Tiểu luận Quan hệ sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế chuyển đổi. Ý nghĩa và định hướng vân dụng cho Việt Nam

MỤC LỤC  
Chương II. Ý nghĩa định hướng vận dụng cho Việt Nam  
1
MỞ ĐẦU  
Những thập niên cuối cùng của TK XX các nước khu vực Trung- Đông  
Âu và Châu Á đã diễn ra quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập  
trung sang nền kinh tế thị trường của hơn 30 nước trên thế giới. Quá trình  
chuyển đổi ấy với nhiều nội dung khác nhau trong đó một trong những nội  
dung quan trọng chuyển đổi kinh tế nông nghiệp trong nền kinh tế chuyển  
đổi.  
Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội xuất phát điểm  
từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu. Đại bộ phận dân số sống ở nông  
thôn và làm nông nghiệp, số hộ nghèo nông thôn còn nhiều, chênh lệch về  
thu nhập mức sống giữa nông thôn và thành thị ngày càng lớn cản trở sự  
phát triển kinh tế hội, làm phát sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn trong xã hội... Vì  
vậy, thể nói chuyển đổi kinh tế nông nghiệp là vô cùng cần thiết. Đó cũng  
là lý do tại sao tác giả lại chọn đề tài: “Quan hệ sản xuất nông nghiệp trong  
nền kinh tế chuyển đổi. Ý nghĩa định hướng vân dụng cho Việt Nam”  
làm tiểu luận.  
Trên cơ sở luận về kinh tế chuyển đổi, đặc thù của quan hệ sản xuất  
nông nghiệp học viên rút ra ý nghĩa định hướng vận dụng của Việt Nam.  
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu của đề tài là các phương pháp  
nghiên cứu của khoa học chuyên ngành kinh tế chính trị như trừu tượng hóa  
khoa học, logic kết hợp lịch sử, phân tích, thống kê. Đồng thời dựa trên cơ sở  
phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin như: duy vật biện chứng, duy  
vật lịch sử và các quan điểm đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản  
Việt Nam và một số phương pháp nghiệp vụ khác nhằm phân tích và làm rõ  
hơn những vấn đề luận thực tiễn .  
2
 
Chương I. QUAN HỆ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP  
TRONG NỀN KINH TẾ CHUYỂN ĐỔI  
1.1. Quan niệm về nền kinh tế chuyển đổi  
Những thập niên cuối cùng của thế kXX được ghi dấu bởi sự xuất hiện  
dạng đặc thù kinh tế nền kinh tế quá độ, gắn với sự chuyển đổi từ nền kinh  
tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường diễn ra trong nhiều nước đã từng  
lựa chọn con đường hội chủ nghĩa với mô hình nền kinh tế kế hoạch hóa  
tập trung. Được áp dụng thực hiện ở Liên Xô, một số nước Đông Âu,  
Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba, Lào, Việt Nam và một số nước thuộc thế  
giới thứ ba.  
Quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế đã chịu ảnh hưởng mạnh bởi các  
điều kiện kinh tế hội của mỗi nước. Do điều kiện mỗi nước khác nhau nên  
quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị  
trường của mỗi nước cũng được áp dụng mô hình kinh tế chuyển đổi khác  
nhau. Chẳng hạn Liên Bang Nga một số nước Đông Âu, Nam Tư thực hiện  
quá trình chuyển đổi kinh tế nhanh hơn quyết liệt hơn. Trung Quốc và  
Việt Nam thực hiện quá trình chuyển đổi theo từng giai đoạn, từng bước, từng  
thời kỳ nhất định. Từ đó hình thành những nền kinh tế chuyển đổi nền kinh  
tế chuyển từ mô hình nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình mô  
hình kinh tế thị trường trên cả hai phương diện lực lượng sản xuất và quan hệ  
sản xuất.  
Nền kinh tế chuyển đổi, xét về bản chất nội dung là tình trạng đặc biệt và  
hình thức đặc thù của sự thay đổi của hệ thống kinh tế - xã hội trong thời kỳ  
quá độ từ nấc thang sang nấng thang mới. Nền kinh tế chuyển đổi đặc  
trưng như là tình trạng “trung gian”, “giao thời” từ hệ thống kinh tế - xã hội  
sang hệ thống kinh tế - xã hội mới. Đây cũng thời kỳ của những chuyển  
đổi cách mạng, bước ngoặt, những cải tạo gốc rễ của cả đời sống hội tư  
tưởng… chịu sự tác động mạnh mẽ của các nhân tố bên ngoài hệ thống và  
3
   
các quy luật nằm ngoài hệ thống, để thể chuyển sang hệ thống kinh tế - xã  
hội mới.  
vậy, vai trò “bà đỡ”, “mở đường” của các thành tố tư tưởng, chính trị,  
chính sách... (thuộc kiến trúc thượng tầng) ảnh hưởng mạnh trong nền kinh  
tế chuyển đổi.  
Quá trình chuyển đổi kinh tế còn là một thời kỳ lịch sử lâu dài, phức tạp  
đa dạng. Ở đó diễn ra sự hình thành và phát triển của hệ thống KH – XH  
mới sự suy tàn của hệ thống kinh tế – xã hội cũ.  
1.2. Đặc thù quan hệ sản xuất nông nghiệp trước chuyển đổi  
lẽ không ở đâu trên thế giới, nông dân được tổ chức chặt chẽ như ở  
các nước hội chủ nghĩa trước đây với cả mục tiêu quản lý chính trị kế  
hoạch hóa kinh tế. Tại Liên Xô, chương trình tập thể hóa bắt đầu từ năm 1929  
đến 1937, có 99% nông dân đã trở thành nông trang viên và nông trường viên.  
Trong quá trình phát triển, rất nhiều nông trang tập thể chuyển dần cung  
cách quản lý sang hình thức nông trường với đời sống và cung cách làm việc  
như công nhân nông nghiệp. Mặc dù quy mô các đơn vị này rất lớn, được đầu  
trang bị kết cấu hạ tầng lớn từ ngân sách chính phủ, nhân viên được  
hưởng chế độ lương và phúc lợi hội, nhưng cách quản lý này không còn  
phù hợp với sản xuất nông nghiệp. thể nói các nước nền kinh tế chuyển  
đổi thực hiện ở lĩnh vực nông nghiệp rất khó khăn trong việc áp dụng cơ chế  
kinh tế thị trường trong hai lĩnh vực nhạy cảm lương thực đất đai.  
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội đã hình thành tổ hợp kinh tế  
nông – công nghiệp với ba lĩnh vực cơ bản: chế tạo máy cho sản xuất nông  
nghiệp, công nghiệp thực phẩm; công nghiệp hóa chất, sản xuất thức ăn chăn  
nuôi; hệ thống dịch vụ nông nghiệp, tưới tiêu; trồng trọt, chăn nuôi, lâm  
nghiệp, thủy sản; công nghiệp chế biến, vận chuyển, bảo quản, tiêu thụ nông  
sản.  
4
 
Thực tiễn cho thấy, Liên Xô, Cộng Hòa Dân Chủ Đức, Tiệp Khắc là  
những nước chủ nghĩa hội nền kinh tế kỹ thuật hiện đại nhất trong các  
nước chủ nghĩa hội .  
Đặc biệt là Liên đã cung cấp cho các nước chủ nghĩa hội khác  
những tư liệu sản xuất tư liệu sinh hoạt, các thiết bị máy móc, quặng sắt,  
than, dầu, lương thực, thực phẩm, vay vốn với lãi suất thấp… tạo điều kiện  
cho các nước xây dựng chủ nghĩa hội . Bởi vì, các nước chủ nghĩa hội  
còn lại đều xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là  
phổ biến. Hình thành hệ thống đào tạo nhân lực cho tổ hợp này với xu hướng  
giảm về tỷ trọng. Trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế cần cải cách quan hệ sở  
hữu, trước hết về đất nông nghiệp  
Trước chuyển đổi quan hệ sản xuất nông nghiệp dựa trên sở hữu nhà  
nước về đất đai tập thể về những tư liệu sản xuất khác, xóa bỏ quan hệ thị  
trường, các chủ thể kinh doanh chủ yếu là nông trường, hợp tác xã , nông  
trang. Liên Xô và Mông Cổ thực hiện quốc hữu hóa ruộng đất để xây dựng  
nông trường; chỉ dành một phần nhỏ 14% chia cho nông dân sử dụng, chứ  
không có quyền sở hữu.Còn các nước: Chdc Đức, Ba Lan, Trung Quốc, Việt  
Nam thì tiến hành cải cách ruộng đất . Nghĩa là, sau khi xóa bỏ chế độ sở hữu  
ruộng đất của địa chủ thì đem chia ruộng đất cho nông dân vừa sở hữu vừa  
sử dụng, đáp ứng yêu cầu: “người cày có ruộng”. Đnâng cao trình độ kỹ  
thuật của sản xuất Liên Xô đã thành lập những trạm máy kéo hỗ trợ nông  
trang. Sở hữu tập thể thể hiện phi hiệu quả, trong khi kinh tế trang trại ở các  
nước Tư bản công nghiệp phát triển lại hiệu quả.  
* Về cơ chế kinh tế hợp tác hóa  
- Hợp tác hóa các nước tư bản công nghiệp chỉ thực hiện ở các khâu  
đầu vào và đầu ra của sản xuất. Hợp tác hóa các nước chủ nghĩa hội  
thực hiện từ khâu đầu đến khâu cuối dưới sự chỉ đạo của nhà nước, chính  
quyền địa phương thông qua công cụ kế hoạch hóa tập trung cao độ, với nhiều  
chỉ tiêu pháp lệnh, mệnh lệnh về: sản xuất , sản lượng, chủng loại; phân phối,  
5
trao đổi, giá thu mua, tiền công và tiêu dùng trong toàn xã hội cũng như từng  
ngành, từng lĩnh vực. trong thời kỳ này, các quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi  
nhẹ hoặc bị phủ nhận; nền kinh tế mang tính trao đổi hiện vật trực tiếp; hạch  
toán kinh tế được thực hiện, nhưng mang tính chất hình thức;  
=> cơ chế kinh tế hợp tác quản lý theo chế độ tập trung quan liêu, báo  
cấp được thực hiện phổ biến.  
Do đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước khác nhau nên quá trình hợp  
tác hóa các nước cũng khác nhau: đối với các nước đã xây dựng cơ bản kết  
cấu kinh tế – xã hội nhất định, công nghiệp hóa cơ bản (Như Liên Xô ,  
CHDC Đức, Tiệp Khắc), thì hợp tác hóa thường gắn với cơ giới hóa. Đối với  
các nước xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu (Trung Quốc, Chdcnd  
Triều Tiên, Việt Nam), thì hợp tác hóa được tiến hành trước cơ giới hóa, song  
song với thủy lợi hóa, cải tiến kỹ thuật…  
+ Về hình thức hợp tác hóa nông nghiệp:  
Liên xô một số nước Đông Âu có hình thức tổ cày chung, nông  
trang tập thể…Trung Quốc có các hình thức tổ đổi công, hợp tác xã bậc thấp,  
hợp tác xã bậc cao, công xã nhân dân. Việt Nam có hình thức tổ đổi công,  
hợp tác xã bậc thấp hợp tác xã bậc cao.  
Đến đầu những năm 1960, đa số các nước chủ nghĩa hội đã cơ bản  
hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp (tỷ lệ tb 90% hộ nông dân tham gia hợp  
tác xã ). Như vậy, quan hệ sản xuất chủ nghĩa hội trong nông nghiệp được  
hình thành, nhưng chủ yếu mới thay đổi từ chế độ tư hữu thành chế độ sở hữu  
tập thể về tư liệu sản xuất. Song, do thực hiện chủ quan, nóng vội trong thời  
gian ngắn, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, cũng như kinh tế hợp tác xã  
không vững chắc, hiệu quả trong thời gian ngắn và kém hiệu quả nếu duy trì  
lâu dài…  
- Nguyên nhân hiệu quả thấp:  
+ Chưa tìm ra sự kết hợp hài hòa giữa sở hữu nhà nước về đất đai, kỹ  
thuật sở hữu tập thể.  
6
+ Nhà nước thực thi các chính sách buộc nông nghiệp, nông dân phục  
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, quân sự hóa nền kinh tế .  
+ Biểu hiện của nền kinh tế : tính thiếu hụt về sản phẩm tiêu dùng.  
* Tác động của đổi mới chính sách đối với nông nghiệp:  
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung : Được vận hành theo cơ chế  
hành chính mệnh lệnh không cho phép phân bổ sử dụng vốn đầu tư hợp lý;  
Việc cấp hộ chiếu cho nông dân gây ra xu thể chảy máu nhân lực từ nông  
thôn ra thành thị, làm cho nông nghiệp khủng hoảng nghiêm trọng: Gia tăng  
mâu thuẫn giữa sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể sở hữu tư nhân. Trình độ  
sản xuất nông nghiệp thấp, giá thu mua nông sản thấp, năng suất, tiền công  
thấp, quản trị yếu kém, xuất hiện xu thế bỏ hoang đất nông nghiệp; nhận thức  
về công bằng trong sản xuất và phân phối gây cản trở sáng kiến cá nhân.  
Nông nghiệp còn có đặc thù về tính mùa vụ, dễ tổn thương khi thời tiết khí  
hậu thay đổi. Không thực hiện quản lý giá cả theo thị trường nên làm giảm  
cầu về nông sản, hạ tầng nông nghiệp thấp kém, thể chế chưa hoàn thiện,  
không hấp dẫn đầu tư. Xu hướng đầu cơ đất, mở cửa thị trường nông sản  
trong điều kiện sức cạnh tranh của doanh nghiệp nông nghiệp thấp. Nhiều  
doanh nghiệp thua lỗ, tài chính doanh nghiệp bất ổn (Ở Nga 90% doanh  
nghiệp thua lỗ trong khi trung bình trong nền kinh tế là 40%).  
Khi tổng thư Goocbachop tiến hành cải cách kinh tế trong thập kỷ  
1980, Liên đã bắt đầu áp dụng chính sách khoán cho đội sản xuất có  
quy mô 10 – 30 lao động , nhằm tạo động lực mới cho nông dân. Cách quản  
của nông trang tập thể, nông trường quốc doanh, hợp tác xã không huy  
động được tinh thần hăng say sản xuất của người lao động và nông dân.  
Sau 1987, chủ trương khoán hộ và giao đất tập thể cho nông dân được  
hợp thức hóa, tỷ lệ nông trang viên tham gia cơ chế khoán đến đội sản xuất  
chỉ tăng từ 10% - 30%. sản xuất nông nghiệp tăng lên đáng kể nhưng chưa  
tạo được sự đột phá lớn trong sản xuất vì còn vướng bởi thương mại (lưu  
thông hàng hóa) chưa được tự do hóa. nhà nước tiếp tục nắm kế hoạch sản  
7
xuất, đầu tư, quản lý phân phối vật tư quyết định giá nông sản. Đến thập kỷ  
1980, năng suất lao động của nông trang viên Liên Xô chỉ bằng 1/10 nông  
dân trong các trang trại của Mỹ, cũng giống như xã viên hợp tác xã ở Việt  
Nam mọi sức lực chỉ chăm chút cho mảnh đất “tăng gia của gia đình”. Cuối  
thập kỷ 1980, 3% “diện tích phụ gia đình” đã đóng góp tới 25% tổng sản  
lượng nông nghiệp.  
Đến cuối năm 1990, Liên Xô ban hành Luật nông hộ cho phép nông hộ  
nhân được hoạt động, được thuê lao động , được sản xuất và bán sp ra thị  
trường song song với nông trang, nông trường. sản xuất lương thực sau thời  
gian khởi sắc, Liên Xô quay lại tư túc lương thức cuối cùng phải nhập  
khẩu. Cho đến khi Liên Xô tan vỡ, nông sản thế giới rẻ hơn tràn vào, IMF và  
các tổ chức quốc tế buộc Nga phải cắt giảm trợ cấp cho nông nghiệp, nông  
dân lại chưa quen với sự cạnh tranh trên thị trường tdo, giảm giá thành, tăng  
chất lượng nông sản… Nông dân thiếu vốn, vật tư, phân bón, máy móc không  
vật tư thay thế, đất canh tác giảm nhanh, sản xuất nông nghiệp suy giảm.  
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, tổ chức lại nông nghiệp với mục tiêu  
kinh tế là chính, Tổng thống Nga: Ensin chủ trương tái cấu trúc theo hướng  
thương mại hóa (lưu thông hàng hóa) mà không làm thay đổi toàn bộ quan hệ  
sản xuất nông thôn.  
1.3. Quan hệ sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế chuyển  
đổi.  
Quan hệ sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế chuyển đổi được đặc  
trưng bởi sự thay đổi về sở hữu đất đai: Từ nhà nước sang đa dạng gồm nhà  
nước nhân. Chuyển đổi sở hữu tạo ra điều kiện cho các hình thức kinh  
doanh mới hình thành cạnh các doanh nghiệp nông nghiệp tập thể kiểu cũ.  
Sự hình thành thị trường đất nông nghiệp tạo thuận lợi cho tập trung đất trong  
sản xuất nông nghiệp. Sở hữu tư nhân bước đầu thể hiện hiệu quả (hộ gia  
đình, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI đầu tư vào sản xuất nông  
nghiệp). Việc giải tán các nông trang dẫn tới hình thành 2 hình thức kinh  
8
 
doanh: nhân và tập thể bên cạnh kinh tế phụ gia đình. Doanh nghiệp lớn  
hình thành từ chuyển đổi các nông trường (khác với Mỹ doanh nghiệp lớn  
chiếm 5% số lượng, 10% đất nông nghiệp, 60% sản lượng; Nga: chiếm 85%  
đất, 40% sản lượng). Tuy nhiên vai trò của Nhà nước cần phải điều tiết thị  
trường đất, chống đầu cơ.  
1.3.1 Cải cách quan hệ sở hữu đất đai ở Liên bang Nga  
- Về đất đai, Luật đất đai cũng ban hành vào cuối năm 1990, cho phép  
nông dân kế thừa mà không cho buôn bán đất.  
* Sau khi Liên Xô tan rã, Liên bang Nga (1991); đã diễn ra cải cách  
kinh tế sâu rộng nhằm xóa bỏ chế độ sở hữu độc quyền của nhà nước về tư  
liệu sản xuất , chuyển giao nhiều tài sản thuộc nhà nước trước đây vào sở hữu  
nhân hoặc sở hữu của các tổ chức ngoài nhà nước. Cải cách ruộng đất  
được coi là bộ phận quan trọng trong cải cách kinh tế , với nội dung chủ yếu  
tư hữu hóa đất đai, từ bỏ độc quyền nhà nước về đất đai chuyển sang chế  
độ sở hữu đất đai đa dạng về loại hình và hình thức.  
Cơ sở luận chủ yếu của cải cách ruộng đất tại Liên Bang Nga từ  
năm 1991 là tư tưởng tự do kinh tế mới do một số học giả Nga và phương tây  
đề xuất. Tư tưởng này dựa trên ba quan điểm chủ yếu:  
+ Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai: Ở Liên Xô trước đây sở hữu toàn  
dân và sở hữu nhà nước về cơ bản được hiểu đồng nhất) đã gây ra cản trở đối  
với phát triển nông nghiệp khi duy trì quá lâu nền kinh tế kế hoạch hóa tập  
trung tập trung, nên hiệu quả sản xuất nông nghiệp không cao.  
+ Để nâng cao hiệu quả kinh tế cần xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập  
trung và chuyển ngay sang kinh tế thị trường nền tảng của kinh tế thị  
trưởng phải sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu tư nhân về đất đai.  
+ Để thúc đẩy động lực kinh doanh trong nông nghiệp cần phải xác lập  
chế độ sở hữu tư nhân về đất đai, bởi lẽ chỉ sở hữu tư nhân về đất đai mới  
đảm bảo tự do kinh doanh và tạo động lực cho sản xuất nông nghiệp phát  
triển.  
9
 
Giữa thập kỷ 1990, Chính phủ Nga vẫn nắm quyền phân phối nông sản,  
thu mua lương thực trợ giá cho nông dân thông quá chính sách giá đảm  
bảo. Ngay cả khi chính quyền TW đã rút khỏi nhiệm vụ này thì nhiều chính  
quyền địa phương vẫn tiếp tục nắm giữ. Năm 1995: sản xuất nông nghiệp  
xuống thấp nhất kể từ 1963: Số lượng chăn nuôi giảm 11%; trồng trọt giảm  
5%; Năm 1998: Nông nghiệp ở Nga suy giảm nghiêm trọng; Năm 2003, Luật  
đất đai mới ban hành cho phép mua bán và sở hữu đất tư nhân. Ngay 2003,  
diện tích đất nông nghiệp của nông trang giảm đi hơn ¼ nhưng vẫn chiếm tới  
68% tổng diện tích đất nông nghiệp. Năm 2004: Sản lượng lương thực vẫn  
chưa phục hồi mức trước khi Liên Xô tan vỡ, diện tích canh tác lương thực  
mất đi ¼ và vẫn tiếp tục giảm.  
Vai trò thế chấp đất nông nghiệp mới được công nhận, nhưng quy định  
về hạn điền vẫn tồn tại (với mức cho phép mua đất của một cá nhân không  
vượt quá 10% diện tích đất nông nghiệp của huyện); Luật đất đai cũng dành  
cho chính quyền địa phương được quyền ưu tiên mua trước, (tư nhân chỉ mua  
khi chính quyền không có nhu cầu). Nông dân được khuyến khích tự do chọn  
lựa mô hình tổ chức sản xuất nông nghiệp ( doanh nghiệp,hợp tác xã , nông  
hộ hay giữ nguyên nông trang tập thể, nông trường quốc doanh).  
Quá trình tái cơ cấu nông nghiệp diễn ra rất chậm, 30% đơn v sản xuất  
giữ nguyên trạng đa số nông dân lo lắng trước tình trạng cạnh tranh gay gắt  
đầy biến động của thị trường đã chọn con đường xây dựng doanh nghiệp  
chung hay hợp tác xã. Tuy vậy, cáchợp tác xã ra đời trong thời kỳ kinh tế sa  
sút không nhận được sự trợ giúp cần thiết của chính phủ và các quan có  
liên quan. Mặt khác, nông dân chưa quen trước thị trường cạnh tranh khắc  
nghiệt. Do kết cấu tổ chức chậm thay đổi nên sản xuất nông nghiệp sa sút.  
Tuy nhiên, cải cách ruộng đất tại Liên Bang Nga phần nhiều xuất  
phát từ động cơ chính trị nhằm thay đổi toàn bộ chế độ chủ nghĩa hội đã  
tồn tại ở Liên Bang Nga : Chính quyền tập trung thực hiện các biện pháp tư  
bản hóa nông nghiệp, khôi phục những quan hệ sở hữu tư nhân. nhân hóa  
10  
đất đai được thực hiện đối với các loại đất khác (do Nhà nước tập thể sở  
hữu). Trong quá trình cải cách ruộng đất đã thực hiện cả những biện pháp  
thúc đẩy sự hình thành sở hữu đất đai của chính quyền địa phương tạo lâp  
chế độ pháp lý để phân định sở hữu nhà nước: Chính sách giải thể nhân  
hóa đất đai; Chính sách pháp lý của cải cách ruộng đất hệ thống bộ luật,  
văn bản dưới luật; Chính sách nhân hóa đất đai của các nông trang, nông  
trường, những loại đất vườn, đất kinh tế phụ gia đình, đất xây dựng nhà cá  
nhân. Quy định trao quyền sở hữu phần đất miễn phí, chia tách phần đất  
không cần sự đồng ý của tập thể hoặc bộ máy nông trang, nông trường. Để  
phát triển kinh tế trang trại, nhà nước cho phép giao cả những đất đất rừng,  
cho phép tự quản phần đất, kể cả quyền thế chấp đất. Xác định cả trách  
nhiệm của lãnh đạo nông trang về việc gây cản trở đối với việc chia đất.  
Tình hình chuyển đổi sản xuất nông nghiệp sang hình thái kinh tế  
nông dân cá thể thông qua giải thể các nông trang, nông trường là công việc  
khó khăn hơn nhiều so với dự kiến. Trước những lý do:  
+ Sự mong đợi về hiệu quả kinh tế cao của kinh tế nông trang đã  
không được thỏa mãn.  
+ Nhà nước đã rơi vào tình trạng là không thể hỗ trợ kinh tế nông trang  
về kỹ thuật, tài chính ở mức cần thiết như mục tiêu kế hoạch.  
Do đó, phải điều chỉnh thực hiện cải cách ruộng đất :  
* Kết quả cải cách ruộng đất Liên bang Nga: Tình trạng phá sản  
của các nông trang, nông trường (Khoảng 7 triệu ha đất nông nghiệp không  
được sử dụng), một phần ba diện tích đất đã chia cho các chủ nông trại bị bỏ  
hoang, nhập khẩu nông sản đạt mức 40%. Cuối thập k1990, một số dấu hiệu  
ổn định trong phát triển kinh tế nông trại: Nông nghiệp Nga bước đầu đã  
đảm bảo sự tăng trưởng ổn định, tăng trưởng sản xuất nông nghiệp năm  
2013 so với năm 2005 lên tới 131,9%, với sản lượng đạt 3.790,8 tỷ Rúp. Duy  
trì mức tăng trưởng hàng năm khá cao, năm 2014 đóng góp 4% GDP, sử dụng  
9,7% nguồn lao động, thu nhập của nông dân cũng được cải thiện. Theo cơ  
11  
quan thống kê Rosstat (Nga) công bố, từ tháng 7/2017 - tháng 6/2018): Nga  
thu hoạch được 135,393 triệu tấn ngũ cốc, trong đó có 85,9 triệu tấn lúa mì.  
Tổng thống V.Putin trong thông điệp liên bang cho biết, con số này vượt cả  
mức cao nhất dưới thời Liên Xô là 127,4 triệu tấn (1978). Theo Bộ trưởng Bộ  
Nông nghiệp Nga Alexander Tkachev: Từ 1/7/2017 - 21/2/2018, Nga cung  
cấp 33,548 triệu tấn ngũ cốc cho thị trường nước ngoài, tăng 39,7% so với  
2016. Đồng thời, xuất khẩu lúa mì tăng hơn 40% - 26,25 triệu tấn kiều  
mạch là 2,9 triệu tấn. Khách hàng mua ngũ cốc của Nga là hơn 100 quốc gia  
trên thế giới, bao gồm Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Bangladesh, Saudi Arabia,  
Indonesia, Azerbaijan, Nigeria…  
Xuất khẩu nông sản nhiều hơn vũ khí  
Theo Bloomberg, vụ mùa 2017-2018, xuất khẩu lúa mì của Nga tăng  
30% so với năm ngoái (36,6 triệu tấn) nước này sẽ trở thành nhà cung cấp  
lớn nhất trong vòng 100 năm qua.  
Cho đến nay, kỷ lục này thuộc về Mỹ, vào năm 1992-1993, nước này đã  
xuất 36,8 triệu tấn lúa mì ra thị trường thế giới.  
Theo thống hải quan, xuất khẩu lương thực và nông sản tăng 21,3%  
đạt 20,7 tỷ USD, nhiều hơn xuất khẩu vũ khí, Tổng thống Putin cho biết.  
* Hạn chế:  
. Việc làm nông thôn GĐ: 2000 - 2013 giảm từ 40% đến 23%.  
. 2013, tỷ lệ dân số nông thôn là 26% nhưng chiếm hơn 40% tổng số hộ  
nghèo cả nước.  
. Các giải pháp cho phát triển nông thôn trong chương trình Liên bang  
chưa sự phối hợp tốt giữa các bộ, quan chịu trách nhiệm thực hiện.  
. So với các nước phát triển, hỗ trợ của CP Nga dành cho nông nghiệp  
thấp hơn nhiều.  
. Tình trạng di dân từ nông thôn đến đô thị làm giảm chất lượng nhân  
lực NÔNG NGHIỆP , NÔNG THÔN .  
* Dự báo:  
12  
Theo các chuyên gia: Phải những đầu tư đáng kể cho sản xuất nông  
nghiệp phù hợp với đời sống thị trường để đến năm 2025 đạt được SL 150  
triệu tấn ngũ cốc và 50 triệu tấn xuất khẩu .  
1.3.2. Sự biến đổi của QHSH đất đai và hình thức kinh  
doanh nông nghiệp ở một số nước Đông Âu  
Hunggari:  
Về quyền sở hữu đất đai:  
Ngày này: 30% QSD đất thuộc về Chính phủ; 70% QSD đất là nông dân  
đi thuê lại của các chủ tư nhân sở hữu đất nhưng không trực tiếp sản xuất.  
Trong đó: 45% là các trang trại tư nhân sản xuất nông nghiệp; 40,6% các  
doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp; Hơn 14% là các tổ chức (công an, quân  
đội, nhà thờ…).  
Quá trình tập trung hóa đất đai vào tay các trang trại sản xuất diễn ra  
nhanh, gần 70% đất sản xuất nông nghiệp có quy mô trên 100 ha – thu nhập  
lớn, gần 21% đất sản xuất nông nghiệp có quy mô 10 – 100 ha – thu nhập  
lớn, Còn lại hộ nông dân với quy mô dưới 1 ha – thu nhập thấp.  
Với quy mô tập trung đất đai làm tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp  
nhưng cũng tạo ra sự chênh lệch về thu nhập ở nông thôn.  
Năm 1989: Tổng đầu tư cho nông nghiệp 10% tổng đầu tư hội ;  
Năm 1991: 4,8%, giá trị ngành chiếm hơn 14% GDP cả nước;  
Năm 1994: 2,8% ;giá trị ngành chiếm 6% GDP cả nước;  
Bởi vì: Chỉ phủ ưu tiên đầu tư cho công nghiệp đô thị;  
Còn đầu tư nông nghiệp chủ yếu dựa vào trợ cấp của khối EU.  
Do đầu tư giảm, nông dân làm thuê trên đất của doanh nghiệp, mức  
phân bón giảm, diện tích nông nghiệp giảm, máy móc không được thay thế…  
Tóm lại: Trước quá trình chuyển đổi những biến động về chính trị,  
kinh tế, văn hóa xã hội ở nông thôn diễn ra sâu sắc. Đặc biệt, trong một thời  
gian: Sự suy giảm thấp nhất của sản xuất nông nghiệp, đời sống nông dân  
khó khăn… Đây không phải sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhờ công nghiệp  
13  
 
dịch vụ tăng trưởng nhanh mà phản ánh sự suy sụp của sản xuất nông  
nghiệp, không chú trọng đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.  
Bungari:  
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung tập trung tiến hành hợp tác  
hóa nhưng khác với nhiều nước chủ nghĩa hội khi chyển sang nền kinh tế  
chuyển đổi: Đất nông nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước sở hữu tập  
thể; kinh tế hợp tác hoạt động sôi động hiệu quả; nền nông nghiệp  
phát triển mạnh.  
Thập kỷ 1950 hợp tác hóa đã làm cho nông nghiệp sa sút; Năm 1968:  
Cho phép hợp tác xã chủ động tổ chức sản xuất nông nghiệp, tham gia thị  
trường, không bị ràng buộc bởi các chỉ tiêu của nhà nước, mỗi hộ xã viên có  
0,5 ha đất để sản xuất “kinh tế phụ gia đình”; trong nông trường quốc  
doanh, nông trường viên cũng được chia một phần diện tích tăng gia. Vì vậy,  
kinh tế hộ đóng góp đến 30% sản lượng nông nghiệp. Năm 1989: Nông  
nghiệp đóng góp 15,6% GDP; 21,7% giá trị xuất khẩu; thu hút 10,6% tổng  
đầu tư hội, tạo việc làm cho 17,4% lao động.  
1.3.3. Các hình thức kinh doanh nông nghiệp trong nền  
kinh tế chuyển đổi  
- Doanh nghiệp nông nghiệp  
tổ chức kinh tế tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nông  
nghiệp, tham gia vào toàn bộ thị trường đầu vào và đầu ra, được tổ chức, hoạt  
động phù hợp với Luật Doanh nghiệp.  
Phân loại doanh nghiệp nông nghiệp: Công ty cổ phần, công ty hợp  
danh, TNHH, liên doanh, TNHH một thành viên;  
Bản chất đặc điểm của doanh nghiệp nông nghiệp là doanh nghiệp  
tiến hành sản xuất kinh doanh trên địa bàn nông thôn, được hình thành từ các  
hộ kd, các hợp tác xã và trang trại… các doanh nghiệp tham gia kinh doanh  
các sản phẩm phục vụ cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Các doanh  
nghiệp nông nghiệp thường có quy mô vừa nhỏ, so với doanh nghiệp công  
14  
 
nghiệp, dịch vụ… doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp có chi phí sản xuất  
kinh doanh cao hơn.  
Vai trò của doanh nghiệp vị trí quan trọng tạo ra sản phẩm trong  
nước (GDP), chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân, tạo việc làm và thu nhập  
cho nông dân, ổn định đời sống hội ở nông thôn  
-Hợp tác xã nông nghiệp:tổ chức kinh tế tập thể của các cá nhân, các  
hộ, các tổ chức kinh doanh khác ( doanh nghiệp), được tổ chức hoạt động  
theo luậthợp tác xã . có 3 loại: hợp tác xã sản xuất nông nghiệp; hợp tác xã  
dịch vụ nông nghiệp; hợp tác xã kết hợp cả sản xuất dịch vụ;  
Bản chất của hợp tác xã là các cá nhân, tổ chức, hộ, doanh nghiệp kết  
hợp lại để sản xuất , kinh doanh và cung cấp dv trong nông nghiệp, nhằm  
thỏa mãn nhu cầu sản xuất kinh doanh của các thành viên. hoạt động như  
một loại hình doanh nghiệp, cách pháp nhân, tự nguyện, bình đẳng,  
phân cấp, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phậm vi  
vốn củahợp tác xã theo quy định của pl.  
Vai trò của hợp tác xã giúp cho hộ, tổ chức kinh tế khác tiến hành hoạt  
động sản xuất kinh doanh trong điều kiện không thể tự mình thực hiện được,  
nâng cao sử dụng nguồn lực, ruộng đất, thủy lợi, máy móc, kho xưởng…hợp  
tác xã còn giúp tăng sức cạnh tranh của các thành viên trên thị trường thực  
hiện các mục tiêu xã hội .  
- Nông lâm trường quốc doanh: Là nông trại của kinh tế nhà nước, hạch  
toán và sử dụng ngân sách, phục vụ chủ yếu mục tiêu công ích; là nông trại  
của nhà nước, là công cụ cơ bản của nhà nước can thiệp vào kinh tế nông  
nghiệp;  
Bản chất: thuộc thành phần kinh tế nhà nước, sử dụng ngân sách nhà  
nước, đơn vị phục vụ công ích, hoạt động theo luật doanh nghiệp.  
Vai trò: Góp phần tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước trong lâm  
nghiệp. Thông qua nông trường, nhà nước thực hiện vai trò điều tiết sự phát  
triển kinh tế nông nghiệp, hoặc thực hiện các mục tiêu công ích như bảo tồn  
15  
quỹ gen, chống xói mòn, mục tiêu chính trị, được phát triển kinh tế hội ở  
các vùng biên giới, hải đảo.  
- Kinh tế hộ gia đình và nông trại  
Theo PAO, nông trại (Farm) Là một mảnh đất trên đó nông hộ thực hiện  
các hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ cho sinh kế của họ. thể phân  
theo 5 hình thức cơ bản dựa trên mục đích sản xuất , diện tích đất đai mức  
độ phụ thuộc:  
Loại 1: Nông trại gia đình có quy mô sản xuất nhỏ theo hướng tự cung  
tự cấp, tiêu thụ sản phẩm làm ra của nông trại, ít phụ thuộc vào thị trường.  
Loại 2: Nông trại gia đình quy mô nhỏ, một phần sản xuất hàng hóa.  
mục tiêu sản xuất : tiêu thụ gia đình, thu nhập tiền mặt thông qua bán sản  
phẩm dư thừa so với tiêu dùng của gia đình.  
Loại 3: Nông trại gia đình quy mô sản xuất nhỏ, chuyên môn hóa và  
độc lập, như: trồng trọt, chăn nuôi cụ thể. Mục tiêu: sản xuất hàng hóa và  
tiêu thụ gia đình nhưng ở mức chuyên môn hóa.  
Loại 4: Nông trại gia đình quy mô nhỏ, sản xuất chuyên mô hóa nhưng  
ít phụ thuộc trong việc ra quyết định sản xuất .  
Loại 5: Trang trại sản xuất hàng hóa.  
16  
Chương II. Ý NGHĨA ĐỊNH HƯỚNG VẬN DỤNG  
CHO VIỆT NAM  
2.1. Ý nghĩa  
2.1.1. Về xác định mục tiêu của cải cách ruộng đất  
Nhìn chung, công cuộc cải cách ruộng đất các nước nền kinh tế  
chuyển đổi đã cơ bản chuyển quyền sở hữu của địa chủ về tay nông dân, thực  
hiện được mục tiêu “dân cày có ruộng”. Quá trình tiến hành cải cách khá triệt  
để, công bằng; thành công theo mục tiêu chính trị của các nước chủ nghĩa xã  
hội . Tuy nhiên: Có phạm một ssai lầm trong phân định thành phần, còn tiến  
hành rập khuôn, cứng nhắc (TQ, VN).  
Trong thời gian đầu đã xác định thừa nhận vấn đề sở hữu tư nhân về  
đất đai, (được giao cho nông dân). Thùc ra, ®©y lµ mét sù vËn ®éng mang  
tÝnh chÊt giao thêi nh»m phï hîp víi t×nh h×nh bèi c¶nh chuyển giao chế độ  
của mỗi nước, nhằm t¹o sù yªn t©m cho c¸c tÇng líp nh©n d©n.Về diện tích  
đất canh tác và vấn đề sở hữu đất đai: Ba Lan thực hiện khá tốt triệt để  
nhưng cũng sớm chuyển đổi nền kinh tế , gia nhập EU (2004). Bugari tiến  
hành cải cách ruộng đất từng bước, linh hoạt, mang lại hiệu qucho sản xuất  
nông nghiệp, gia nhập EU (2007); Nga, quản lý còn lỏng lẻo dẫn đến đầu  
cơ đất đai.  
Để thành công trong chuyển đổi sản xuất nông nghiệp, cần chính sách  
cải cách hoàn chỉnh, đồng bộ. Thời gian đầu, vấn đề tư hữu hóa đất đai chưa  
trở thành chủ trương chính thức lâu dài. Bởi, mục tiêu của nhà nước cách  
mạng “đem lại đất đai cho dân cày”, xóa bỏ chế độ tư hữu đất đai của chế  
độ cũ. vậy, quan hệ đất đai được hiểu như vấn đề có tính sách lược trong  
tình hình cách mạng trước mắt. Mục tiêu nhân dân có quyền sử dụng đất là  
cao nhất.  
2.1.2. Về xây dựng thể chế của cải cách ruộng đất  
Cần rà soát để kịp thời xoá bỏ, sửa đổi và ban hành hệ thống luật pháp  
một cách đồng bộ, hài hòa với thông lệ quốc tế (Bugari, Hunggari,… Nông  
17  
     
nghiệp Nga đứng vững vươn lên trong điều kiện cấm vận của Mỹ và  
phương Tây). Cần tiến hành rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật đã để  
xóa bỏ hoặc sửa đổi những văn bản luật pháp không còn phù hợp và ban hành  
bổ sung những đạo luật còn thiếu theo hướng phù hợp với thông lệ chung của  
thế giới. Điều này càng trở nên cấp bách khi các nước chuyển sang nền kinh  
tế thị trường; phát huy được hết nội lực của nền kinh tế bản thân các  
doanh nghiệp. khi đó, các doanh nghiệp các tổ chức kinh tế mới điều kiện  
chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả.  
2.1.3. Chú trọng phát triển khoa học&công nghệ, chuyển  
dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp  
Với kinh nghiệm về lai tạo ứng dụng công nghệ cao và chính sách giao  
quyền sở hữu đất cho nông dân và doanh nghiệp. vậy đã thúc đẩy nghiên  
cứu KH&CN trong nông nghiệp, tạo ra nhiều lạo giống lúa mới1, hoa quả có  
năng suất, chất lượng cao hơn, tiết kiệm chi phí, thời gian sản xuất, cũng như  
rút ngắn quá trình sản xuất trong nông nghiệp. Tạo điều kiện khai thông thị  
trường đất trong nông nghiệp để thúc đẩy quá trình tập trung đất đai trong  
sản xuất nông nghiệp nhờ đó đã hình thành nhiều nông trại và doanh nghiệp  
sản xuất nông nghiệp hiện đại, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, quy  
sản xuất lớn, tiết kiệm diện tích canh tác trong nông nghiệp .  
2.1.4. Về hình thành và phát triển những chủ thể và hình  
thức kinh doanh mới trong nông nghiệp  
Mô hình sản xuất nông nghiệp truyền thống: chủ yếu hợp tác xã nông  
nghiệp, nông lâm trường chiếm ưu thế, một phần nhỏ là kinh tế hộ gia đình.  
Chuyển sang nền kinh tế chuyển đổi, có các hình thức kinh doanh nông  
nghiệp sau: Doanh nghiệp nông nghiệp; hợp tác xã nông nghiệp; Nông - lâm  
trường quốc doanh hoạt động kinh doanh có xu hướng giảm số lượng, do quy  
lớn, quản lý, đầu tư vốn, công nghệ chưa tưng xứng…Kinh tế hộ gia đình  
1 nhiều loại giống lúa chịu phèn mặn cho NS cao.  
18  
   
và nông trại, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài… thích ứng  
linh hoạt, hiệu quả, có xu hướng tăng số lượng.  
2.1.5. Về chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp của nhà  
nước trong quá trình chuyển đổi  
- Vai trò của Nhà nước là vô cùng quan trọng  
* Trước quá trình chuyển đổi nền kinh tế :  
Trước quá trình chuyển đổi nền kinh tế sự tồn tại phổ biến tuyệt  
đối của chế độ công hữu nên chỉ có doanh nghiệp nông nghiệp tập thể.  
Hoạt động của các chủ th doanh nghiệp này thường thụ động theo kế  
hoạch của Nhà nước (thông thường là các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội  
5 năm xác định nhiệm vụ cho từng đơn vị kinh doanh.  
* Trong nền kinh tế chuyển đổi cần thực hiện cải cách doanh  
nghiệp theo hướng thị trường  
+ Khuyến khích mô hình kinh doanh nhân quy mô nhỏ, chi phí  
quản lý kinh doanh thấp, linh hoạt hiệu quả hơn quy mô lớn.  
+ Khuyến khích cho doanh nghiệp thuê tài sản của Nhà nước và thúc  
đẩy cổ phần hóa doanh nghiệpnông nghiệp trở thành doanh nghiệp cổ phần  
hoặc cho bán và chuyển một phần những doanh nghiệp không quan trọng đối  
với vấn đề an ninh quốc gia sang doanh nghiệp tư nhân. Hình thành cáchợp  
tác xã tiêu thụ làm trung gian cho doanh nghiệp nông nghiệp người tiêu  
dùng. Vào những năm 1990, LB Nga đã sự thay đổi cơ cấu bộ máy nhà  
nước theo hướng thị trường. 1990, Nhà nước thông qua Luật tư nhân hóa  
miễn phí Vaucher (séc – giấy tờ có giá trị thanh toán của Chính phủ) và tài  
chính tiền tệ đã hình thành các công ty cổ phần, hợp tác xã , tổ hợp tác, kinh  
tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, nông trang. Tuy nhiên, trong quá trình  
chuyển đổi Nga vẫn duy trì một s doanh nghiệpnông nghiệp ở cấp TW và  
địa phương. 2005, Nga vẫn còn 9700 doanh nghiệp thuộc sở hữu liên bang  
và 4000 doanh nghiệp nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, lãnh đạo chỉ định  
theo cơ chế bổ nhiệm. kết quả: hoạt động của các doanh nghiệpnông nghiệp  
19  
 
ở cấp TW và địa phương đạt hiệu quả thấp (chỉ có 29% doanh nghiệp nông  
nghiệp hoạt động hiệu quả). Nhìn chung: Quá trình chuyển đổi từ mô hình  
kinh tế cũ (KHH tập trung) sang mô hình kinh tế mới (thị trường):  
+ Đã hình thành cơ cấu doanh nghiệp trên cơ sở các hình thức sở hữu đa  
dạng;  
+ Thời gian đầu, Nhà nước giữ độc quyền trong các ngành năng lượng,  
ngân hàng, hàng không, cung cấp nước, y tế, thể thao, giáo dục để gigiá DV  
thấp…Nhà nước vẫn đảm bảo mức giá DV tối thiểu cho các tầng lớp dân cư  
có thu nhập sau đó dần dần chuyển sang hoạt động trong môi trường sự  
cạnh tranh. Từng bước tư nhân hóa các lĩnh vực nhà ở, y tế, giáo dục… Song,  
Nhà nước vẫn đảm bảo mức giá DV tối thiểu cho các tầng lớp dân có thu  
nhập thấp, sau khoảng thời gian dần dần doanh nghiệp tư nhân tham gia vào  
các lĩnh vực trên và chiếm ưu thế. Mặt khác, quan hệ giữa các doanh nghiệp  
thay đổi theo hướng thị trường, cạnh tranh với sự tham gia của các doanh  
nghiệp nước ngoài. Quá trình chuyển đổi kinh tế đã khắc phục sự mất cân  
đối về công nghệ thông qua các biện pháp phá sản doanh nghiệp.  
Qua nghiên cứu kinh nghiệm các nền kinh tế chuyển đổi, chúng ta thấy  
rằng Việt Nam cần đa dạng các hình thức sở hữu thích hợp, nhằm giảm bớt  
gánh nặng cho ngân sách và tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng trong phát triển  
nông nghiệp.  
- Cải cách hệ thống thuế hải quan  
Chính phủ nên ưu tiên cải cách khu vực này một cách nhanh nhất  
nhằm tạo ra sự thông thoáng cho các doanh nghiệp trong nước hoạt động.  
Hơn nữa, từ việc minh bạch hoá và lành mạnh hoá trong khu vực này cũng  
tạo ra sức hút đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư ở Việt Nam.  
- Phát triển đồng bộ giao thông, dịch vụ viễn thông và các DV bổ trợ  
Nền kinh tế chỉ thể vận hành thông suốt khi các khu vực đều hoạt  
động tốt. Chính phủ nên chú trọng đến phát triển đồng bộ hệ thống giao  
thông, DV viễn thông và các dịch vụ bổ trợ với tốc độ cao, đi trước một bước  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
docx 30 trang yennguyen 01/04/2022 4980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Quan hệ sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế chuyển đổi. Ý nghĩa và định hướng vân dụng cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxtieu_luan_quan_he_san_xuat_nong_nghiep_trong_nen_kinh_te_chu.docx