khách  
quan của họ và ảnh hưởng đến chất lượng  
thông tin BCTC, cũng như lợi ích của công  
chúng. Vì vậy việc hiểu và vận đúng các  
nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp là một  
trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu  
với người làm nghề kế toán, kiểm toán.  
2.4. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế  
toán - kiểm toán  
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán-  
kiểm toán là những qui định, nguyên tắc cơ  
bản về đạo đức nghề nghiệp, do cơ quan  
quản lý hoặc hiệp hội nghề nghiệp ban  
hành, nhằm hướng dẫn hành vi cho các kế  
toán viên, kiểm toán viên và tổ chức hành  
nghề kế toán, kiểm toán trong việc xử lý  
các vấn đề đạo đức phát sinh trong quá  
trình hành nghề. Việc ban hành và áp dụng  
các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp nhằm  
đảm bảo chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm  
toán, đảm bảo tính trung thực và hợp lý của  
các thông tin kế toán, từ đó củng cố niềm  
tin của công chúng đối với các thông tin tài  
chính của doanh nghiệp cũng như đối với  
nghề nghiệp kế toán, kiểm toán.  
Trên bình diện quốc tế, chuẩn mực đạo đức  
cho kế toán viên chuyên nghiệp (The code  
of ethics for professional accountants) do  
Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) xây dựng  
và ban hành năm 2009. Chuẩn mực chia  
thành ba phần chính: Phần A đưa ra các  
nguyên tắc chung cho kế toán viên chuyên  
nghiệp; Phần B đưa ra hướng dẫn cho kế  
toán viên, kiểm toán viên hành nghề trong  
các doanh nghiệp kế toán, kiểm toán; Phần  
2.3. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp kế  
toán- kiểm toán  
Đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán  
là hệ thống những nguyên tắc đạo đức áp  
dụng cho các cá nhân và tổ chức hành nghề  
trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Đạo đức  
nghề nghiệp là một trong những yêu cầu  
quan trọng nhất đối với người hành nghề  
trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, xuất phát  
từ tầm quan trọng của thông tin kế toán tài  
chính của các doanh nghiệp.  
Kế toán thực hiện việc ghi chép, tổng hợp  
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, lập báo  
cáo tài chính (BCTC) cung cấp cho người  
sử dụng thông tin. Còn kiểm toán viên thu  
thập các bằng chứng về BCTC của doanh  
nghiệp, từ đó đưa ra ý kiến về tính trung  
thực hợp lý của các BCTC. Việc ra quyết  
định của các cổ đông, nhà đầu tư tiềm năng  
và những người sử dụng BCTC khác phụ  
thuộc rất nhiều vào BCTC hằng năm của  
một công ty. Vì vậy, nếu người làm kế  
toán, kiểm toán không tuân thủ các nguyên  
tắc đạo đức thì có thể gây ra các hậu quả  
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021  
56  
LÊ THỊ THU HÀ  
C áp dụng cho kế toán viên chuyên nghiệp  
trong các doanh nghiệp khác.  
sau này phát triển và chứng minh qua các  
nghiên cứu thực nghiệm. Trong đó nổi bật  
là lý thuyết về sự phát triển đạo đức của  
Kohlberg (1969) và mô hình hành vi đạo  
đức của Rest (1986).  
Theo chuẩn mực đạo đức cho kế toán viên  
chuyên nghiệp, các kế toán viên chuyên  
nghiệp phải đảm bảo tuân thủ năm nguyên  
tắc đạo đức cơ bản: (1) tính chính trực, (2)  
tính khách quan, (3) năng lực chuyên môn  
và tính thận trọng, (4) tính bảo mật, và (5)  
tư cách nghề nghiệp.  
3.1. Lý thuyết về sự phát triển đạo đức  
của Kohlberg (Kohlberg’s cognitive moral  
development model)  
Tính chính trực: Yêu cầu kế toán viên thẳng  
thắn, trung thực trong tất cả các mối quan  
hệ chuyên môn và kinh doanh.  
Tính khách quan: Kế toán viên không để sự  
thiên vị, xung đột lợi ích hoặc bất cứ ảnh  
hưởng không hợp lý nào chi phối các xét  
đoán chuyên môn và kinh doanh.  
Năng lực chuyên môn và tính thận trọng:  
Kế toán viên cần duy trì và thể hiện các kiến  
thức và kỹ năng chuyên môn cần thiết để có  
thể cung cấp các dịch vụ có chất lượng cho  
khách hàng; đồng thời hành động một cách  
thận trọng và phù hợp với các chuẩn mực  
nghề nghiệp.  
Tính bảo mật: Kế toán viên phải bảo mật  
thông tin thu được từ các mối quan hệ  
chuyên môn và kinh doanh, không tiết lộ  
bất cứ thông tin nào cho bên thứ ba khi  
chưa được sự đồng ý của bên có thẩm  
quyền, hoặc được yêu cầu cung cấp thông  
tin từ cơ quan quản lý hoặc tổ chức nghề  
nghiệp, và cũng như không được sử dụng  
thông tin vì lợi ích cá nhân.  
Kohlberg là một nhà nghiên cứu trong lĩnh  
vực đạo đức và phát triển tâm lý. Ông đã  
đề xuất một lý thuyết về sự phát triển đạo  
đức, được gọi là quá trình phát triển nhận  
thức. Công trình nghiên cứu của Kohlberg  
(1969) về các giai đoạn phát triển nhận thức  
đạo đức tập trung vào các xét đoán đạo đức  
và quá trình nhận thức của các cá nhân khi  
họ đối mặt với các tình huống khó xử về  
đạo đức, là một đóng góp lớn cho nghiên  
cứu về việc ra quyết định đạo đức trong các  
tổ chức.  
Lý thuyết của Kohlberg (1969) mô tả các  
giai đoạn phát triển đạo đức của cá nhân  
bao gồm ba cấp độ và sáu giai đoạn phát  
triển tiếp nối nhau, cấp độ sau hoàn thiện,  
đầy đủ hơn cấp độ trước (Robertson và  
Fadil, 1999; Trevino, 1986).  
Kohlberg xác định cấp độ phát triển đạo đức  
đầu tiên là tiền qui ước (Preconventional  
Morality). Các cá nhân ở cấp độ phát triển  
này tập trung vào lợi ích trước mắt của  
chính họ, các phần thưởng và hình phạt bên  
ngoài.  
Cấp độ phát triển đạo đức thứ hai là đạo  
đức qui ước (Conventional Morality). Các  
quyết định đạo đức của các cá nhân trong  
các giai đoạn phát triển này dựa trên sự  
phù hợp với kỳ vọng của gia đình hoặc  
các nhóm đồng đẳng hoặc một bộ phận xã  
hội lớn hơn. Các cá nhân trong giai đoạn  
đạo đức qui ước duy trì các quy tắc vì điều  
đó đó phù hợp với mong đợi của gia đình,  
nhóm hoặc xã hội.  
Tư cách nghề nghiệp: Phải tuân thủ pháp  
luật và các quy định có liên quan, tránh bất  
kỳ hành động nào làm giảm uy tín nghề  
nghiệp của mình.  
3. Một số lý thuyết về sự phát triển đạo  
đức và hành vi đạo đức  
Trong lịch sử các nghiên cứu về đạo đức  
đã có một số nhà nghiên cứu xây dựng  
cơ sở lý thuyết về sự phát triển của đạo  
đức cá nhân, và đã được các nghiên cứu  
Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng  
57  
Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán  
Cấp độ phát triển cao nhất của sự phát triển  
nhận thức về đạo đức là đạo đức hậu qui  
ước (Postconventional Morality). Ở cấp  
độ phát triển đạo đức này, các cá nhân tập  
trung vào các giá trị đạo đức hoặc nguyên  
tắc phổ quát. Hành vi đạo đức là hành vi  
dựa trên những nguyên tắc phổ quát về  
công bằng, bình đẳng về quyền con người.  
Tuy nhiên quyền của cá nhân không được  
xung đột với quyền và lợi ích của xã hội.  
Kohlberg cho rằng các cá nhân phản ứng  
khác nhau với các tình huống đạo đức tùy  
thuộc vào giai đoạn phát triển đạo đức của  
họ. Khi các cá nhân trải qua các giai đoạn  
phát triển đạo đức, họ càng nhận thức rõ  
quyền lợi của người khác và sự công bằng  
dựa trên các nguyên tắc phổ quát. Các cá  
nhân trong giai đoạn tiền qui ước thường  
tuân thủ các quy tắc vì lợi ích riêng của họ  
và để tránh bị trừng phạt. Ngược lại, các cá  
nhân ở giai đoạn phát triển đạo đức qui ước  
có xu hướng duy trì các quy tắc vì điều đó  
phù hợp với mong đợi của một nhóm tham  
chiếu hoặc của xã hội. Các cá nhân ở giai  
đoạn phát triển hậu qui ước duy trì nghĩa vụ  
trước pháp luật và sẽ tuân theo các nguyên  
tắc đạo đức do họ lựa chọn bất kể ý kiến  
của đa số.  
đầu bằng việc xác định một vấn đề đạo  
đức hoặc tình huống khó xử về đạo đức  
(identification of an ethical dilemma). Một  
khi một tình huống khó xử về đạo đức đã  
được xác định, ở bước tiếp theo, các cá  
nhân tiến hành xét đoán để xác định những  
hành động nào nên được thực hiện để giải  
quyết tình huống khó xử (assessment of  
ethical choices). Việc xét đoán (judgment)  
này cho phép một cá nhân đánh giá sự phù  
hợp của các hành động khác nhau để xử lý  
tình huống đạo đức. Tiếp theo quá trình xét  
đoán là việc xác định hành động dự kiến  
sẽ thực hiện (planned intention to act). Giai  
đoạn cuối cùng của quá trình tâm lý là việc  
thực hiện hành vi đạo đức (ethical action or  
behavior).  
Mô hình bốn giai đoạn của Rest cho rằng  
để hành vi đạo đức xảy ra, các cá nhân phải  
thực hiện các quy trình tâm lý cơ bản: Thứ  
nhất, cá nhân phải có khả năng phân tích  
tình huống để xác định những hành động  
có thể thực hiện, các bên sẽ bị ảnh hưởng  
của các hành động này và ảnh hưởng của  
hành động đến lợi ích của họ. Thứ hai, cá  
nhân phải có khả năng xét đoán hành động  
nào là đúng đắn về mặt đạo đức, từ đó xác  
định một hành động khả thi mà cá nhân đó  
nên thực hiện trong tình huống đó. Thứ ba,  
cá nhân đó phải ưu tiên cho các giá trị đạo  
đức trên các giá trị cá nhân khác để quyết  
định sẽ thực hiện hành vi đạo đức. Thứ  
tư, cá nhân đó phải có đủ sự kiên trì, lòng  
tự trọng và khả năng thực hiện ý định của  
mình để vượt qua những trở ngại và hành  
xử đạo đức (Croxford, 2010).  
Mô hình của Kohlberg chỉ ra rằng quá trình  
phát triển nhận thức đạo đức của các cá  
nhân phụ thuộc vào độ tuổi, giáo dục và  
yếu tố kinh nghiệm (Conroy và cộng sự,  
2010; Robertson và Fadil, 1999).  
3.2. Mô hình hành vi đạo đức của Rest  
(Rest’s Model of Moral Action)  
Dựa trên lý thuyết về phát triển nhận thức  
của Kohlberg, Rest (1986) đã đề xuất mô  
hình hành vi đạo đức để mô tả quá trình  
nhận biết, suy luận và thực hiện hành động  
đạo đức của một cá nhân.  
4. Tổng quan các nhân tố ảnh hưởng đến  
đạo đức nghề nghiệp kế toán- kiểm toán  
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu khác  
nhau đã được thực hiện nhằm xác định các  
nhân tố ảnh hưởng tới hành vi đạo đức của  
một cá nhân, các nghiên cứu này chủ yếu tập  
Theo mô hình Rest, quá trình ra quyết  
định đạo đức bao gồm bốn giai đoạn, bắt  
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021  
58  
LÊ THỊ THU HÀ  
trung vào hai nhóm nhân tố. Nhóm thứ nhất  
là các nhân tố thuộc về đặc điểm cá nhân  
có thể tác động đến việc đưa ra các quyết  
định đạo đức, ví dụ giới tính, kinh nghiệm  
làm việc, độ tuổi... (Jones và cộng sự, 2003,  
Douglas và cộng sự, 2001). Nhóm thứ hai là  
nhóm nhân tố môi trường có tác động đến  
các quyết định đạo đức, bao gồm vai trò của  
các chuẩn mực đạo đức, văn hoá quốc gia  
và các nhân tố thuộc về tổ chức như giá trị  
đạo đức (ethical values) của tổ chức (Ismail,  
2015; Maree và Radloff, 2007).  
với các sinh viên chuyên ngành kế toán, tài  
chính, luật, kinh doanh tìm thấy bằng chứng  
cho thấy nữ giới ít chấp nhận hành vi phi  
đạo đức hơn nam giới trong bốn trên năm  
tình huống đạo đức. Emerson và cộng sự  
(2007) thực hiện khảo sát với 520 kế toán  
viên hành nghề từ Viện kế toán công chứng  
Hoa Kỳ (AICPA) cho thấy nam giới chấp  
nhận các hành vi phi đạo đức nhiều hơn nữ  
giới trong 21 trên 25 tình huống. Conroy và  
cộng sự (2010) có kết quả tương tự trong  
một nghiên cứu với 195 kế toán viên hành  
nghề của AICPA, cho thấy đối tượng khảo  
sát là nam giới chấp nhận các hành vi phi  
đạo đức nhiều hơn nữ giới trong 10 trên 30  
tình huống nghiên cứu.  
4.1. Các nhân tố thuộc về cá nhân  
a. Giới tính  
Giới tính thường được các nhà nghiên cứu  
cho là một trong các nhân tố ảnh hưởng đến  
các quyết định về đạo đức, và thường hay  
được đưa vào trong các mô hình nghiên  
cứu về đạo đức (Jones và cộng sự, 2003).  
Tuy nhiên, bằng chứng thực nghiệm về  
tác động của giới tính tới các quyết định  
đạo đức cho các kết quả khác biệt. Một số  
nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ giữa  
giới tính và hành vi đạo đức, trong khi một  
số nghiên cứu khác cho thấy phụ nữ ít chấp  
nhận hành vi phi đạo đức hơn nam giới.  
O’Fallon và Butterfield (2005) trong một  
tổng quan nghiên cứu về việc ra quyết định  
đạo đức trong khoảng thời gian 1996- 2003  
đã xác định có 49 nghiên cứu về tác động  
của giới tính tới việc ra quyết định đạo đức,  
trong đó 23 nghiên cứu không tìm thấy mối  
quan hệ có ý nghĩa thống kê, và 16 nghiên  
cứu cho thấy phụ nữ hành xử có đạo đức  
hơn nam giới trong một số trường hợp.  
Trong khi một tổng quan nghiên cứu khác  
trước đó của Loe và cộng sự (2000) tìm  
thấy 09 nghiên cứu không cho kết quả khác  
biệt giữa nam giới và nữ giới, 12 nghiên  
cứu cho thấy nữ giới hành xử đạo đức hơn  
nam giới trong một số trường hợp.  
Theo Croxford (2010), các kết quả nghiên  
cứu khác nhau về giới tính có thể được giải  
thích bằng hai lý thuyết là cách tiếp cận  
xã hội hóa giới tính (gender socialization  
approach)vàcáchtiếpcncutc(structural  
approach). Cách tiếp cận xã hội hoá giới tính  
cho rằng nam giới và nữ giới có những đặc  
điểm khác nhau tạo ra các định hướng đạo  
đức khác nhau, từ đó dẫn đến sự khác biệt  
trong các quyết định và thực hành đạo đức  
(Roxas và Stoneback, 2004).  
Cách tiếp cận thứ hai là cách tiếp cận cấu  
trúc, lập luận rằng sự khác biệt về giới  
phụ thuộc vào các yếu tố bối cảnh cụ thể  
(Simga-Mugan và cộng sự, 2005). Cách  
tiếp cận cấu trúc lập luận rằng định hướng  
đạo đức sẽ bị tác động bởi các yếu tố nghề  
nghiệp. Theo cách tiếp cận này, các chuẩn  
mực nghề nghiệp khiến cho nam giới và nữ  
giới trở nên giống nhau hơn trong các điều  
kiện nghề nghiệp giống nhau, từ đó dẫn đến  
không có sự khác biệt giữa hai giới tính khi  
ra các quyết định đạo đức.  
b. Độ tuổi  
Nhiều nhà nghiên cứu coi độ tuổi là một  
yếu tố tác động đến quá trình ra quyết định  
đạo đức (Hunt và Vitell, 1986; Kohlberg,  
Lopez và cộng sự (2005) trong nghiên cứu  
Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng  
59  
Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán  
1969). Theo lý thuyết của Kohlberg  
(1969), các cá nhân lớn tuổi hơn có khả  
năng đưa ra các quyết định phù hợp đạo  
đức hơn. Tuy nhiên, các bằng chứng thực  
nghiệm cho các kết quả khác nhau về tác  
động của độ tuổi tới quyết định đạo đức.  
O’Fallon và Butterfield’s (2005) thực hiện  
tổng quan nghiên cứu các công trình công  
bố từ 1996 tới 2003, kết quả cho thấy 08  
nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ giữa  
tuổi và hành vi đạo đức, 05 nghiên cứu  
phát hiện mối quan hệ ngược chiều giữa độ  
tuổi và quyết định đạo đức, và 06 nghiên  
cứu cho kết quả thuận chiều giữa hai biến  
này. Loe và cộng sự (2000) cho thấy trong  
08 nghiên cứu về đạo đức, 01 nghiên cứu  
không có mối liên hệ giữa tuổi và quyết  
định đạo đức, 05 nghiên cứu cho thấy đối  
tượng khảo sát lớn tuổi hơn có quyết định  
đạo đức phù hợp hơn các đối tượng trẻ tuổi.  
Maree và Radloff (2007) thực hiện nghiên  
cứu về xét đoán đạo đức đối với các kế toán  
viên ở Nam Phi, kết quả cho thấy trong 03  
tình huống đạo đức, chỉ có 01 tình huống  
trong đó các kế toán viên ít tuổi hơn đưa ra  
các xét đoán đạo đức phù hợp hơn, 02 tình  
huống còn lại không cho thấy mối quan hệ  
giữa độ tuổi và xét đoán đạo đức.  
c. Kinh nghiệm làm việc  
Nhiều nghiên cứu cho thấy mối quan hệ  
thuận chiều giữa hành vi đạo đức và kinh  
nghiệm làm việc. Harris (1990) khảo sát  
112 nhà kinh doanh ở các cấp độ quản lý  
khác nhau trong một công ty để xác định  
mối quan hệ giữa giá trị đạo đức của các  
cá nhân với kinh nghiệm làm việc. Kết quả  
cho thấy có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê  
giữa kinh nghiệm làm việc và việc không  
chấp nhận hành vi phi đạo đức của đối  
tượng khảo sát. Cụ thể là các nhà quản lý  
cấp cao ít chấp nhận hành vi gian lận hơn  
so với các thành viên khác trong tổ chức.  
Shapeero và cộng sự (2003) tìm thấy quan  
hệ thuận chiều giữa ý định hành xử đạo đức  
và số năm kinh nghiệm trong một nghiên  
cứu với 82 kiểm toán viên trong các công  
ty kiểm toán ở Mỹ. Ngược lại, nghiên cứu  
của Conroy và cộng sự (2010) trên mẫu  
195 kế toán viên chuyên nghiệp cho thấy  
sự khác biệt nhỏ giữa các thành viên ít kinh  
nghiệm và các giám đốc trong việc chấp  
nhận các hành vi phi đạo đức. Như vậy, các  
nghiên cứu trước cho thấy các bằng chứng  
trái ngược nhau về vai trò của kinh nghiệm  
làm việc trong việc ra các quyết định đạo  
đức của kế toán viên.  
Emerson và cộng sự (2007) khảo sát các  
kế toán viên hành nghề của Mỹ từ AICPA  
thông qua 25 tình huống liên quan đến nhiều  
vấn đề đạo đức như môi trường, kế toán,  
marketing, hối lộ… Kết quả cho thấy trong  
19/25 tình huống, các cá nhân lớn tuổi hơn  
ít chấp nhận hành vi phi đạo đức hơn các  
cá nhân ít tuổi. Conroy và cộng sự (2010)  
cũng tìm thấy kết quả tương tự trong nghiên  
cứu với kế toán viên hành nghề của Mỹ, với  
16/30 tình huống cho thấy độ tuổi cao hơn  
ít chấp nhận hành vi phi đạo đức hơn. Như  
vậy, các kết quả nghiên cứu về tác động của  
độ tuổi tới quyết định hành vi đạo đức có sự  
khác nhau, cho thấy đây là vấn đề phức tạp  
và cần tiếp tục được nghiên cứu.  
Ngoài các nhân tố thường gặp trên, một  
số nghiên cứu còn xem xét vai trò của các  
nhân tố như xu hướng chính trị của các cá  
nhân, trình độ học vấn, xu hướng đạo đức cá  
nhân, trí thông minh cảm xúc... tới xét đoán  
đạo đức. Ví dụ, Eynon và cộng sự (1997),  
Sweeney (1995) cho thấy người theo chủ  
nghĩa tự do có xét đoán tốt hơn người theo  
chủ nghĩa bảo thủ, và các kế toán viên hành  
nghề đã hoàn thành các khoá đào tạo về  
đạo đức có xét đoán tốt hơn. O’Fallon và  
Butterfield (2005) cho thấy người theo chủ  
nghĩa lý tưởng (idealism) và đạo lý học  
(deontology) ra quyết định đạo đức phù  
hợp hơn so với người theo chủ nghĩa tương  
đối (relativism) và chủ nghĩa mục đích  
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021  
60  
LÊ THỊ THU HÀ  
(teleology). Ismail (2015) thu được bằng  
chứng cho thấy trí thông minh cảm xúc có  
tác động tích cực đến xét đoán đạo đức của  
kiểm toán viên tại Malaysia.  
dựa trên bảng câu hỏi về tầm quan trọng  
của chuẩn mực đạo đức và ba tình huống về  
đạo đức. Kết quả nghiên cứu của Martinson  
và Ziegenfuss (2000) và Maree và Radloff  
(2007) cho thấy có mối quan hệ có ý nghĩa  
thống kê giữa chuẩn mực và xét đoán của  
kế toán viên, tuy nhiên Muslumov và Aras  
(2004) không tìm thấy mối quan hệ có ý  
nghĩa thống kê giữa chuẩn mực và các xét  
đoán của kế toán viên.  
Pflugrath và cộng sự (2007) nghiên cứu mối  
liên quan giữa chuẩn mực đạo đức với khả  
năng xét đoán của kế toán viên và sinh viên  
kiểm toán tại Úc. Kết quả cho thấy có các  
chuẩn mực đạo đức có tác động tích cực  
đến xét đoán của các kế toán viên, nhưng  
không tác động đến xét đoán của sinh viên.  
Điều này cho thấy các chuẩn mực đạo đức  
giúp tăng chất lượng các xét đoán của kế  
toán viên có nhiều kinh nghiệm hơn.  
4.2. Các nhân tố thuộc về môi trường  
a. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp  
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp dành cho  
kế toán viên là một hệ thống các nguyên  
tắc và yêu cầu do chính phủ hoặc hiệp hội  
nghề nghiệp ban hành mà kế toán viên và  
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kế toán  
phải áp dụng để đảm bảo hành vi chuẩn  
mực của họ và duy trì niềm tin của công  
chúng (Fatemi và cộng sự, 2020). Quy tắc  
đạo đức được xây dựng để hỗ trợ người làm  
kế toán xác định, đánh giá và phản ứng với  
các tình huống liên quan đến các vấn đề  
đạo đức một cách đúng đắn. Việc tuân thủ  
các chuẩn mực đạo đức giúp nâng cao uy  
tín và trách nhiệm của người làm kế toán và  
người làm kiểm toán, đồng thời nâng cao  
lòng tin của công chúng đối với thông tin  
kế toán của doanh nghiệp.  
Vì chuẩn mực đạo đức cung cấp hướng dẫn  
về các vấn đề đạo đức mà kế toán viên phải  
tuân theo để giải quyết các tình huống khó  
xử về đạo đức, việc hiểu biết tốt và tuân thủ  
nghiêm ngặt các nguyên tắc sẽ giúp kế toán  
viên đưa ra phán đoán đạo đức phù hợp.  
Cả khuôn khổ lý thuyết và nghiên cứu thực  
nghiệm đều cho thấy tầm quan trọng của  
chuẩn mực đạo đức đối với xét đoán đạo  
đức của một cá nhân.  
Douglas và cộng sự (2001) cũng xem xét  
tác động của việc am hiểu chuẩn mực đạo  
đức tới xét đoán của kiểm toán viên trong  
các công ty kiểm toán của Mỹ. Kết quả cho  
thấy kiểm toán viên có hiểu biết tốt hơn về  
chuẩn mực đạo đức thì đưa ra các xét đoán  
có chất lượng hơn.  
b. Giá trị đạo đức doanh nghiệp  
Giá trị đạo đức doanh nghiệp (corporate  
ethical values), còn được gọi là văn hoá  
đạo đức doanh nghiệp (corporate ethical  
culture), được hiểu là “tổng hợp giá trị đạo  
đức của cá nhân của các nhà quản lý, và  
các chính sách chính thức và không chính  
thức về đạo đức của một tổ chức” (Hunt  
và cộng sự, 1989). Giá trị đạo đức doanh  
nghiệp là một hệ thống các giá trị được các  
thành viên trong một tổ chức cùng chia sẻ,  
và là một phần của văn hoá doanh nghiệp  
(Trevino và cộng sự, 1998). Giá trị đạo đức  
doanh nghiệp thể hiện các quan điểm của  
nhà lãnh đạo về vấn đề đạo đức, được hình  
thành thông qua thái độ và hành vi của nhà  
Nhiều bằng chứng thực nghiệm cho thấy  
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp có tác  
động đến xét đoán đạo đức của các cá nhân.  
Martinson và Ziegenfuss (2000), Maree  
và Radloff (2007), Muslumov và Aras  
(2004) nghiên cứu mối quan hệ giữa tầm  
quan trọng của chuẩn mực đạo đức nghề  
nghiệp tới khả năng xét đoán của các kế  
toán viên tại Mỹ, Nam Phi và Thổ Nhĩ Kỳ  
Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng  
61  
Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán  
quản lý. Giá trị đạo đức doanh nghiệp bao  
gồm các chính sách thưởng và phạt đối với  
hành vi tuân thủ hay vi phạm các qui định  
đạo đức của doanh nghiệp (Douglas và  
cộng sự, 2001).  
hình thành các giá trị, niềm tin và thái độ và  
định hướng cho các cá nhân trong việc ra  
các quyết định (Christie và cộng sự, 2003;  
Hofstede, 1997). Vì văn hóa là sự kết hợp  
các yếu tố truyền thống, di sản, nghi lễ,  
phong tục và tôn giáo, các cá nhân từ các  
nền văn hóa khác nhau có thể có các khác  
biệt đáng kể trong các tiêu chuẩn đạo đức,  
niềm tin và hành vi (Blodgett và cộng sự,  
2001).  
Xuất phát từ nghiên cứu của Hofstede  
(1980) phân chia văn hoá quốc gia theo  
hai xu hướng là xu hướng văn hoá tập thể  
(collectivism) và xu hướng văn hoá cá nhân  
(individualism), một số nghiên cứu cho  
thấy đặc điểm văn hoá quốc gia có tác động  
đến các quyết định về đạo đức.  
Husted (2001) cho rằng chủ nghĩa cá nhân/  
chủ nghĩa tập thể trong văn hóa quốc gia  
ảnh hưởng đến việc ra quyết định về kinh  
doanh, dẫn tới sự khác biệt trong nhận thức  
về các tình huống đạo đức của cá nhân từ  
các nền văn hóa khác nhau.  
Thorne và Saunders (2002) cho rằng cá nhân  
từ các nền văn hóa theo chủ nghĩa tập thể có  
khả năng nhận ra tình huống khó xử về đạo  
đức hơn so với cá nhân từ các nền văn hóa  
có định hướng chủ nghĩa cá nhân. Croxford  
(2010) thực hiện nghiên cứu về tác động của  
văn hoá quốc gia đối với các kế toán viên  
trong một công ty đa quốc gia. Kết quả cũng  
cho thấy kế toán viên đến từ các quốc gia  
theo chủ nghĩa cá nhân có xu hướng chấp  
nhận hành vi phi đạo đức hơn các cá nhân từ  
quốc gia theo chủ nghĩa tập thể.  
Theo Trevino (1986), giá trị đạo đức doanh  
nghiệp tác động đến hành vi đạo đức của  
các cá nhân thông qua việc định hình quan  
điểm và hành vi đạo đức của cá nhân. Văn  
hóa doanh nghiệp mạnh có thể nâng cao sự  
phát triển nhận thức đạo đức của các thành  
viên và giúp các thành viên xác định điều gì  
là đúng hay sai trong một hoàn cảnh cụ thể.  
Các bằng chứng thực nghiệm cũng chỉ ra  
rằng văn hoá đạo đức của tổ chức có ảnh  
hưởng tới xét đoán đạo đức. Ismail (2015)  
nghiên cứu tác động của văn hoá đạo đức  
tới khả năng xét đoán của các kiểm toán  
viên tại Malaysia. Kết quả hồi qui cho  
thấy kiểm toán viên làm việc trong doanh  
nghiệp có văn hoá đạo đức tốt hơn thì có  
khả năng xét đoán tốt hơn. Douglas và  
cộng sự (2001) cũng tìm được bằng chứng  
cho thấy văn hoá đạo đức doanh nghiệp các  
tác động đến khả năng xét đoán đạo đức  
của kiểm toán viên.  
Một số nghiên cứu cho thấy giá trị đạo đức  
có mức độ ảnh hưởng khác nhau trong các  
tình huống đạo đức khác nhau. Nghiên cứu  
của Maree và Radloff (2007) cho thấy giá  
trị đạo đức doanh nghiệp có tác động đến  
xét đoán của kiểm toán viên khi xem xét  
các trường hợp liên quan đến hành vi sai  
trái, nhưng không có tác động rõ ràng đối  
với các hành vi tích cực.  
Ngoài ra, một số nghiên cứu cũng tìm hiểu  
tác động của các nhân tố môi trường khác  
ảnh hưởng đến quyết định đạo đức, ví dụ qui  
mô doanh nghiệp, chính sách thưởng phạt,  
tính chất ngành nghề, mức độ cạnh tranh…  
Kết quả cũng cho thấy có sự khác biệt giữa  
các nghiên cứu về vai trò của các nhân tố  
này tới việc ra quyết định đạo đức của các cá  
nhân (O’Fallon và Butterfield, 2005).  
c. Văn hoá quốc gia  
Bên cạnh các yếu tố trực tiếp trong môi  
trường làm việc, nền tảng văn hoá quốc gia  
có thể ảnh hưởng tới quyết định đạo đức.  
Văn hóa có thể hiểu là những giá trị và niềm  
tin chung của một nhóm cá nhân (Cohen và  
cộng sự 1992; Thorne và Saunders, 2002).  
Văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc  
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021  
62  
LÊ THỊ THU HÀ  
5. Kết luận  
đức doanh nghiệp hay môi trường văn hoá  
quốc gia có thể tác động đến hành vi đạo đức  
của các cá nhân. Việc xác định các yếu tố  
này là cơ sở để các cơ quan quản lý, tổ chức,  
doanh nghiệp có thể điều chỉnh, nâng cao  
đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề  
kế toán - kiểm toán. Việc xác định tổng quan  
các nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề  
nghiệp cũng là cơ sở cho việc thực hiện các  
nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam về  
chủ đề này trong thời gian tới ■  
Trong bài viết này, tác giả đã hệ thống hoá  
cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu các  
nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp  
kế toán - kiểm toán dựa trên việc tổng hợp  
một số nghiên cứu đã được thực hiện trên  
thế giới. Kết quả cho thấy có nhiều nhân tố  
khác nhau, bao gồm các yếu tố thuộc về cá  
nhân như tuổi, giới tính, kinh nghiệm làm  
việc, cũng như môi trường làm việc như các  
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, giá trị đạo  
Tài liệu tham khảo  
Beekun R., Stedham, Y, & Yamamura, J. (2003). Business ethics in Brazil and the U.S.: A comparative investigation.  
Journal of Business Ethics, 42(3), 267-279.  
Beu, D., & Buckley, M. (2001). The hypothesized relationship between accountability and ethical behavior. Journal of  
Business Ethics, 34(1), 57-73.  
Blodgett, J. Lu, G., Rose, G., (2001). Ethical sensitivity to stakeholder interest: A cross-cultural comparison. Journal of  
the Academy of Marketing Science, 29, 190-202.  
Cohen, J, Pant, L., & Sharp, D. (1992). Cultural and socioeconomic constraints on international codes of ethics:  
Lessons from accounting. Journal of Business Ethics, 11(9), 687-700.  
Conroy, S., Emerson, T., & Pons, F. (2010). Ethical attitudes of accounting practitioners: Are rank and ethical  
attitudes related? Journal of Business Ethics, 91, 183-194.  
Christie, M., Kwon, I., Stoeberl, P., & Baumhart, R. (2003). A cross-cultural comparison of ethical attitudes of business  
managers: India, Korea and the United States. Journal of Business Ethics, 46(3), 263-287.  
Croxford, J. L. (2010). Determinants of ethical decision making: A study of accountants in a multinational firm. Doctor  
of Philosophy, Capella University.  
Douglas, P. C., Davidson, R. A. & Schwartz, B. N. (2001). The effect of organizational culture and ethical orientation  
on accountants’ ethical judgments. Journal of Business Ethics, 34, 101-121.  
Emerson, T., Conroy, S., & Stanley, C. (2007). Ethical attitudes of accountants: Recent evidence from a practitioners’  
survey. Journal of Business Ethics, 71(1), 73-87.  
Eynon, G., Hills, N.T. & Stevens, K.T., (1997). Factors that influence the moral reasoning abilities of accountants:  
Implications for universities and the profession. Journal of Business ethics, 16(12), pp.1297-1309.  
Fatemi, D., Hasseldine, J. & Hite, P. (2020). The Influence of ethical codes of conduct on professionalism in tax  
practice. Journal of Business Ethics, 164, 133-149.  
Harris, J., & Sutton, C. 1995. Unraveling the ethical decision-making process: Clues from an empirical study  
comparing Fortune 1000 executives and MBA students. Journal of Business Ethics, 14(10), 805-817.  
Hofstede, G. (1980). Cultures consequences: International differences in work related values. Beverly Hills, CA: Sage.  
Hofstede, G. (1997). Cultures and organizations, software of the mind: Intercultural cooperation and its importance for  
survival. London, England: McGraw-Hill.  
Hunt, S. D. & Vitell, S. (1986). A general theory of marketing ethics. Journal of macromarketing, 6, 5-16.  
Hunt, S. D., Wood, V. R. & Chonko, L. B. (1989). Corporate ethical values and organizational commitment in  
marketing. Journal of marketing, 53, 79-90.  
Husted, B. (2001). The impact of individualism and collectivism on ethical decision making by individuals in  
organizations. Academy of Management Proceedings and Membership Directory, pI1-I6  
ifac.org/system/files/publications/files/Code-of-Ethics_July_2009_FINAL_02_23_10.pdf  
Ismail, S. (2015). Influence of emotional intelligence, ethical climates, and corporate ethical values on ethical judgment  
of Malaysian auditors. Asian Journal of Business Ethics, 4, 147-162.  
Jones, J., Massey, D. W. & Thorne, L. (2003). Auditors’ ethical reasoning: Insights from past research and  
implications for the future. Journal of Accounting Literature, 22, 45.  
Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng  
63  
Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán  
Kohlberg, L. (1969.) Stage and sequence: The cognitive-developmental approach to socialization. Handbook of  
socialization theory and research. Chicago: Rand McNally.  
Loe, T.W., L. Ferrell, & P. Mansfield. (2000). A review of empirical studies assessing ethical decision making in  
business. Journal of Business Ethics 25: 185–204.  
Lopez, Y., Rechner, P., & Olson-Buchanan, J. (2005). Shaping ethical perceptions: An empirical assessment of the  
influence of business education, culture, and demographic factors. Journal of Business Ethics, 60(4), 341-358.  
Maree, K. W. & Radloff, S. (2007). Factors affecting ethical judgement of South African chartered accountants.  
Meditari: Research Journal of the School of Accounting Sciences, 15, 1-18.  
Martinson, O. B. & Ziegenfuss, D. E. (2000). Looking at What Influences ETHICAL Perception and Judgment.  
Management Accounting Quarterly, 2.  
Muslumov, A. & Aras, G. (2004). The analysis of factors affecting ethical judgements: the Turkish evidence.  
Nghiêm Vũ Khải, Lê Thanh Tùng. (2019). Một số vấn đề về đạo đức nghề nghiệp - Thực trạng và giải pháp. Tham luận  
tại Diễn đàn khoa học “Nhiệm vụ và giải pháp nâng cao đạo đức hành nghề trong giai đoạn hiện nay” ngày  
28/8/2019 do Liên hiệp hội Việt Nam tổ chức.  
O’Fallon, M., & Butterfield, K. (2005). A review of the empirical ethical decision-making literature: 1996-2003.  
Journal of Business Ethics, 59, 375-413.  
Pflugrath, G., Martinov-Bennie, N. & Chen, L. (2007). The impact of codes of ethics and experience on auditor  
judgments. Managerial Auditing Journal.  
Rest, J. (1986). Moral development: Advances in research and theory. New York: New York. Praeger Press.  
Robertson, C., & Fadil, P. (1999). Ethical decision making in multinational organizations: A culture-based model.  
Journal of Business Ethics, 19(4) 385-392.  
Roxas, M., & Stoneback, J. (2004). The importance of gender across cultures in ethical decision-making. Journal of  
Business Ethics, 50, 149-165.  
Shapeero, M., Koh, H., & Killough, L. (2003). Underreporting and premature sign-off in public accounting.  
Managerial Auditing Journal, 18(6/7), 478-489.  
Simga-Mugan, C., Daly, B., Onkal, D., & Kavut, L. (2005). The influence of nationality and gender on ethical  
sensitivity: An application of the issue-contingent model. Journal of Business Ethics, 57, 139-159.  
Sweeney, J., (1995). The ethical expertise of accountants: An exploratory analysis. Research in Accounting Ethics, 1(4),  
pp.213-234.  
Thorne, L., & Saunders, S. (2002). The socio-cultural embeddedness of individuals ethical reasoning in organizations  
(cross-cultural ethics). Journal of Business Ethics, 35(1) 1-14.  
Trevino, L. K. (1986). Ethical decision making in organizations: A person-situation interactionist model. Academy of  
management Review, 11, 601-617.  
Trevino, L. K., Butterfield, K. D. & Mccabe, D. L. (1998). The ethical context in organizations: Influences on employee  
attitudes and behaviors. Business Ethics Quarterly, 447-476.  
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021  
64  
pdf 11 trang yennguyen 19/04/2022 2960
Bạn đang xem tài liệu "Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftong_quan_nghien_cuu_ve_nhan_to_anh_huong_den_dao_duc_nghe_n.pdf