Báo cáo Tiểu luận Công nghệ sau thu hoạch - Đề tài: Xây dựng quy trình thu hoạch, bảo quản cà chua nhằm hạn chế tối đa tổn thất sau thu hoạch

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP. HCM  
KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM  
THỊ HỒNG ÁNH  
BÁO CÁO TIỂU LUẬN CÔNG NGHỆ SAU THU HOẠCH  
Đề tài nhóm 12:  
XÂY DỰNG QUY TRÌNH THU HOẠCH, BẢO QUẢN  
CÀ CHUA NHẰM HẠN CHẾ TỐI ĐA TỔN THẤT SAU  
THU HOẠCH  
GVHD: Hoàng Thị Trúc Quỳnh  
Sinh viên thực hiện:  
Thị Ngọc Quyền  
Ngô Trần Hoàng Uyên  
Bùi Anh Thư  
2005140465  
2005140711  
2005140569  
Nguyễn Thị Thu Phượng 2005140443  
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016  
Mục Lục  
3. Một Sôd Phương Pháp bảo quản Cà Chua........................................................15  
i
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ  
THÀNH VIÊN  
NHIỆM VỤ  
Thị Ngọc Quyền  
Bùi Thị Anh Thư  
Tổng hợp word  
Tổng quan  
Nguyễn Thị Thu Phượng Thu hoạch xử tại ruộng  
Ngô Trần Hoàng Uyên  
Các phương pháp bảo quản Cà Chua  
ii  
MỞ ĐẦU  
Cà chua (Lycopersicon esculentum Mill) Là một trong những cây lương thực phổ  
biến rộng khắp trên thế giới, nó là một phần không thể thiếu trong chế độ ăn uống  
của con người. Cà Chua cũng loại rau có nhiều cách sử dụng: thể dùng để ăn như  
quả tươi, trộn salat, nấu canh, xào, nấu sốt vang và chế biến thành các sản phẩm như:  
Cà Chua cô đặc, tương Cà Chua, nước sốt nấm, Cà Chua nguyên quả nước  
quả…vv. Cà chua và các sản phẩm từ cà chua được coi là thực phẩm lành mạnh, vì nó  
chứa ít chất béo, calo, cholesterol tự do và một nguồn cung cấp chất xơ, vitamin A (β-  
carotene và một số carotenoid khác là pro-vitamin A) và C, lycopene và kali (Yahia et  
al. 2005) dồi dào. Sự quan tâm đến những lợi ích dinh dưỡng và tinh chất của quả cà  
chua và các sản phẩm của đã tăng lên rất nhiều trong hai thập kỷ qua (Geeson et al  
1985;. Giovannucci & Clinton năm 1998; Guester 1997). Cà chua được cho là một  
thực phẩm chức năng quan trọng trong việc ngăn ngừa điều trị các bệnh ác tính như  
ung thư tuyến tiền liệt, ung thư vú, phổi ung thư và các bệnh khác như đục thủy tinh  
thể, bệnh tim mạch đái tháo đường, tăng đường huyết ,viêm, viêm khớp, suy giảm hệ  
miễn dịch, rối loạn chức năng não…vv. Tuy nhiên, Cà Chua là một loại nông sản  
tương đối khó bảo quản lượng nước trong quả cà chua cao, là điều kiên tốt cho vi  
sinh vật hoạt động. Mặt khác thành phần dinh dưỡng trong quả phong phú có chứa  
nhiều loại, đường, đạm, muối khoáng, sinh tố… kết cấu của quả cà chua lại lỏng  
lẻo, mềm xốp dễ bị xây xát, dập, nát nên dễ bị vi sinh vật xâm nhập. Trong cà chua  
còn chứa nhiều loại men mà sau khi thu hoạch trong quá trình bảo quản vẫn tiếp tục  
hoạt động để tiến hành hàng loạt các phản ứng sinh lý, sinh hóa, thủy phân trong nội  
bộ quả tạo tiền đề cho các loại vi sinh vật xâm nhập và phá hoại.  
vậy, nhóm 12 chúng em với đề tài “XÂY DỰNG QUY TRÌNH THU  
HOẠCH, BẢO QUẢN CÀ CHUA NHẰM HẠN CHẾ TỐI ĐA TỔN THẤT SAU  
THU HOẠCH” chúng em sẽ góp phần tìm hiểu đưa ra phương pháp thu hoạch và  
bảo quản Cà Chua để chúng ta có thể hạn chế đến mức thấp nhất tổn thất sau thu  
hoạch.  
1
 
NỘI DUNG  
I. Tổng quan về Cà Chua  
1. Giới thiệu về Cà Chua  
Cà Chua là cây trồng thuộc họ cà (Solanaceae), có tên khoa học là Lycopersicon  
esculentum Mill. Cà Chua là một loại quả mọng, sử dụng như một loại rau. Quả chứa  
nhiều nước, hình dáng, màu sắc quả phụ thuộc vào màu sắc của vỏ thịt quả (từ hồng  
nhạt đến đỏ thẫm, từ vàng da cam đến vàng tươi). Cắt ngang quả Cà Chua ta thấy có  
các bộ phận chính sau đây: vỏ quả thịt quả hạt. Vỏ quả Cà Chua rất mỏng và  
thường rất khó để tách khỏi thịt quả. Thịt quả phần dự trữ chất dinh dưỡng chủ yếu.  
Một quả thể chứa 2, 3 hoặc nhiều ô. Các ô chứa đầy hạt, số lượng hạt phụ thuộc vào  
giống điều kiện trồng trọt và dao động từ 50-350 hạt/quả. Quả to thường ít hạt hơn  
quả nhỏ. Hạt cà chua chín sinh lý rất sớm nên hạt thể nảy mầm ngay trong hạt [1].  
Cà Chua là một loại nông sản tương đối khó bảo quản lượng nước trong quả cà  
chua cao, là điều kiên tốt cho vi sinh vật hoạt động. Mặt khác thành phần dinh dưỡng  
trong quả phong phú có chứa nhiều loại, đường, đạm, muối khoáng, sinh tố… kết  
cấu của quả cà chua lại lỏng lẻo, mềm xốp dễ bị xây xát, dập, nát nên dễ bị vi sinh vật  
xâm nhập. Trong cà chua còn chứa nhiều loại men mà sau khi thu hoạch trong quá  
trình bảo quản vẫn tiếp tục hoạt động để tiến hành hàng loạt các phản ứng sinh lý,  
sinh hóa, thủy phân trong nội bộ quả tạo tiền đề cho các loại vi sinh vật xâm nhập  
và phá hoại.  
2. Giá trị dinh dưỡng  
Cà Chua là loại rau ăn quả có giá trị dinh dưỡng cao, trong quả chứa nhiều đường  
chủ yếu đường glucoza, có nhiều vitamin và khoáng chất quan trọng.  
Theo Edward C.Tigchelaar (1989) thì thành phần hóa học của cà chua như sau:  
- Nước: 94-95%  
- Chất khô: 5-6%  
2
       
Trong chất khô gồm các chất chủ yếu sau:  
- Đường (glucoza, fructoza, sucroza): 55%  
- Chất khô không hòa tan trong rượu (protein, xenluloza, pectin,  
polysaccharide): 21%  
- Axit hữu cơ (xitric, malic, galacturonic, pyrrolidon-caboxylic): 12%  
- Chất cơ: 7%  
- Các chất khác (carotenoit, ascobic, chất dễ bay hơi, amino axit…): 5%  
Theo nguồn Bảng thành phần hóa học thức ăn Việt Nam, 1972. Trong 100g Cà  
Chua chín phần ăn được có thành phần hóa học như sau:  
Muối khoáng và vitamin (mg%)  
- Nước: 94(g%)  
- Protein: 0.6  
- Gluxit: 4.2  
- Xenluloza: 0.8  
- Tro: 0.4  
- Ca: 12  
- P: 26  
- B1: 0.06  
- B2: 0.04  
- C: 10  
- Fe: 1.4  
- PP: 0.5  
- Carotenoit: 2  
Vitamin C có trong Cà Chua (230 mg/kg) là không cao như ở một số loại trái cây  
khác nhưng nó không thể thiếu trong khẩu phần ăn hằng ngày của con người . Trong  
100 g cà chua có thể cung cấp khoảng 20% vitamin A và 40% vitamin C đối với  
người trưởng thành. Thành phần cà chua khác có thể đóng góp cho sức khỏe bao gồm  
flavonoid, acid folic và vitamin E (Dorais et al. 2001).  
Các nghiên cứu về y học cho thấy quả cà chua mối tương quan nghịch đảo  
cao nhất với nguy cơ bệnh ung thư bệnh tim mạch, bao gồm cả đột quỵ  
(Giovannucci et al. 1995). Những người ăn ít nhất một khẩu phần chứa sản phẩm cà  
chua mỗi ngày có khả năng giảm đến 50% nguy phát triển bệnh ung thư đường tiêu  
hóa so với những người không ăn cà chua (Franceschi et al., 1994). Điều đó được là  
do trong cà chua có chứa Lycopene. Lycopene sắc tố hình thành nên màu đỏ của  
quả cà chua và các sản phẩm từ cà chua là một chất chống oxy hóa tự nhiên có thể  
ngăn ngừa ung thư bệnh tim (Shi & Lê Maguer 2000). Quả cà chua tươi chứa  
khoảng 7,2 đến 200 mg/kg lycopene, chiếm khoảng 30% tổng số carotenoid trong  
3
huyết tương (Stahl & SIES 1996). Lượng chất lycopene còn có liên quan với giảm  
nguy ung thư khác hơn so với đường tiêu hóa, chẳng hạn như tuyến tụy và bàng  
quang (GERSTER 1997). Người cao tuổi, người thường xuyên ăn cà chua đã được tìm  
thấy là ít có khả năng để phát triển tất cả các loại ung thư (Colditz et al., 1985). Một  
nghiên cứu tại Trường Y tế Havard thực hiện trên 48 000 người đàn ông trong bốn  
năm báo cáo rằng những người đàn ông ăn mười hay nhiều phần của sản phẩm cà chua  
(như cà chua, nước sốt cà chua và nước sốt pizza) mỗi tuần tới ít 34% cơ hội của  
tuyến tiền liệt phát triển ung thư (Giovannucci et al. 1995).  
II.  
Xây dựng quy trình thu hoạch bảo quản Cà Chua  
1. Thu hoạch xử tại ruộng  
Bốn yếu tố chính được quan tâm trong và ngay sau khi thu hoạch cà chua là độ  
chín thu hoạch, thời gian thu hoạch, phương pháp thu hoạch xử quả đã thu hoạch  
tại ruộng. Bất kỳ sự thiếu sót nào đối với những yếu tố này đều dẫn đến giảm chất  
lượng quả, thậm chí là tổn thất hoàn toàn.  
a. Độ chín thu hoạch  
Độ trưởng thành lúc thu hoạch và các hoạt động thu hoạch thể ảnh hưởng đến  
chất lượng sau thu hoạch cà chua (hương vị trái cây, săn chắc thời hạn sử dụng), và  
tỷ lệ mắc mức độ nghiêm trọng của chấn thương thể chất, trong đó, lần lượt, thể  
ảnh hưởng xấu đến chất lượng cà chua.  
Một phân loại sáu lớp về độ trưởng thành của quả cà chua từ xanh trưởng thành  
chín đầy đủ (Bảng 2.1) đã được áp dụng rộng rãi.  
4
   
Đối với cà chua nhà kính, các giai đoạn sớm cho thu hoạch là giai đoạn Breaker,  
nhưng cà chua lĩnh vực trồng thường được thu hoạch ở giai đoạn Mature green . Cà  
chua được thu hoạch ở giai đoạn Mature green sẽ chín đầy đủ, nhưng cà chua thu  
hoạch ở giai đoạn Immature-green sẽ chín rất kém, và sẽ phát triển kém chất lượng sau  
thu hoạch. Cà chua Mature green được phần nào khó khăn cho người hái để phát hiện  
(khó khăn để phân biệt từ Immature-green). Bên cạnh những đặc điểm được liệt kê  
trong Bảng 2.1, xác của cà chua chín cũng thể được hỗ trợ bởi các ký tự sau đây:  
(1) một số giống biến màu trắng-xanh, trong khi những người khác cho thấy vệt màu  
nhất định vào cuối hoa, (2) bề mặt bóng như sáp, (3 ) da không bị rách bằng cách cạo,  
(4) sự xuất hiện của hăng hái nâu xung quanh sẹo gốc trong một số giống và (5)  
các kích cỡ quả vị trí quả trên cây lớn những quả mọc ở vị trí thấp trên cây sẽ  
trưởng thành hơn nhưng quả mọc ở vtrí cao hơn. Cà chua được thu hoạch ở giai đoạn  
Mature green hoặc sau đó khi chín sẽ đạt được hương vị tốt hơn so với những chọn ở  
giai đoạn chưa trưởng thành hoặc trưởng thành một phần, sẽ ít dễ bị mất nước do  
lớp biểu bì phát triển tốt hơn (Kader et al. 1978c). Cà chua được thu hoạch ở giai đoạn  
breaker cho hương vị tốt hơn ở giai đoạn mature green (Kavanagh et al. 1986). Cà  
chua Vine-ripened sẽ tích lũy nhiều đường, axit và axit ascorbic, và sẽ phát triển  
hương vị tốt hơn so với cà chua mature-green ripened (Betancourt et 1977 al; Bisogni  
et al 1976;. Sakiyama & Stevens 1976; Soto-Zamora et. al. 2000). Cà chua được thu  
hoạch quá chín đã được chứng minh là có hàm lượng axit ascorbic thấp hơn hoạt  
động ascorbate oxidase cao (Soto-Zamora et al 2000;.. Yahia et al 2001a). Cường độ  
của vị ngọt, mặn hương vị fruity-floarl trong cà chua thu hoạch ở giai đoạn table-  
5
ripe cao hơn ở các giai đoạn trước đó (Watada & Aulenbach 1978). Thu hoạch sớm là  
một thực tế để đạt được quả vững chắc hơn thích hợp cho vận chuyển để đạt được  
một khoảng thời gian dài thị trường (Auerswald et al. 1999). Tuy nhiên, tạp chí thương  
mại đã bắt đầu giới thiệu rằng cà chua nên được thu hoạch tại một thời điểm sau đó,  
giai đoạn một phần chín để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho hương vị tốt hơn (Janse &  
Knoys 1995;. Watzl et al 1995). Vì vậy, trong khi cà chua cho thị trường xa nên được  
chọn ở giai đoạn mature green hoặc breaker, cà chua cho các cửa hàng gần đó thể  
được chọn ở các giai đoạn beaker, turning, pink hoặc light-red. Cà chua chùm thường  
được thu hoạch vào light-red để các giai đoạn table-red và đóng gói cẩn thận trong một  
lớp, khay đệm. [3]  
b. Thời gian thu hoạch  
Nên thu hoạch khi trời mát, và tốt nhất là vào buổi sáng, vì khi đó nhiệt độ thấp  
thể giảm thiểu sự tăng nhiệt độ của quả, đồng thời tăng hiệu quả thu hoạch. Bắt đầu  
thu hoạch khi sương sớm đã tan hết, hoặc nếu thu hoạch vào lúc quá sớm thì cần cẩn  
thận chú ý điều này để tránh gây hại cho nhữngcây vẫn còn quả cho đợt thu hoạch sau.  
Không nên thu hoạch khi trời mưa hoặc ngay sau khi mưa, tỷ lệ mắc bệnh có  
thể cao hơn (Bautista và Acedo, 1987). Nước mưa thể tích tụ trên cuống quả, nơi  
xâm hại chính của vi sinh vật, tạo điều kiện thuận lợi cho vi sinh vật phát triển. Tuy  
nhiên, nếu không tránh được điều này, quả cần phải được rửa sạch và làm khô trước  
khi bao gói (Xem phần Các công đoạn trong nhà đóng gói). Việc rửa và làm khô càng  
cần thiết đối với quả tcác cây không có cọc đỡ hoặc không có lưới chắn đất, đất là  
nguồn chứa vi sinh vật gây hại, thể bám vào quả đặc biệt là trong mùa mưa.[4]  
c. Phương pháp thu hoạch  
Phương pháp thu hoạch thường dùng là hái quả bằng tay. Hái quả ra khỏi cây cần  
tránh gây tổn thương cây, và không cần thiết phải rời đi phần cuống nhỏ, làm lộ ra  
phần cuối cuống, nơi trao đổi khí chủ yếu của quả (ví dụ, đây nơi thoát hơi nước,  
gây mất nước giảm khối lượng; lối vào của O2 và lối ra của CO2, vì thế làm tăng  
cường độ hấp và các hoạt động trao đổi chất khác). Một việc khác cần lưu ý khi thu  
hoạch phải quan sát để tránh tổn thương cơ giới, như một vết thương nhỏ gây ra do  
6
móng tay của người thu hoạch. Những vết thương nhỏ như thế thể không dễ dàng  
nhận thấy ở những quxanh, nhưng sẽ thấy sau khi vết thương chuyển sang màu đen.  
Dụng cụ chứa khi thu hoạch, tốt nhất được làm bằng nhựa bề mặt nhẵn (như  
thùng hoặc khay nhựa nhỏ). Dụng cụ này thường thuận tiện cho việc đựng một lượng  
nhỏ, và không gây tổn thương quả.[4]  
d. Xử tại ruộng  
Lưu trữ trên đồng ruộng: Cần tránh ném quả vào rổ thu hoạch, hoặc không nên  
quăng kéo mạnh các rổ thu hoạch. Nếu không, những va chạm đó thể dẫn đến  
những triệu chứng không nhìn thấy được như vết thâm nâu hoặc đen ở phần hạt. Các  
sọt lớn được sử dụng thuận tiện cho việc chứa đựng vận chuyển sản phẩm từ đồng  
ruộng đến nơi đóng gói. Nên sử dụng các rổ nhựa, nhưng cũng thể sử dụng các vật  
chứa đơn giản như sọt tre. Đối với các sọt tre, hoặc thùng gỗ, thể lót lá hoặc giấy  
báo cũ để bảo vệ quả tránh bề mặt của vật chứa.  
Các thao tác không đúng cách trong quá trình lưu giữ trên đồng ruộng bao gồm:  
ném quả vào thùng chứa, làm rơi hoặc kéo mạnh dụng cụ chứa trong quá trình vận  
chuyển. Những thao tác này có thể dẫn đến cả các tổn thương vật lý nhìn thấy và  
không nhìn thấy. Các vết thương nhìn thấy thể là các vết cắt, lỗ thủng hoặc vết trầy  
xước. Ngoài việc ảnh hưởng đến chất lượng cảm quan, các tổn thương vật lý còn làm  
tăng sự mất nước tốc độ chín, và dẫn đường cho vi sinh vật xâm hại.  
Cà chua sau thu hoạch được giữ tạm thời dưới bóng râm, tránh phơi ra dưới ánh  
nắng mặt trời, điều này gây rám nắng, mất nước nhanh dẫn đến khô nhăn, và tích  
lũy nhiệt độ thúc đẩy quá trình chín. Sự tăng nhiệt độ của quả thường thấy khi quả bị  
phơi nắng một đến hai giờ. Nhiệt độ tích tụ bên trong quả sẽ được giải phóng sau đó và  
làm tăng nhiệt độ bên trong vật liệu bao gói, vật chuyên chở hoặc khu lưu trữ. Đồng  
thời nó làm tăng cường độ hấp. Để loại bỏ nhiệt, cần làm mát sơ bộ (xem phần Các  
công đoạn trong nhà đóng gói).  
Quả được thu hoạch ở những độ chín khác nhau có thể phân loại trong quá trình  
thu hoạch và quá trình lưu giữ trên đồng, bằng cách để chúng trong các vật chứa khác  
nhau hoặc trong các thùng chứa ngăn.  
7
Phân loại quả tùy thuộc vào kích thước đồng thời thể phân loại khuyết tật  
nếu người thu hái có kinh nghiệm. Nếu không, quả sẽ được vận chuyển đến nhà bao  
gói để làm việc này.[4]  
2. Xử trước khi bảo quản  
Xử trước khi bảo quản một bước quan trọng trong quy trình thu hoạch, bảo  
quản Cà Chua, thực hiện tốt giai đoạn này sẽ giúp cho quá trình bảo quản dễ dàng hơn  
hạn chế nhiều hơn tổn thất.  
a. Làm sạch kiểm soát thối hỏng  
Sau khi thu hoạch, cà chua thường được rửa sạch để loại bỏ bụi và các vật liệu  
khác của nước ngoài. Các nước rửa cần phải được ấm hơn so với nhiệt độ bột cà chua  
để tránh làm mát trái đất ngập nước, làm cho nước và các vi sinh vật được dễ xâm  
nhập vào quả (Showalter 1993).  
Trong quá trình rửa, nước rửa thể bị nhiễm bẩn chứa vi sinh vật gây thối  
hỏng nếu không thường xuyên thay nước. Để xử lý phòng bệnh, thể sử dụng các  
chất thông thường được phép sử dụng (General-Regarded-Ss-Safe - GRAS) như Clo  
dưới dạng chất tẩy rửa (5.25% HypoChlorit NaOCl), và muối cacbonat như  
Natricacbonat. Những nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng, phương pháp xử đơn  
giản này sẽ làm giảm thối hỏng một cách có hiệu quả. Tuy vậy, đối với từng giống  
phải sử dụng nồng độ thuốc thích hợp. Khi xử bằng HypoClorit, cần lưu ý một số  
điểm sau đây:  
- Rửa trong nước Clo (NaOCl 50-70ppm) trong 2 phút, sau đó rửa bằng  
nước, thể phòng ngừa sự thối hỏng gây ra do vi khuẩn, nấm mốc nấm  
men (Ogawa và Manji, 1984).  
- Như một chất tẩy uế cho cà chua, 4 thìa cà phê thuốc tẩy thương mại  
được thêm vào một Gallon nước sạch, sẽ tương đương với NaOCl khoảng  
250 ppm (Bautista và Acedo, 1987).  
- Tình trạng suy giảm chất lượng của cà chua trong quá trình làm mát  
8
 
bằng bay hơi, thể được hạn chế nhờ nhúng trong NaOCl một phút,  
nhưng với nồng độ cao hơn, khoảng 0.5 – 1.0%, tuy nhiên điều này có thể  
không an toàn (Acedo, 1997).  
- Khi sử dụng muối cacbonat (ví dụ kiềm cacbonat hoặc phổ biến là  
Natricacbonat), nồng độ 3% (30g/l) để làm sạch Cà Chua thì nên dùng để  
phun lên quả hoặc nhúng quả, sau đó rửa với nước (Smilanick 2002).  
Ngoài ra, có thể sử dụng trans-cinnamaldehyde (một hợp chất thực vật nguồn  
gốc tự nhiên), đã được chứng minh để triển lãm tác dụng diệt nấm, đặc biệt là khi áp  
dụng như một dung dịch nước (Smid et al. 1995, 1996). Điều trị cà chua với một dung  
dịch nước của 13 mM cinnamaldehyde giảm số lượng vi khuẩn nấm theo một thứ tự  
cường độ trong vòng 10 đến 30 phút, tương ứng. Với cà chua được xử lý trong 30  
phút, nấm mốc phát triển thể nhìn thấy đã bị trì hoãn bởi bảy ngày trong lưu trữ  
dưới bầu không khí thay đổi ở 18°C. Cinnamaldehyde hiện không có trong sử dụng  
thương mại để kiểm soát sâu cà chua. Sau khi rửa khử trùng, trái cây thường được  
sấy khô bằng khí nóng, và tẩy lông có thể được thực hiện sau khi sấy, dùng sáp cấp  
thực phẩm nóng. lớp phủ sáp làm giảm sự mất nước, tăng cường độ bóng của trái cây  
và có thể cải thiện độ bóng (Amarante & Ngân hàng 2001). Thuốc diệt nấm thể  
được thêm vào trong sáp để bảo vệ chống lại các tác nhân gây bệnh thối trái (Hall  
1989).  
Sau khi rửa, cần làm khô quả sự ẩm ướt bên trong vật chứa sẽ tạo điều kiện  
thuận lợi cho vi khuẩn phát triển. Việc này có thể thực hiện dễ dàng bằng cách lau quả,  
hoặc quạt bằng không khí thích hợp. Trong suốt quá trình rửa hoặc làm khô, có thể  
tiến hành một số công việc trước bao gói như phân loại tuyển chọn.[3],[4]  
b. Phân loại tuyển chọn  
Cà chua có chất lượng tốt luôn là sự lựa chọn đầu tiên người tiêu dùng. Vì thế,  
phân loại hay tuyển chọn luôn là việc làm có lợi. Phân loại tuyển chọn thể thay  
thế cho nhau, nhưng thật ra giữa chúng vẫn sự khác biệt. Khi phân loại dựa trên tiêu  
chuẩn lựa chọn chính thức của công nghiệp thì được gọi sự tuyển chọn. Những quá  
trình đơn giản hơn gọi là phân loại.  
9
Phân loại hay tuyển chọn bắt đầu bằng việc phân biệt những quả chất lượng  
tốt với những qukém chất lượng, hoặc bị khuyết tật (những quả bị rạn nứt, biến dạng,  
thối hỏng, bị côn trùng hại, hoặc bị các vết thương vật lý). Những quả tốt sau đó sẽ  
tiếp tục được phân loại theo mức độ chất lượng, dựa vào kích thước độ chín. Nhờ  
thế, phân loại tuyển chọn sẽ xác định chất lượng và giá thành của sản phẩm hàng  
hóa khi đưa ra thị trường.  
Phân loại tuyển chọn sẽ tránh được sự hư hỏng sớm của quả. Nếu để lẫn các  
loại quả khác nhau về chất lượng, quả bị bệnh hoặc bị tổn thương với các quả lành lặn  
sẽ làm tăng tỷ lệ thối hỏng, quả chất lượng kém hoặc quả bị tổn thương rất nhạy  
cảm với sự phát sinh bệnh, dễ dàng bị nhiễm bệnh từ quả bị bệnh, và có thể dẫn đến hư  
hỏng cả những quả lành lặn khác. Quả bị bệnh hoặc bị tổn thương cơ giới thường sản  
sinh ra nhiều ethylene, một hoocmon thúc đẩy quá trình chín và già hoá. Vấn đề này sẽ  
trở nên nguy hiểm nếu quả được tiêu thụ ở thị trường xa, những nơi thời gian vận  
chuyển thể phải kéo dài 3 – 5 ngày, nhiệt độ sẽ tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho  
bệnh phát triển. Cũng không nên để lẫn quả chưa chín với quả chín, đặc biệt là trong  
suốt thời gian dài vận chuyển lưu trữ, quả chín sẽ sinh ra lượng ethylene cao, gây  
ra sự chín sớm của những quả chưa chín.  
thể tham khảo cách phân loại dưới đây:  
Loại A, lớn: Cà chua của cùng một giống, có cùng trạng thái chín, cùng  
hình dạng, không khuyết tật (khuyết tật do côn trùng hại, tổn thương vật  
lý, thối hỏng, biến dạng,)  
Loại A, trung bình: Chất lượng yêu cầu như loại trên, nhưng khác về  
kích cỡ.  
Loại A, nhỏ: Chất lượng yêu cầu như trên, nhưng khác về kích cỡ.  
Loại B, lớn: Cà chua của cùng một giống, khuyết tật trên bề mặt hoặc  
khuyết tật nhẹ (khuyết tật nhẹ nghĩa là không ảnh hưởng đến chất lượng  
quả khi ăn ảnh hưởng không lớn đến chất lượng cảm quan của cả lô  
hàng).  
Loại B, trung bình: Chất lượng yêu cầu như trên, nhưng khác về kích cỡ.  
10  
Loại B, nhỏ: Chất lượng yêu cầu như trên, nhưng khác về kích cỡ.  
Loại C, đa kích cỡ, Cà chua của cùng một giống, không được phân loại  
theo trạng thái chín, nhưng không có quả chín hoàn toàn, có khuyết tật nhẹ  
như loại B, nhiều kích cỡ.  
Suslow và Cantwel (2005) đã đưa ra chỉ số chất lượng tiêu chuẩn cho các giống  
cà chua khác nhau, trước hết dựa trên sự tương đồng về hình dáng, và không có  
khuyết tật, hư hỏng. Kích cỡ không phải yếu tố để tuyển chọn chất lượng nhưng có  
lẽ ảnh hưởng khá nhiều đến chất lượng về mặt thương phẩm.  
Các chỉ số chất lượng này như sau:  
Hình dạng: có cùng một kiểu hình dạng (hình tròn, hình cầu, hình cầu  
dẹt)  
Màu sắc tương đồng (từ đỏ cam đến đỏ đậm, vàng nhạt). Không có màu  
xanh.  
Biểu hiện bên ngoài: Trơn mịn, sẹo cuống nhỏ. Không có các vết rạn  
nứt, rám nắng, vết thương do côn trùng, vết thương cơ giới, hoặc vết bầm  
tím.  
Độ cứng: Chịu được áp lực. Không bị biến dạng do chín nẫu.  
Trong quá trình phân loại, tuyển chọn, công nhân phải kỹ năng thành thạo. Để  
công đoạn này được tiến hành dễ dàng, nên có công cụ hỗ trợ.  
c. Kiểm soát sự chín  
Sự chín của cà chua có thể được làm chậm lại hoặc tăng cường, hoặc cải thiện.  
Làm chậm quá trình chín là mục đích chính của tích luỹ, bảo quản, để kéo dài  
tuổi thọ sau thu hoạch. Tránh quá trình chín sớm trong khi vận chuyển cũng rất quan  
trọng. Các biện pháp kỹ thuật khác nhau để làm chậm quá trình chín và kéo dài tuổi  
thọ được nhắc đến trong phần tồn trữ.  
Việc thúc đẩy quá trình chín cũng cần dùng đến, đặc biệt đối với những quả  
thu hoạch ở trạng thái chín-xanh để đáp ứng nhu cầu của thị trường tiêu dùng,và thậm  
11  
chí những quả được thu hoạch ở trạng thái khác nhau có thể đạt được độ chín đồng đều  
theo yêu cầu. Cà chua chín đỏ thường là nhu cầu của người tiêu dùng hoặc nhà chế  
biến. Chỉ nên làm chín nhân tạo những quả đã trưởng thành, vì quả non chín ép sẽ  
không tốt. Phương pháp làm chín khác nhau có một cơ chế chung để tăng tốc độ chín  
xử lý ethylene hoặc những chất tương tự (như axetylene) trong một khoảng thời gian  
đủ để kích thích quả sản sinh ethylene ở mức cao. Việc sử dụng khí ethylene đòi hỏi  
chi phí cao và máy móc phức tạp. thể làm chín cà chua bằng một số kỹ thuật đơn  
giản như sau:  
Sử dụng nguyên liệu thực vật sản sinh khí ethylene cao như lá cây của  
Gliricidia sepium và Samanea saman, hoặc những quả đã chín, đang chín. Những  
nguyên liệu này thường được sử dụng với lượng thích hợp là 10% trọng lượng quả  
(cứ 10 kg quả, thì sử dụng 1 kg nguyên liệu thực vật này), trộn lẫn với quả trong  
một buồng kín 2-3 ngày, sau đó đưa quả ra khỏi phòng và để chín tự nhiên trong  
điều kiện thoáng.  
Sử dụng dung dịch Etan (chế phẩm thương mại là Ethrel giống với ethylene  
dạng lỏng) ở nồng đ2500-5000 ppm, nhúng trong 5 phút.  
Sử dụng đất đèn (CaC2), cho một lượng ít vào đống quả giữ trong phòng nhỏ,  
nền nhà và khối cà chua phải được phủ kín bằng bao tải trong 2 ngày để acetylene  
giải phóng ra từ đất đèn khi nó phản ứng với nước, sau đó bao tải chắn được dỡ đi,  
để quả chín. Trong một vài trường hợp, quả được chứa trong thùng chứa lớn, sau  
đó đất đèn được đưa vào trong một túi nhỏ, phủ kín trong 2 ngày. Khoảng 0.25-0.5  
kg CaC2 được gói trong giấy báo và để trong một sọt tre 80 kg. Quả xanh sẽ  
chuyển sang có màu đỏ sau 1 ngày từ khi xử lý, trong khi để chín tự nhiên thì phải  
mất 6-7 ngày. Cần chú ý rằng phản ứng của CaC2 và nước sẽ sinh ra acetylene là  
một phản ứng toả nhiệt, thế không xử lý trong thời gian kéo dài vì sẽ dẫn đến tổn  
thương nhiệt của quả, và dù quả chín cũng chỉ đạt được màu cam hoặc vàng, thay  
vì màu đỏ.[4]  
d. Làm lạnh sơ bộ  
12  
Làm lạnh sơ bộ. Làm giảm nhanh chóng nhiệt độ sản phẩm, một quá trình  
được gọi là làm lạnh sơ bộ, thể giúp giữ được chất lượng thông qua việc làm  
chậm các hoạt động trao đổi chất. Làm lạnh ngay sau khi thu hái có thể giữ chất  
lượng rau quả ở mức tốt nhất sau thu hoạch. Nếu được thực hiện kết hợp với bảo  
quản lạnh, nó có thể làm giảm thời gian làm lạnh. Làm lạnh không khí cưỡng  
bức là có hiệu quả nhất nhưng phòng mát lại phổ biến hơn (theo Suslow và  
Cantwell, 2005). Một phương pháp đơn giản và nhanh chóng của làm lạnh sơ bộ  
sử dụng nước lạnh. Làm lạnh nước đơn giản và giá thấp đã được thực nghiệm  
tại Viện Nghiên cứu rau quả, Nội. Hệ thống này gồm một bộ khung được  
làm từ những ống nước và hai loại vật liệu lót- đầu tiên là những tấm tre đan,  
tấm cót và tiếp theo là tấm nilon để phủ lên trên- trước khi cho nước vào. Nước  
được làm lạnh đến 10oC bằng cách cho đá. Quả thể được nhúng ngập trong  
nước lạnh đến khi nhiệt độ tâm quả đạt 10-13oC.[4]  
e. Bao gói  
Hệ thống bao gói không chỉ chức năng để chứa sản phẩm mà quan trọng hơn,  
nó còn được sử dụng như một yếu tố bảo vệ sản phẩm hữu hiệu, giúp sản phẩm tránh  
những tác động cơ học những nguyên nhân làm hao tổn khác. Các chức năng khác  
của bao bì là để cung cấp các thông tin về sản phẩm bên trong như: khối lượng định  
giá bán của sản phẩm, xuất xứ sản phẩm v.v… Có nhiều loại bao bì khác nhau được sử  
dụng để bao gói và vận chuyển cà chua nhưng phổ biến nhất là các sọt tre và sọt gổ có  
dung tích chứa thay đổi từ 20-60 kg. Một số ít trường hợp sử dụng sọt nhựa mặc dù  
chúng khá đắt, nhưng vẫn được giới thiệu bởi chúng rắn chắc và có thể tái sử dụng,  
hoặc trả lại, chúng có bề mặt mềm dễ vệ sinh và có thể xếp thành chồng cao.  
Để tránh hoặc hạn chế thấp nhất các thương tổn vật lý và những hao tổn khác ở  
quả, khi bao gói cần chú ý thực hiện những điểm sau:  
Sử dụng bao bì sạch  
Nếu tài liệu bao gói được sử dụng phổ biến, việc đóng gói dễ được thực hiện  
đồng đều. Những bao gói chứa từ 40-50 kg là quá nặng. Người đóng gói thường  
13  
làm rơi hoặc ném chúng hơn nhấc chúng lên một cách nhẹ nhàng trong suốt  
quá trình đóng gói và vận chuyển.  
Sử dụng những vật lót và vật đệm hoặc những vật liệu dùng để lót như giấy  
báo, lá.... Với thùng gỗ, thể dán sẵn những tấm bìa các tông mỏng phía bên  
trong.  
Không sử dụng những vật chứa quá sâu vì sẽ dễ làm tổn thương quả ở phần  
đáy.  
Đóng gói những quả có cùng độ chín trong cùng một bao bì. Nếu xếp lẫn những  
quả chín với những quả chưa chín có thể dẫn đến sự chín ép của những quả  
chưa chín và làm tăng hư hỏng ở những quả chín từ trước.  
Giữ cố định quả trong bao bì làm cho quả không xê dịch trong suốt quá trình  
đóng gói và vận chuyển hạn chế thấp nhất hư hỏng do va đập. thể cố định  
quả bằng cách lắc nhẹ bao bì trong quá trình đóng gói để lấp đầy các khoảng  
trống. Bao bì được làm đầy tới 1/3 dung tích chứa lắc nhẹ; sau đó tiếp tục  
làm đầy đến 2/3 dung tích chứa lắc lại bao bì lần nữa. Tiếp tục quá trình này  
cho đến khi bao bì được làm đầy khít.  
Cần thao tác cẩn thận trong suốt quá trình đóng gói (như không để rơi quả...)  
Buộc chặt bao bì bằng dụng cụ chuyên dụng hoặc dây buộc.  
Xếp vào nơi mát.  
những biện pháp bao gói có thể giúp làm chậm sự chín và kéo dài thời gian  
tồn trữ của cà chua. Một kỹ thuật đơn giản được ứng dụng khá phổ biến ở một số nước  
là bao bì cải biến khí quyển (MAP), một loại bao bì chuyên dụng thể linh động  
trong môi trường bảo quản. Loại màng MAP này nên được sử dụng như yếu tố bổ  
sung hơn kết hợp với các vật liệu bao gói khác là một vật liệu bao gói độc lập vì nó có  
khả năng chống chịu tác động cơ học kém.[4]  
3. Một số phương pháp bảo quản Cà Chua  
Những kỹ thuật bảo quản khác nhau khi đem ứng dụng ở bất cứ nơi nào đều phải  
14  
được kiểm nghiệm cho phù hợp với các điều kiện nơi đó bằng cách sử dụng các giống  
địa phương, yếu tố ảnh hưởng đến các phản ứng trong quá trình bảo quản.  
a. Phương pháp bảo quản ở nhiệt độ thấp  
Phương pháp hiệu quả nhất để làm chậm chín và kéo dài thời gian bảo quản là  
bảo quản ở nhiệt độ thấp. Nếu cơ sở bảo quản lạnh, nên lưu ý các điều kiện sau đây  
(Suslow và Canwell, 2005):  
- Nhiệt độ: 12.5-15oC với quả xanh; 10-12.5oC với quả ương (có màu đỏ  
nhạt); 7- 10oC với quả chín (có màu đỏ đậm).  
-
Độ ẩm tương đối: 90-95%  
Quả cà chua đạt độ chín kỹ thuật thể bảo quản được đến 14 ngày trước khi  
chín 12.5oC mà không làm giảm chất lượng cảm quản sự biến đổi màu sắc. Ở  
nhiệt độ này, sau quá 2 tuần, sự thối hỏng sẽ tăng dần theo thời gian bảo quản. Với  
những quả đã đạt độ chín tới (độ chín sử dụng, ăn được), thể bảo quản được 8-10  
ngày ở khoảng nhiệt độ thích hợp. Bảo quản ngắn hạn hoặc hạ nhiệt độ thấp hơn  
khoảng nhiệt độ nêu trên đôi khi được áp dụng trong thị trường nhưng sẽ dễ xảy ra tổn  
thương lạnh sau một vài ngày. Cà chua sẽ xuất hiện tổn thương lạnh ở nhiệt độ dưới  
10oC nếu giữ quá 2 tuần hoặc ở 5oC nếu để quá 6-8 ngày. Hậu quả của việc tổn thương  
lạnh là cà chua sẽ không tiếp tục chín một cách bình thường, không đạt được màu sắc  
hương vị tự nhiên, quả bị mềm, bề mặt bị lõm, thâm hạt, tăng nguy cơ hư hỏng  
(đặc biệt mốc đen gây ra bởi vi khuẩn Alternaria spp.). Bên cạnh đó, độ ẩm tương  
đối cao cũng cần thiết cho việc giữ chất lượng cà chua ở mức cao nhất thể chống  
lại sự mất hơi nước (làm nhăn vỏ quả). Độ ẩm cao kéo dài cũng điều kiện thuận lợi  
để phát triển mốc trên bề mặt quả hoặc nhũn cuống.[4]  
b. Phương pháp bao gói khí quyển cải biến (MAP)  
Bao gói khí quyển cải biến (MAP). MAP là một phương pháp đơn giản rẻ tiền  
làm ức chế sự chín của quả bằng cách tạo ra môi trường khí có ít khí CO2 nhiều khí  
O2. MAP còn tạo ra môi trường ẩm làm giảm sự mất hơi nước. MAP được tạo ra một  
cách đơn giản bằng cách cho quả vào trong một túi chất dẻo. Màng nilon cũng thể  
15  
được dùng làm vật liệu lót trong các thùng chứa, hoặc để che phủ, đậy các pallet.  
Sự phát triển công nghệ trong việc ứng dụng màng MAP để tăng thời gian bảo  
quản cà chua gồm như sau:  
Cà chua giống ‘Daniella hybrid’ (thời gian bảo quản dài) các trạng thái quả  
xanh, quả ương quả có màu đỏ đóng trong túi PE có độ dày 44.4 µm và bảo  
quản ở 20oC kéo dài thời gian bảo quản bằng cách trì hoãn sự chín thông qua sự  
biến đổi màu sắc, hàm lượng lycopen, độ cứng cũng làm giảm nhiều sự hao hụt  
khối lượng (Ait- Oubahou, 1991) .  
Cà chua giống ‘Liberto’ ở trạng thái hồng giữ được rất tốt trong túi PE có độ  
dày 50 µm và túi PP có độ dày 25µm 13oC. Quả cà chua vẫn cứng sau 60 ngày  
bảo quản và có sự hao hụt khối lượng thấp nhất chất khô hòa tan cao nhất.  
Những loại màng khác (PP 20µm, PVC 10µm) có tác dụng thấp nhất. Cà chua để ở  
môi trường bên ngoài thì quá chín sau 30 ngày bảo quản (Batu và Thompson,  
1998).  
Túi PE có độ dày 0.04mm được xem như một loại túi tái sử dụng thể chứa  
được 90kg cà chua giống ‘Improved Pope’ trong các rổ nhựa, với hình thức này có  
thể trì hoãn sự chín tới 10 ngày (từ 11 ngày của những quả để ở điều kiện thường  
đến 21 ngày với những quả bảo quản trong túi PE) 22oC. Kết quả bình quân, số  
quả chấp nhận được là 74% với những quả được giữ ở môi trường bên ngoài và  
85% với cà chua bảo quản trong túi PE (Yaptenco và cộng sự., 2004). Trong ứng  
dụng riêng màng MAP với điều kiện nhiệt độ cao các nước nhiệt đới, bên trong  
túi thường xảy ra hiện tượng đọng nước và có thể dẫn đến thối hỏng quả. Để tránh  
tình trạng đấy, những loại màng phù hợp với độ dày thích hợp phải được sử dụng  
hoặc phải xác định được thời gian tối đa trong bảo quản bằng MAP trước khi xảy  
ra các hiện tượng như vậy. Đục lỗ trên túi nilon cũng trở nên cần thiết. Các lỗ  
thủng thể được đục đều đặn bằng cách sử dụng các vật dùng để dùi thông  
thường, đinh ghim hoặc những hàng lỗ kim châm siêu nhỏ. dụ, khi sử dụng  
LDPE 50 µm thì nên đục 4 lỗ đinh ghim cho mỗi 4 kg quả trong khi với sọt gỗ có  
kích thước 36 x 48 x 24 thì cần 24 lỗ đinh ghim.[4]  
16  
c. Phương pháp bay hơi (Evaporative Cooling System)  
Bảo quản lạnh bằng phương pháp bay hơi (Evaporative Cooling System). ECS  
bao gồm sự bay hơi của nước mang theo yếu tố làm mát. Nước được cung cấp vào  
những vùng lân cận của sản phẩm và làm hạ nhiệt trong buồng bảo quản, nhiệt sinh ra  
từ chính sản phẩm (nhiệt sinh ra do hô hấp) và do môi trường bên ngoài. Sự giảm nhiệt  
độ thể không quá lớn nhưng độ ẩm thể tăng lên đạt 90% hoặc cao hơn, ứng dụng  
ECS rất hiệu quả trong việc hạn chế sự mất nước và các quá trình liên quan đến sự  
mất nước (như sự héo, sự chín nhanh). Các phương pháp ECS khác nhau đều một  
điểm chung – sự mặt của nước ở vùng lân cận sản phẩm:  
Sử dụng mùn cưa ẩm - Mùn cưa được làm ẩm với nước ở tỉ lệ 1:1 có thể trì hoãn sự  
chín của cà chua tới 2 tuần quả cà chua vẫn tiếp tục chín đỏ (Hình 20) (Bautista và  
Acedo, 1987). Mùn cưa phải được làm sạch, bằng cách dội nước sôi, phơi khô để diệt  
vi khuẩn. Một kỹ thuật khác để diệt khuẩn sử dụng dung dịch Hypochlorite 200ppm  
để làm ẩm mùn cưa. Quả cà chua nên được xếp thành từng lớp mỏng, chẳng hạn: một  
lớp mùn cưa dày khoảng 2 cm, tiếp theo là một lớp quả sau đó lại phủ lên một lớp mùn  
cưa, cứ tiếp tục như thế. Cách này có thể ngăn không cho bệnh lây lan từ lớp này  
sang lớp khác. Phương pháp này có thể thực hiện ở nhiều không gian hoặc trong các  
vật chứa.  
Sử dụng chum, vại làm ẩm Những cái chum, vại lớn rất sẵn ở các vùng nông  
thôn có thể được sử dụng để làm ECS mức trung bình (Hình 21) (Bautista và  
Acedo, 1987). Chum được đặt trên một cái khay nước phủ lên trên bằng một  
mảnh vải ẩm hoặc bao tải làm từ sợi đay. Phương pháp này có thể giữ quả cà chua  
chậm chín từ 1- 2 tuần.  
Tủ làm mát nhờ bay hơi – Hình 22 cho thấy Tủ - một kiểu cấu trúc của ECS có  
thể giữ cà chua xanh trong thời gian bảo quản lâu gấp đôi so với cà chua bảo quản  
ở điều kiện thường (Acedo, 1997a). Kiểu cấu trúc thứ nhất (Hình 22A) gồm tủ  
bảo quản làm bằng gỗ lưới kim loại, toàn bộ cấu trúc được phủ bởi bao tải đay  
được làm ướt bằng nước trong khay đặt trên đỉnh dưới đáy. Cấu trúc thứ hai  
(Hình 22B) là sự cải tiến của cấu trúc thứ nhất. Các cạnh hộp được làm từ tấm Gl  
17  
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 26 trang yennguyen 04/04/2022 3980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Tiểu luận Công nghệ sau thu hoạch - Đề tài: Xây dựng quy trình thu hoạch, bảo quản cà chua nhằm hạn chế tối đa tổn thất sau thu hoạch", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docbao_cao_tieu_luan_cong_nghe_sau_thu_hoach_de_tai_xay_dung_qu.doc