Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán
Lê Thị Thu Hà
Học viện Ngân hàng
Ngày nhận: 17/03/2021
Ngày nhận bản sửa: 28/03/2021
Ngày duyệt đăng: 22/04/2021
Tóm tắt: Đạo đức nghề nghiệp là một trong những yêu cầu quan trọng nhất đối với
người hành nghề kế toán - kiểm toán. Bài viết này được thực hiện nhằm hệ thống
một số lý luận chung về đạo đức nghề nghiệp, và tổng quan các nghiên cứu về các
nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp, cụ thể là việc ra quyết định liên quan
đến đạo đức trong lĩnh vực kế toán- kiểm toán. Để thực hiện bài viết, tác giả đã đọc
và thực hiện tổng quan một số nghiên cứu trên thế giới về các nhân tố ảnh hưởng tới
đạo đức nghề nghiệp kế toán- kiểm toán. Trong đó các nhân tố ảnh hưởng đến việc
ra quyết định liên quan đến đạo đức, bao gồm các nhân tố mang tính chất cá nhân
như độ tuổi, giới tính, kinh nghiệm làm việc; và các nhân tố thuộc về môi trường
như chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, giá trị đạo đức doanh nghiệp, văn hoá quốc
gia. Bài viết cung cấp thông tin tham khảo cho các cơ quan quản lý, tổ chức, doanh
nghiệp trong việc thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp
trong các tổ chức, và định hướng các nghiên cứu thực nghiệm có thể được thực hiện
về chủ đề đạo đức nghề nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.
Literature review on determinants of professional ethics for accountants and auditors
Abstract: Acting ethically is one of the most important requirements for accountants and auditors.
This article is designed to systematize theories of professional ethics, and review research on
determinants of professional ethics for accountants and auditors, particularly determinants of ethical
decision-making. To achieve the objective, the author has read and conducted a review of the
literature on determinants of professional ethics. In which determinants of the ethical decision-making
include individual factors such as age, gender, work experience; and environmental factors such as
professional ethical standards, corporate ethical values and national culture. The article provides
references for regulatory agencies, organizations and businesses in the implementing measures to
improve professional ethics in organizations, and guidance for future empirical studies on the topic of
professional ethics in Vietnam.
Keywords: ethics, professional ethics, accounting- auditing.
Ha Thi Thu Le
Email: lethithuha@gmail.com
Banking Academy of Vietnam
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 227- Tháng 4. 2021
© Học viện Ngân hàng
54
ISSN 1859 - 011X
LÊ THỊ THU HÀ
Từ khoá: đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, kế toán - kiểm toán.
1. Giới thiệu
và cái sai, và điều gì nên làm và không nên
làm (Beekun và cộng sự, 2003; Beu và
Buckley, 2001; Christie và cộng sự, 2003).
Như vậy có thể hiểu đạo đức là hệ thống
các tiêu chuẩn, nguyên tắc về các mối quan
hệ và các hành vi được xã hội thừa nhận,
dựa trên đó các thành viên của xã hội điều
chỉnh cách thức ứng xử của mình để phù
hợp với lợi ích chung của cộng đồng.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ
thống những nguyên tắc nhằm điều chỉnh và
đánh giá hành vi của con người trong quan
hệ giữa con người với con người, được hình
thành thông qua niềm tin cá nhân, các giá
trị truyền thống và tác động của cộng đồng.
Đạo đức qui định thái độ, nghĩa vụ, trách
nhiệm của mỗi người đối với bản thân cũng
như đối với các cá nhân khác và cộng đồng.
Vì thế đạo đức là khuôn mẫu, tiêu chuẩn để
xây dựng lối sống, lí tưởng mỗi người, đạo
đức có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của xã hội.
Đạo đức nghề nghiệp là các tiêu chuẩn,
nguyên tắc điều chỉnh hành vi của những
người hành nghề trong một lĩnh vực nghề
nghiệp cụ thể, nhằm đảm bảo người hành
nghề thực hiện nhiệm vụ của mình với chất
lượng tốt, tuân thủ các qui định của pháp
luật, tạo niềm tin cho cộng đồng về chất
lượng dịch vụ cung cấp. Đạo đức nghề
nghiệp là một trong những yêu cầu quan
trọng nhất đối với người hành nghề trong
lĩnh vực kế toán, kiểm toán, xuất phát từ
tầm quan trọng của thông tin kế toán tài
chính của các doanh nghiệp.
Việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng
đến đạo đức nghề nghiệp trong lĩnh vực
kinh doanh nói chung và đối với nghề kế
toán- kiểm toán là cần thiết để từ đó các
cơ quan quản lý và doanh nghiệp có định
hướng phù hợp trong việc đề ra các biện
pháp tăng cường đạo đức nghề nghiệp
trong các tổ chức.
2.2. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp
2. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp kế
toán- kiểm toán
Đạo đức nghề nghiệp là “những phẩm chất
cần có của mỗi người theo đúng những
quy tắc chuẩn mực của một nghề nhất định
được cộng đồng xã hội thừa nhận, nhằm
điều chỉnh hành vi, thái độ của con người
trong quan hệ với con người, tự nhiên và xã
hội khi hành nghề. Đạo đức nghề nghiệp là
những nguyên tắc chi phối hành vi của một
người hoặc một nhóm trong môi trường
công việc. Giống như các giá trị, đạo đức
nghề nghiệp cung cấp các quy tắc về cách
một người nên hành động đối với người
khác và các tổ chức trong một môi trường
như vậy” (Nghiêm Vũ Khải và Lê Thanh
Tùng, 2019).
2.1. Khái niệm đạo đức
Theo từ điển Cambridge, đạo đức là “hệ
thống các tiêu chuẩn cá nhân hay xã hội
về các hành vi và tính cách tốt hay xấu”.
Theo Wikipedia, đạo đức là “hệ thống quy
tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực xã hội mà nhờ
đó con người tự nguyện điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng
đồng, xã hội”. Đạo đức còn được hiểu là
các hành vi đúng đắn của các cá nhân; các
nguyên tắc về các hành vi tốt và xấu; là sự
phân biệt giữa cái tốt và cái xấu, cái đúng
Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
55
Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán
Như vậy đạo đức nghề nghiệp là các tiêu
chuẩn, nguyên tắc điều chỉnh hành vi của
những người hành nghề trong một lĩnh vực
nghề nghiệp cụ thể, nhằm đảm bảo người
hành nghề thực hiện nhiệm vụ của mình
với chất lượng tốt, tuân thủ các qui định
của pháp luật, tạo niềm tin cho cộng đồng
về chất lượng dịch vụ cung cấp. Mỗi nghề
nghiệp đều có thể có các nguyên tắc đạo
đức nghề nghiệp riêng, ví dụ đạo đức nghề
nghiệp đối với ngành y, ngành luật, ngành
kế toán… Đạo đức nghề nghiệp là sự phát
triển của những nguyên tắc đạo đức chung
trong một nghề nghiệp cụ thể, được các
tổ chức, cá nhân hành nghề trong lĩnh vực
nghề nghiệp đó công nhận, là cơ sở để đánh
giá, điều chỉnh hành vi trong lĩnh vực nghề
nghiệp.
nghiêm trọng cho xã hội, làm suy giảm
niềm tin của công chúng vào các BCTC và
tác động tiêu cực đến sự hiệu quả của thị
trường tài chính.
Trong quá trình thực thi công việc, các
kế toán viên, kiểm toán viên có thể gặp
phải các tình huống khó xử về đạo đức, có
thể ảnh hưởng đến tính trung thực, khách
quan của họ và ảnh hưởng đến chất lượng
thông tin BCTC, cũng như lợi ích của công
chúng. Vì vậy việc hiểu và vận đúng các
nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp là một
trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu
với người làm nghề kế toán, kiểm toán.
2.4. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế
toán - kiểm toán
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán-
kiểm toán là những qui định, nguyên tắc cơ
bản về đạo đức nghề nghiệp, do cơ quan
quản lý hoặc hiệp hội nghề nghiệp ban
hành, nhằm hướng dẫn hành vi cho các kế
toán viên, kiểm toán viên và tổ chức hành
nghề kế toán, kiểm toán trong việc xử lý
các vấn đề đạo đức phát sinh trong quá
trình hành nghề. Việc ban hành và áp dụng
các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp nhằm
đảm bảo chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm
toán, đảm bảo tính trung thực và hợp lý của
các thông tin kế toán, từ đó củng cố niềm
tin của công chúng đối với các thông tin tài
chính của doanh nghiệp cũng như đối với
nghề nghiệp kế toán, kiểm toán.
Trên bình diện quốc tế, chuẩn mực đạo đức
cho kế toán viên chuyên nghiệp (The code
of ethics for professional accountants) do
Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) xây dựng
và ban hành năm 2009. Chuẩn mực chia
thành ba phần chính: Phần A đưa ra các
nguyên tắc chung cho kế toán viên chuyên
nghiệp; Phần B đưa ra hướng dẫn cho kế
toán viên, kiểm toán viên hành nghề trong
các doanh nghiệp kế toán, kiểm toán; Phần
2.3. Khái niệm đạo đức nghề nghiệp kế
toán- kiểm toán
Đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán
là hệ thống những nguyên tắc đạo đức áp
dụng cho các cá nhân và tổ chức hành nghề
trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Đạo đức
nghề nghiệp là một trong những yêu cầu
quan trọng nhất đối với người hành nghề
trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, xuất phát
từ tầm quan trọng của thông tin kế toán tài
chính của các doanh nghiệp.
Kế toán thực hiện việc ghi chép, tổng hợp
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, lập báo
cáo tài chính (BCTC) cung cấp cho người
sử dụng thông tin. Còn kiểm toán viên thu
thập các bằng chứng về BCTC của doanh
nghiệp, từ đó đưa ra ý kiến về tính trung
thực hợp lý của các BCTC. Việc ra quyết
định của các cổ đông, nhà đầu tư tiềm năng
và những người sử dụng BCTC khác phụ
thuộc rất nhiều vào BCTC hằng năm của
một công ty. Vì vậy, nếu người làm kế
toán, kiểm toán không tuân thủ các nguyên
tắc đạo đức thì có thể gây ra các hậu quả
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021
56
LÊ THỊ THU HÀ
C áp dụng cho kế toán viên chuyên nghiệp
trong các doanh nghiệp khác.
sau này phát triển và chứng minh qua các
nghiên cứu thực nghiệm. Trong đó nổi bật
là lý thuyết về sự phát triển đạo đức của
Kohlberg (1969) và mô hình hành vi đạo
đức của Rest (1986).
Theo chuẩn mực đạo đức cho kế toán viên
chuyên nghiệp, các kế toán viên chuyên
nghiệp phải đảm bảo tuân thủ năm nguyên
tắc đạo đức cơ bản: (1) tính chính trực, (2)
tính khách quan, (3) năng lực chuyên môn
và tính thận trọng, (4) tính bảo mật, và (5)
tư cách nghề nghiệp.
3.1. Lý thuyết về sự phát triển đạo đức
của Kohlberg (Kohlberg’s cognitive moral
development model)
Tính chính trực: Yêu cầu kế toán viên thẳng
thắn, trung thực trong tất cả các mối quan
hệ chuyên môn và kinh doanh.
Tính khách quan: Kế toán viên không để sự
thiên vị, xung đột lợi ích hoặc bất cứ ảnh
hưởng không hợp lý nào chi phối các xét
đoán chuyên môn và kinh doanh.
Năng lực chuyên môn và tính thận trọng:
Kế toán viên cần duy trì và thể hiện các kiến
thức và kỹ năng chuyên môn cần thiết để có
thể cung cấp các dịch vụ có chất lượng cho
khách hàng; đồng thời hành động một cách
thận trọng và phù hợp với các chuẩn mực
nghề nghiệp.
Tính bảo mật: Kế toán viên phải bảo mật
thông tin thu được từ các mối quan hệ
chuyên môn và kinh doanh, không tiết lộ
bất cứ thông tin nào cho bên thứ ba khi
chưa được sự đồng ý của bên có thẩm
quyền, hoặc được yêu cầu cung cấp thông
tin từ cơ quan quản lý hoặc tổ chức nghề
nghiệp, và cũng như không được sử dụng
thông tin vì lợi ích cá nhân.
Kohlberg là một nhà nghiên cứu trong lĩnh
vực đạo đức và phát triển tâm lý. Ông đã
đề xuất một lý thuyết về sự phát triển đạo
đức, được gọi là quá trình phát triển nhận
thức. Công trình nghiên cứu của Kohlberg
(1969) về các giai đoạn phát triển nhận thức
đạo đức tập trung vào các xét đoán đạo đức
và quá trình nhận thức của các cá nhân khi
họ đối mặt với các tình huống khó xử về
đạo đức, là một đóng góp lớn cho nghiên
cứu về việc ra quyết định đạo đức trong các
tổ chức.
Lý thuyết của Kohlberg (1969) mô tả các
giai đoạn phát triển đạo đức của cá nhân
bao gồm ba cấp độ và sáu giai đoạn phát
triển tiếp nối nhau, cấp độ sau hoàn thiện,
đầy đủ hơn cấp độ trước (Robertson và
Fadil, 1999; Trevino, 1986).
Kohlberg xác định cấp độ phát triển đạo đức
đầu tiên là tiền qui ước (Preconventional
Morality). Các cá nhân ở cấp độ phát triển
này tập trung vào lợi ích trước mắt của
chính họ, các phần thưởng và hình phạt bên
ngoài.
Cấp độ phát triển đạo đức thứ hai là đạo
đức qui ước (Conventional Morality). Các
quyết định đạo đức của các cá nhân trong
các giai đoạn phát triển này dựa trên sự
phù hợp với kỳ vọng của gia đình hoặc
các nhóm đồng đẳng hoặc một bộ phận xã
hội lớn hơn. Các cá nhân trong giai đoạn
đạo đức qui ước duy trì các quy tắc vì điều
đó đó phù hợp với mong đợi của gia đình,
nhóm hoặc xã hội.
Tư cách nghề nghiệp: Phải tuân thủ pháp
luật và các quy định có liên quan, tránh bất
kỳ hành động nào làm giảm uy tín nghề
nghiệp của mình.
3. Một số lý thuyết về sự phát triển đạo
đức và hành vi đạo đức
Trong lịch sử các nghiên cứu về đạo đức
đã có một số nhà nghiên cứu xây dựng
cơ sở lý thuyết về sự phát triển của đạo
đức cá nhân, và đã được các nghiên cứu
Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
57
Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán
Cấp độ phát triển cao nhất của sự phát triển
nhận thức về đạo đức là đạo đức hậu qui
ước (Postconventional Morality). Ở cấp
độ phát triển đạo đức này, các cá nhân tập
trung vào các giá trị đạo đức hoặc nguyên
tắc phổ quát. Hành vi đạo đức là hành vi
dựa trên những nguyên tắc phổ quát về
công bằng, bình đẳng về quyền con người.
Tuy nhiên quyền của cá nhân không được
xung đột với quyền và lợi ích của xã hội.
Kohlberg cho rằng các cá nhân phản ứng
khác nhau với các tình huống đạo đức tùy
thuộc vào giai đoạn phát triển đạo đức của
họ. Khi các cá nhân trải qua các giai đoạn
phát triển đạo đức, họ càng nhận thức rõ
quyền lợi của người khác và sự công bằng
dựa trên các nguyên tắc phổ quát. Các cá
nhân trong giai đoạn tiền qui ước thường
tuân thủ các quy tắc vì lợi ích riêng của họ
và để tránh bị trừng phạt. Ngược lại, các cá
nhân ở giai đoạn phát triển đạo đức qui ước
có xu hướng duy trì các quy tắc vì điều đó
phù hợp với mong đợi của một nhóm tham
chiếu hoặc của xã hội. Các cá nhân ở giai
đoạn phát triển hậu qui ước duy trì nghĩa vụ
trước pháp luật và sẽ tuân theo các nguyên
tắc đạo đức do họ lựa chọn bất kể ý kiến
của đa số.
đầu bằng việc xác định một vấn đề đạo
đức hoặc tình huống khó xử về đạo đức
(identification of an ethical dilemma). Một
khi một tình huống khó xử về đạo đức đã
được xác định, ở bước tiếp theo, các cá
nhân tiến hành xét đoán để xác định những
hành động nào nên được thực hiện để giải
quyết tình huống khó xử (assessment of
ethical choices). Việc xét đoán (judgment)
này cho phép một cá nhân đánh giá sự phù
hợp của các hành động khác nhau để xử lý
tình huống đạo đức. Tiếp theo quá trình xét
đoán là việc xác định hành động dự kiến
sẽ thực hiện (planned intention to act). Giai
đoạn cuối cùng của quá trình tâm lý là việc
thực hiện hành vi đạo đức (ethical action or
behavior).
Mô hình bốn giai đoạn của Rest cho rằng
để hành vi đạo đức xảy ra, các cá nhân phải
thực hiện các quy trình tâm lý cơ bản: Thứ
nhất, cá nhân phải có khả năng phân tích
tình huống để xác định những hành động
có thể thực hiện, các bên sẽ bị ảnh hưởng
của các hành động này và ảnh hưởng của
hành động đến lợi ích của họ. Thứ hai, cá
nhân phải có khả năng xét đoán hành động
nào là đúng đắn về mặt đạo đức, từ đó xác
định một hành động khả thi mà cá nhân đó
nên thực hiện trong tình huống đó. Thứ ba,
cá nhân đó phải ưu tiên cho các giá trị đạo
đức trên các giá trị cá nhân khác để quyết
định sẽ thực hiện hành vi đạo đức. Thứ
tư, cá nhân đó phải có đủ sự kiên trì, lòng
tự trọng và khả năng thực hiện ý định của
mình để vượt qua những trở ngại và hành
xử đạo đức (Croxford, 2010).
Mô hình của Kohlberg chỉ ra rằng quá trình
phát triển nhận thức đạo đức của các cá
nhân phụ thuộc vào độ tuổi, giáo dục và
yếu tố kinh nghiệm (Conroy và cộng sự,
2010; Robertson và Fadil, 1999).
3.2. Mô hình hành vi đạo đức của Rest
(Rest’s Model of Moral Action)
Dựa trên lý thuyết về phát triển nhận thức
của Kohlberg, Rest (1986) đã đề xuất mô
hình hành vi đạo đức để mô tả quá trình
nhận biết, suy luận và thực hiện hành động
đạo đức của một cá nhân.
4. Tổng quan các nhân tố ảnh hưởng đến
đạo đức nghề nghiệp kế toán- kiểm toán
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu khác
nhau đã được thực hiện nhằm xác định các
nhân tố ảnh hưởng tới hành vi đạo đức của
một cá nhân, các nghiên cứu này chủ yếu tập
Theo mô hình Rest, quá trình ra quyết
định đạo đức bao gồm bốn giai đoạn, bắt
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021
58
LÊ THỊ THU HÀ
trung vào hai nhóm nhân tố. Nhóm thứ nhất
là các nhân tố thuộc về đặc điểm cá nhân
có thể tác động đến việc đưa ra các quyết
định đạo đức, ví dụ giới tính, kinh nghiệm
làm việc, độ tuổi... (Jones và cộng sự, 2003,
Douglas và cộng sự, 2001). Nhóm thứ hai là
nhóm nhân tố môi trường có tác động đến
các quyết định đạo đức, bao gồm vai trò của
các chuẩn mực đạo đức, văn hoá quốc gia
và các nhân tố thuộc về tổ chức như giá trị
đạo đức (ethical values) của tổ chức (Ismail,
2015; Maree và Radloff, 2007).
với các sinh viên chuyên ngành kế toán, tài
chính, luật, kinh doanh tìm thấy bằng chứng
cho thấy nữ giới ít chấp nhận hành vi phi
đạo đức hơn nam giới trong bốn trên năm
tình huống đạo đức. Emerson và cộng sự
(2007) thực hiện khảo sát với 520 kế toán
viên hành nghề từ Viện kế toán công chứng
Hoa Kỳ (AICPA) cho thấy nam giới chấp
nhận các hành vi phi đạo đức nhiều hơn nữ
giới trong 21 trên 25 tình huống. Conroy và
cộng sự (2010) có kết quả tương tự trong
một nghiên cứu với 195 kế toán viên hành
nghề của AICPA, cho thấy đối tượng khảo
sát là nam giới chấp nhận các hành vi phi
đạo đức nhiều hơn nữ giới trong 10 trên 30
tình huống nghiên cứu.
4.1. Các nhân tố thuộc về cá nhân
a. Giới tính
Giới tính thường được các nhà nghiên cứu
cho là một trong các nhân tố ảnh hưởng đến
các quyết định về đạo đức, và thường hay
được đưa vào trong các mô hình nghiên
cứu về đạo đức (Jones và cộng sự, 2003).
Tuy nhiên, bằng chứng thực nghiệm về
tác động của giới tính tới các quyết định
đạo đức cho các kết quả khác biệt. Một số
nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ giữa
giới tính và hành vi đạo đức, trong khi một
số nghiên cứu khác cho thấy phụ nữ ít chấp
nhận hành vi phi đạo đức hơn nam giới.
O’Fallon và Butterfield (2005) trong một
tổng quan nghiên cứu về việc ra quyết định
đạo đức trong khoảng thời gian 1996- 2003
đã xác định có 49 nghiên cứu về tác động
của giới tính tới việc ra quyết định đạo đức,
trong đó 23 nghiên cứu không tìm thấy mối
quan hệ có ý nghĩa thống kê, và 16 nghiên
cứu cho thấy phụ nữ hành xử có đạo đức
hơn nam giới trong một số trường hợp.
Trong khi một tổng quan nghiên cứu khác
trước đó của Loe và cộng sự (2000) tìm
thấy 09 nghiên cứu không cho kết quả khác
biệt giữa nam giới và nữ giới, 12 nghiên
cứu cho thấy nữ giới hành xử đạo đức hơn
nam giới trong một số trường hợp.
Theo Croxford (2010), các kết quả nghiên
cứu khác nhau về giới tính có thể được giải
thích bằng hai lý thuyết là cách tiếp cận
xã hội hóa giới tính (gender socialization
approach)vàcáchtiếpcậncấutrúc(structural
approach). Cách tiếp cận xã hội hoá giới tính
cho rằng nam giới và nữ giới có những đặc
điểm khác nhau tạo ra các định hướng đạo
đức khác nhau, từ đó dẫn đến sự khác biệt
trong các quyết định và thực hành đạo đức
(Roxas và Stoneback, 2004).
Cách tiếp cận thứ hai là cách tiếp cận cấu
trúc, lập luận rằng sự khác biệt về giới
phụ thuộc vào các yếu tố bối cảnh cụ thể
(Simga-Mugan và cộng sự, 2005). Cách
tiếp cận cấu trúc lập luận rằng định hướng
đạo đức sẽ bị tác động bởi các yếu tố nghề
nghiệp. Theo cách tiếp cận này, các chuẩn
mực nghề nghiệp khiến cho nam giới và nữ
giới trở nên giống nhau hơn trong các điều
kiện nghề nghiệp giống nhau, từ đó dẫn đến
không có sự khác biệt giữa hai giới tính khi
ra các quyết định đạo đức.
b. Độ tuổi
Nhiều nhà nghiên cứu coi độ tuổi là một
yếu tố tác động đến quá trình ra quyết định
đạo đức (Hunt và Vitell, 1986; Kohlberg,
Lopez và cộng sự (2005) trong nghiên cứu
Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
59
Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán
1969). Theo lý thuyết của Kohlberg
(1969), các cá nhân lớn tuổi hơn có khả
năng đưa ra các quyết định phù hợp đạo
đức hơn. Tuy nhiên, các bằng chứng thực
nghiệm cho các kết quả khác nhau về tác
động của độ tuổi tới quyết định đạo đức.
O’Fallon và Butterfield’s (2005) thực hiện
tổng quan nghiên cứu các công trình công
bố từ 1996 tới 2003, kết quả cho thấy 08
nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ giữa
tuổi và hành vi đạo đức, 05 nghiên cứu
phát hiện mối quan hệ ngược chiều giữa độ
tuổi và quyết định đạo đức, và 06 nghiên
cứu cho kết quả thuận chiều giữa hai biến
này. Loe và cộng sự (2000) cho thấy trong
08 nghiên cứu về đạo đức, 01 nghiên cứu
không có mối liên hệ giữa tuổi và quyết
định đạo đức, 05 nghiên cứu cho thấy đối
tượng khảo sát lớn tuổi hơn có quyết định
đạo đức phù hợp hơn các đối tượng trẻ tuổi.
Maree và Radloff (2007) thực hiện nghiên
cứu về xét đoán đạo đức đối với các kế toán
viên ở Nam Phi, kết quả cho thấy trong 03
tình huống đạo đức, chỉ có 01 tình huống
trong đó các kế toán viên ít tuổi hơn đưa ra
các xét đoán đạo đức phù hợp hơn, 02 tình
huống còn lại không cho thấy mối quan hệ
giữa độ tuổi và xét đoán đạo đức.
c. Kinh nghiệm làm việc
Nhiều nghiên cứu cho thấy mối quan hệ
thuận chiều giữa hành vi đạo đức và kinh
nghiệm làm việc. Harris (1990) khảo sát
112 nhà kinh doanh ở các cấp độ quản lý
khác nhau trong một công ty để xác định
mối quan hệ giữa giá trị đạo đức của các
cá nhân với kinh nghiệm làm việc. Kết quả
cho thấy có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê
giữa kinh nghiệm làm việc và việc không
chấp nhận hành vi phi đạo đức của đối
tượng khảo sát. Cụ thể là các nhà quản lý
cấp cao ít chấp nhận hành vi gian lận hơn
so với các thành viên khác trong tổ chức.
Shapeero và cộng sự (2003) tìm thấy quan
hệ thuận chiều giữa ý định hành xử đạo đức
và số năm kinh nghiệm trong một nghiên
cứu với 82 kiểm toán viên trong các công
ty kiểm toán ở Mỹ. Ngược lại, nghiên cứu
của Conroy và cộng sự (2010) trên mẫu
195 kế toán viên chuyên nghiệp cho thấy
sự khác biệt nhỏ giữa các thành viên ít kinh
nghiệm và các giám đốc trong việc chấp
nhận các hành vi phi đạo đức. Như vậy, các
nghiên cứu trước cho thấy các bằng chứng
trái ngược nhau về vai trò của kinh nghiệm
làm việc trong việc ra các quyết định đạo
đức của kế toán viên.
Emerson và cộng sự (2007) khảo sát các
kế toán viên hành nghề của Mỹ từ AICPA
thông qua 25 tình huống liên quan đến nhiều
vấn đề đạo đức như môi trường, kế toán,
marketing, hối lộ… Kết quả cho thấy trong
19/25 tình huống, các cá nhân lớn tuổi hơn
ít chấp nhận hành vi phi đạo đức hơn các
cá nhân ít tuổi. Conroy và cộng sự (2010)
cũng tìm thấy kết quả tương tự trong nghiên
cứu với kế toán viên hành nghề của Mỹ, với
16/30 tình huống cho thấy độ tuổi cao hơn
ít chấp nhận hành vi phi đạo đức hơn. Như
vậy, các kết quả nghiên cứu về tác động của
độ tuổi tới quyết định hành vi đạo đức có sự
khác nhau, cho thấy đây là vấn đề phức tạp
và cần tiếp tục được nghiên cứu.
Ngoài các nhân tố thường gặp trên, một
số nghiên cứu còn xem xét vai trò của các
nhân tố như xu hướng chính trị của các cá
nhân, trình độ học vấn, xu hướng đạo đức cá
nhân, trí thông minh cảm xúc... tới xét đoán
đạo đức. Ví dụ, Eynon và cộng sự (1997),
Sweeney (1995) cho thấy người theo chủ
nghĩa tự do có xét đoán tốt hơn người theo
chủ nghĩa bảo thủ, và các kế toán viên hành
nghề đã hoàn thành các khoá đào tạo về
đạo đức có xét đoán tốt hơn. O’Fallon và
Butterfield (2005) cho thấy người theo chủ
nghĩa lý tưởng (idealism) và đạo lý học
(deontology) ra quyết định đạo đức phù
hợp hơn so với người theo chủ nghĩa tương
đối (relativism) và chủ nghĩa mục đích
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021
60
LÊ THỊ THU HÀ
(teleology). Ismail (2015) thu được bằng
chứng cho thấy trí thông minh cảm xúc có
tác động tích cực đến xét đoán đạo đức của
kiểm toán viên tại Malaysia.
dựa trên bảng câu hỏi về tầm quan trọng
của chuẩn mực đạo đức và ba tình huống về
đạo đức. Kết quả nghiên cứu của Martinson
và Ziegenfuss (2000) và Maree và Radloff
(2007) cho thấy có mối quan hệ có ý nghĩa
thống kê giữa chuẩn mực và xét đoán của
kế toán viên, tuy nhiên Muslumov và Aras
(2004) không tìm thấy mối quan hệ có ý
nghĩa thống kê giữa chuẩn mực và các xét
đoán của kế toán viên.
Pflugrath và cộng sự (2007) nghiên cứu mối
liên quan giữa chuẩn mực đạo đức với khả
năng xét đoán của kế toán viên và sinh viên
kiểm toán tại Úc. Kết quả cho thấy có các
chuẩn mực đạo đức có tác động tích cực
đến xét đoán của các kế toán viên, nhưng
không tác động đến xét đoán của sinh viên.
Điều này cho thấy các chuẩn mực đạo đức
giúp tăng chất lượng các xét đoán của kế
toán viên có nhiều kinh nghiệm hơn.
4.2. Các nhân tố thuộc về môi trường
a. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp dành cho
kế toán viên là một hệ thống các nguyên
tắc và yêu cầu do chính phủ hoặc hiệp hội
nghề nghiệp ban hành mà kế toán viên và
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kế toán
phải áp dụng để đảm bảo hành vi chuẩn
mực của họ và duy trì niềm tin của công
chúng (Fatemi và cộng sự, 2020). Quy tắc
đạo đức được xây dựng để hỗ trợ người làm
kế toán xác định, đánh giá và phản ứng với
các tình huống liên quan đến các vấn đề
đạo đức một cách đúng đắn. Việc tuân thủ
các chuẩn mực đạo đức giúp nâng cao uy
tín và trách nhiệm của người làm kế toán và
người làm kiểm toán, đồng thời nâng cao
lòng tin của công chúng đối với thông tin
kế toán của doanh nghiệp.
Vì chuẩn mực đạo đức cung cấp hướng dẫn
về các vấn đề đạo đức mà kế toán viên phải
tuân theo để giải quyết các tình huống khó
xử về đạo đức, việc hiểu biết tốt và tuân thủ
nghiêm ngặt các nguyên tắc sẽ giúp kế toán
viên đưa ra phán đoán đạo đức phù hợp.
Cả khuôn khổ lý thuyết và nghiên cứu thực
nghiệm đều cho thấy tầm quan trọng của
chuẩn mực đạo đức đối với xét đoán đạo
đức của một cá nhân.
Douglas và cộng sự (2001) cũng xem xét
tác động của việc am hiểu chuẩn mực đạo
đức tới xét đoán của kiểm toán viên trong
các công ty kiểm toán của Mỹ. Kết quả cho
thấy kiểm toán viên có hiểu biết tốt hơn về
chuẩn mực đạo đức thì đưa ra các xét đoán
có chất lượng hơn.
b. Giá trị đạo đức doanh nghiệp
Giá trị đạo đức doanh nghiệp (corporate
ethical values), còn được gọi là văn hoá
đạo đức doanh nghiệp (corporate ethical
culture), được hiểu là “tổng hợp giá trị đạo
đức của cá nhân của các nhà quản lý, và
các chính sách chính thức và không chính
thức về đạo đức của một tổ chức” (Hunt
và cộng sự, 1989). Giá trị đạo đức doanh
nghiệp là một hệ thống các giá trị được các
thành viên trong một tổ chức cùng chia sẻ,
và là một phần của văn hoá doanh nghiệp
(Trevino và cộng sự, 1998). Giá trị đạo đức
doanh nghiệp thể hiện các quan điểm của
nhà lãnh đạo về vấn đề đạo đức, được hình
thành thông qua thái độ và hành vi của nhà
Nhiều bằng chứng thực nghiệm cho thấy
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp có tác
động đến xét đoán đạo đức của các cá nhân.
Martinson và Ziegenfuss (2000), Maree
và Radloff (2007), Muslumov và Aras
(2004) nghiên cứu mối quan hệ giữa tầm
quan trọng của chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp tới khả năng xét đoán của các kế
toán viên tại Mỹ, Nam Phi và Thổ Nhĩ Kỳ
Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
61
Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán
quản lý. Giá trị đạo đức doanh nghiệp bao
gồm các chính sách thưởng và phạt đối với
hành vi tuân thủ hay vi phạm các qui định
đạo đức của doanh nghiệp (Douglas và
cộng sự, 2001).
hình thành các giá trị, niềm tin và thái độ và
định hướng cho các cá nhân trong việc ra
các quyết định (Christie và cộng sự, 2003;
Hofstede, 1997). Vì văn hóa là sự kết hợp
các yếu tố truyền thống, di sản, nghi lễ,
phong tục và tôn giáo, các cá nhân từ các
nền văn hóa khác nhau có thể có các khác
biệt đáng kể trong các tiêu chuẩn đạo đức,
niềm tin và hành vi (Blodgett và cộng sự,
2001).
Xuất phát từ nghiên cứu của Hofstede
(1980) phân chia văn hoá quốc gia theo
hai xu hướng là xu hướng văn hoá tập thể
(collectivism) và xu hướng văn hoá cá nhân
(individualism), một số nghiên cứu cho
thấy đặc điểm văn hoá quốc gia có tác động
đến các quyết định về đạo đức.
Husted (2001) cho rằng chủ nghĩa cá nhân/
chủ nghĩa tập thể trong văn hóa quốc gia
ảnh hưởng đến việc ra quyết định về kinh
doanh, dẫn tới sự khác biệt trong nhận thức
về các tình huống đạo đức của cá nhân từ
các nền văn hóa khác nhau.
Thorne và Saunders (2002) cho rằng cá nhân
từ các nền văn hóa theo chủ nghĩa tập thể có
khả năng nhận ra tình huống khó xử về đạo
đức hơn so với cá nhân từ các nền văn hóa
có định hướng chủ nghĩa cá nhân. Croxford
(2010) thực hiện nghiên cứu về tác động của
văn hoá quốc gia đối với các kế toán viên
trong một công ty đa quốc gia. Kết quả cũng
cho thấy kế toán viên đến từ các quốc gia
theo chủ nghĩa cá nhân có xu hướng chấp
nhận hành vi phi đạo đức hơn các cá nhân từ
quốc gia theo chủ nghĩa tập thể.
Theo Trevino (1986), giá trị đạo đức doanh
nghiệp tác động đến hành vi đạo đức của
các cá nhân thông qua việc định hình quan
điểm và hành vi đạo đức của cá nhân. Văn
hóa doanh nghiệp mạnh có thể nâng cao sự
phát triển nhận thức đạo đức của các thành
viên và giúp các thành viên xác định điều gì
là đúng hay sai trong một hoàn cảnh cụ thể.
Các bằng chứng thực nghiệm cũng chỉ ra
rằng văn hoá đạo đức của tổ chức có ảnh
hưởng tới xét đoán đạo đức. Ismail (2015)
nghiên cứu tác động của văn hoá đạo đức
tới khả năng xét đoán của các kiểm toán
viên tại Malaysia. Kết quả hồi qui cho
thấy kiểm toán viên làm việc trong doanh
nghiệp có văn hoá đạo đức tốt hơn thì có
khả năng xét đoán tốt hơn. Douglas và
cộng sự (2001) cũng tìm được bằng chứng
cho thấy văn hoá đạo đức doanh nghiệp các
tác động đến khả năng xét đoán đạo đức
của kiểm toán viên.
Một số nghiên cứu cho thấy giá trị đạo đức
có mức độ ảnh hưởng khác nhau trong các
tình huống đạo đức khác nhau. Nghiên cứu
của Maree và Radloff (2007) cho thấy giá
trị đạo đức doanh nghiệp có tác động đến
xét đoán của kiểm toán viên khi xem xét
các trường hợp liên quan đến hành vi sai
trái, nhưng không có tác động rõ ràng đối
với các hành vi tích cực.
Ngoài ra, một số nghiên cứu cũng tìm hiểu
tác động của các nhân tố môi trường khác
ảnh hưởng đến quyết định đạo đức, ví dụ qui
mô doanh nghiệp, chính sách thưởng phạt,
tính chất ngành nghề, mức độ cạnh tranh…
Kết quả cũng cho thấy có sự khác biệt giữa
các nghiên cứu về vai trò của các nhân tố
này tới việc ra quyết định đạo đức của các cá
nhân (O’Fallon và Butterfield, 2005).
c. Văn hoá quốc gia
Bên cạnh các yếu tố trực tiếp trong môi
trường làm việc, nền tảng văn hoá quốc gia
có thể ảnh hưởng tới quyết định đạo đức.
Văn hóa có thể hiểu là những giá trị và niềm
tin chung của một nhóm cá nhân (Cohen và
cộng sự 1992; Thorne và Saunders, 2002).
Văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021
62
LÊ THỊ THU HÀ
5. Kết luận
đức doanh nghiệp hay môi trường văn hoá
quốc gia có thể tác động đến hành vi đạo đức
của các cá nhân. Việc xác định các yếu tố
này là cơ sở để các cơ quan quản lý, tổ chức,
doanh nghiệp có thể điều chỉnh, nâng cao
đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề
kế toán - kiểm toán. Việc xác định tổng quan
các nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề
nghiệp cũng là cơ sở cho việc thực hiện các
nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam về
chủ đề này trong thời gian tới ■
Trong bài viết này, tác giả đã hệ thống hoá
cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu các
nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp
kế toán - kiểm toán dựa trên việc tổng hợp
một số nghiên cứu đã được thực hiện trên
thế giới. Kết quả cho thấy có nhiều nhân tố
khác nhau, bao gồm các yếu tố thuộc về cá
nhân như tuổi, giới tính, kinh nghiệm làm
việc, cũng như môi trường làm việc như các
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, giá trị đạo
Tài liệu tham khảo
Beekun R., Stedham, Y, & Yamamura, J. (2003). Business ethics in Brazil and the U.S.: A comparative investigation.
Journal of Business Ethics, 42(3), 267-279.
Beu, D., & Buckley, M. (2001). The hypothesized relationship between accountability and ethical behavior. Journal of
Business Ethics, 34(1), 57-73.
Blodgett, J. Lu, G., Rose, G., (2001). Ethical sensitivity to stakeholder interest: A cross-cultural comparison. Journal of
the Academy of Marketing Science, 29, 190-202.
Cohen, J, Pant, L., & Sharp, D. (1992). Cultural and socioeconomic constraints on international codes of ethics:
Lessons from accounting. Journal of Business Ethics, 11(9), 687-700.
Conroy, S., Emerson, T., & Pons, F. (2010). Ethical attitudes of accounting practitioners: Are rank and ethical
attitudes related? Journal of Business Ethics, 91, 183-194.
Christie, M., Kwon, I., Stoeberl, P., & Baumhart, R. (2003). A cross-cultural comparison of ethical attitudes of business
managers: India, Korea and the United States. Journal of Business Ethics, 46(3), 263-287.
Croxford, J. L. (2010). Determinants of ethical decision making: A study of accountants in a multinational firm. Doctor
of Philosophy, Capella University.
Douglas, P. C., Davidson, R. A. & Schwartz, B. N. (2001). The effect of organizational culture and ethical orientation
on accountants’ ethical judgments. Journal of Business Ethics, 34, 101-121.
Emerson, T., Conroy, S., & Stanley, C. (2007). Ethical attitudes of accountants: Recent evidence from a practitioners’
survey. Journal of Business Ethics, 71(1), 73-87.
Eynon, G., Hills, N.T. & Stevens, K.T., (1997). Factors that influence the moral reasoning abilities of accountants:
Implications for universities and the profession. Journal of Business ethics, 16(12), pp.1297-1309.
Fatemi, D., Hasseldine, J. & Hite, P. (2020). The Influence of ethical codes of conduct on professionalism in tax
practice. Journal of Business Ethics, 164, 133-149.
Harris, J., & Sutton, C. 1995. Unraveling the ethical decision-making process: Clues from an empirical study
comparing Fortune 1000 executives and MBA students. Journal of Business Ethics, 14(10), 805-817.
Hofstede, G. (1980). Cultures consequences: International differences in work related values. Beverly Hills, CA: Sage.
Hofstede, G. (1997). Cultures and organizations, software of the mind: Intercultural cooperation and its importance for
survival. London, England: McGraw-Hill.
Hunt, S. D. & Vitell, S. (1986). A general theory of marketing ethics. Journal of macromarketing, 6, 5-16.
Hunt, S. D., Wood, V. R. & Chonko, L. B. (1989). Corporate ethical values and organizational commitment in
marketing. Journal of marketing, 53, 79-90.
Husted, B. (2001). The impact of individualism and collectivism on ethical decision making by individuals in
organizations. Academy of Management Proceedings and Membership Directory, pI1-I6
ifac.org/system/files/publications/files/Code-of-Ethics_July_2009_FINAL_02_23_10.pdf
Ismail, S. (2015). Influence of emotional intelligence, ethical climates, and corporate ethical values on ethical judgment
of Malaysian auditors. Asian Journal of Business Ethics, 4, 147-162.
Jones, J., Massey, D. W. & Thorne, L. (2003). Auditors’ ethical reasoning: Insights from past research and
implications for the future. Journal of Accounting Literature, 22, 45.
Số 227- Tháng 4. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
63
Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán
Kohlberg, L. (1969.) Stage and sequence: The cognitive-developmental approach to socialization. Handbook of
socialization theory and research. Chicago: Rand McNally.
Loe, T.W., L. Ferrell, & P. Mansfield. (2000). A review of empirical studies assessing ethical decision making in
business. Journal of Business Ethics 25: 185–204.
Lopez, Y., Rechner, P., & Olson-Buchanan, J. (2005). Shaping ethical perceptions: An empirical assessment of the
influence of business education, culture, and demographic factors. Journal of Business Ethics, 60(4), 341-358.
Maree, K. W. & Radloff, S. (2007). Factors affecting ethical judgement of South African chartered accountants.
Meditari: Research Journal of the School of Accounting Sciences, 15, 1-18.
Martinson, O. B. & Ziegenfuss, D. E. (2000). Looking at What Influences ETHICAL Perception and Judgment.
Management Accounting Quarterly, 2.
Muslumov, A. & Aras, G. (2004). The analysis of factors affecting ethical judgements: the Turkish evidence.
Nghiêm Vũ Khải, Lê Thanh Tùng. (2019). Một số vấn đề về đạo đức nghề nghiệp - Thực trạng và giải pháp. Tham luận
tại Diễn đàn khoa học “Nhiệm vụ và giải pháp nâng cao đạo đức hành nghề trong giai đoạn hiện nay” ngày
28/8/2019 do Liên hiệp hội Việt Nam tổ chức.
O’Fallon, M., & Butterfield, K. (2005). A review of the empirical ethical decision-making literature: 1996-2003.
Journal of Business Ethics, 59, 375-413.
Pflugrath, G., Martinov-Bennie, N. & Chen, L. (2007). The impact of codes of ethics and experience on auditor
judgments. Managerial Auditing Journal.
Rest, J. (1986). Moral development: Advances in research and theory. New York: New York. Praeger Press.
Robertson, C., & Fadil, P. (1999). Ethical decision making in multinational organizations: A culture-based model.
Journal of Business Ethics, 19(4) 385-392.
Roxas, M., & Stoneback, J. (2004). The importance of gender across cultures in ethical decision-making. Journal of
Business Ethics, 50, 149-165.
Shapeero, M., Koh, H., & Killough, L. (2003). Underreporting and premature sign-off in public accounting.
Managerial Auditing Journal, 18(6/7), 478-489.
Simga-Mugan, C., Daly, B., Onkal, D., & Kavut, L. (2005). The influence of nationality and gender on ethical
sensitivity: An application of the issue-contingent model. Journal of Business Ethics, 57, 139-159.
Sweeney, J., (1995). The ethical expertise of accountants: An exploratory analysis. Research in Accounting Ethics, 1(4),
pp.213-234.
Thorne, L., & Saunders, S. (2002). The socio-cultural embeddedness of individuals ethical reasoning in organizations
(cross-cultural ethics). Journal of Business Ethics, 35(1) 1-14.
Trevino, L. K. (1986). Ethical decision making in organizations: A person-situation interactionist model. Academy of
management Review, 11, 601-617.
Trevino, L. K., Butterfield, K. D. & Mccabe, D. L. (1998). The ethical context in organizations: Influences on employee
attitudes and behaviors. Business Ethics Quarterly, 447-476.
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 227- Tháng 4. 2021
64
Bạn đang xem tài liệu "Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp kế toán - kiểm toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tong_quan_nghien_cuu_ve_nhan_to_anh_huong_den_dao_duc_nghe_n.pdf