Đề án Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt nam trong điều kiện hiện nay

LỜI MỞ ĐẦU  
Trong quá trình phát triển kinh tế hội, nhân tố con người được coi là nhân tố  
quan trọng, có vai trò quyết định đối với sự thành công của các chính sách, các mục  
tiêu phát triển sự nghiệp phát triển kinh tế hội của Quốc gia.  
Sự nghiệp phát triển kinh tế hội ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá,  
hiện đaị hóa đặt ra những yêu cầu, thách thức lớn đối với chiến lược con người  
trong đó nhiệm vquan trọng việc xác định mục tiêu, chiến lược đào tạo sử  
dụng cán bộ, đặc biệt đối với cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô - Chính họ những “  
Người cầm lái cho con thuyền kinh tế của đất nước.  
Trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại  
hoá đất nước, trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực phát triển theo xu hướng  
hội nhập mạnh mẽ, trong bối cảnh nền kinh tế đất nước mới chuyển sang nền kinh tế  
thị trường, cán bộ quản lý kinh tế vĩ của chúng ta đã bộc lộ những bất cập về  
trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn.  
Để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp phát triển trong bối cảnh đó, chính  
sách cán bộ cần phải trở nên linh hoạt, quan hệ hữu cơ với chính sách kinh tế - Xã  
hội, phải gắn liền với những mục tiêu của sự nghiệp phát triển đặc biệt là chính sách  
đào tạo sử dụng cán bộ - Đào tạo nhằm mục tiêu tạo ra những “sản phẩm” phù  
hợp với yêu cầu mục đích sử dụng.  
Trong giai đoạn vừa qua công tác cán bộ, đào tạo cán bộ của chúng ta còn  
nhiều bắt cập, chưa thực sự mang tính chiến lược. Trước những yêu cầu và thách  
thức đối với công tác cán bộ chúng ta cần phải xác định mục tiêu, xây dựng chiến  
lược đào tạo cán bộ - Đặc biệt đối với cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô phù hợp với yêu  
cầu mục tiêu của sự nghiệp phát triển.  
Chính từ nhận thức về tầm quan trọng của cán bộ công chức quản lý kinh tế  
của nước ta nên khi thực hiện đề án chuyên ngành, được sự giúp đỡ của các cô, các  
thầy hướng dẫn em xin thực hiện đề án "Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế  
ở Việt nam trong điều kiện hiện nay". Trong quá trình thực hiện đề án do  
còn nhiều vấn đề chưa còn được nhận thức đầy đủ nên bài viêt còn nhiều hạn chế,  
bản thân em rất mong nhận được sự thông cảm và giúp đỡ của các cô, các thầy để  
ngày càng được tiến bộ hơn.  
1
CHƯƠNG I:  
SỰ CẦN THIẾT ĐỐI VỚI CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ ĐÀO TẠO  
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ QUẢN LÝ  
KINH TẾ VĨ Ở NƯỚC TA  
I. CƠ SỞ LUẬN:  
Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI nền kinh tế nước ta từng bước chuyển sang vận  
hành theo cơ chế thị trường sự quản của Nhà nước theo định hướng XHCN.  
Sự chuyển đổi sang mô hình kinh tế mới đòi hỏi phải đội ngũ cán bộ quản lý kinh  
tế tương ứng, đặc biệt đội ngũ cán bộ quản lý nòng cốt - (cán bộ quản cấp cao  
và các chính khách kinh tế hay cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô).  
Vậy cán bộ quản lý kinh tế là gì? cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô là gì?  
Khái niệm về cán bộ quản lý kinh tế:  
1. CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ :  
Cán bộ quản lý kinh tế tất cả các cá nhân thực hiện những chức năng quản lý  
nhất định trong bộ máy quản lý kinh tế.  
người làm lao động quản lý kinh tế và là một trong những yếu tố chủ yếu  
của hệ thống quản lý, người làm công tác quản lý kinh tế có 3 loại cán bộ kỹ thuật,  
nhân viên giúp việc và nhà quản lý.  
Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô là một bộ phận của đội ngũ công chức nhà nước,  
làm việc trong các quan quản lý Nhà nước về kinh tế, tham gia hoạch định các  
chính sách kinh tế thực hiện quản lý Nhà nước các hoạt động kinh tế trên phạm  
vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân hoặc trong từng địa phương, từng vùng lãnh thổ.  
2
2. CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ CÓ THỂ CỤ THỂ HOÁ THÀNH 2 LOẠI LÀ CÁC  
CHÍNH KHÁCH KINH TẾ VÀ CÁC NHÀ ĐIỀU HÀNH QUẢN CẤP CAO:  
Mô hình:  
Các nhà quản  
lý kinh tế  
QLKT mô  
QLKT Vi mô  
(CBLĐ cấp cao)  
(Các nhà QLDN)  
Các chính  
khách KT  
Các nhà điều  
hành QL C.Cao  
2.1. Các chính khách kinh tế:  
Là nhng người nm gicác bphn quyn lc Nhà nước, chu trách nhim trong  
vic hoch định đường li, chtrương, chiến lược, chính sách phát trin kinh tế đất nước  
và giám sát vic thc hin đường li, chtrương, chiến lược, chính sách phát trin kinh  
tế đã vch ra. Các chính khách kinh tế là các nhân vt có vthế quan trng trong xã hi  
đương thi (bao gm ccác nhân vt trong chính quyn và các nhân vt ca các tchc  
đoàn thln trong xã hi). Thông thường theo thiết kế ca các xã hi hin nay, các  
chính khách kinh tế là nhng người đứng đầu cơ quan quyn lc xã hi và các thành  
viên ca cơ quan này (btrưởng, người lãnh đạo cp tnh, thành ph) thc thi nhim vụ  
lãnh đạo các hot động qun lý kinh tế vi vai trò là người điu hành trong kinh tế.  
2.2. Các nhà điều hành quản cấp cao:  
Đó là các cá nhân trc tiếp vn hành các hot động qun lý, biến đường li, chủ  
trương, chiến lược và chính sách phát trin kinh tế thành hin thc. Các nhà điu hành qun  
lý cp cao thường là nhng người đứng đầu cơ quan quyn lc Nhà nước.  
Theo thiết chế hội hiện nay, ở nhiều nước chính khách kinh tế đồng thời là  
nhà điều hành quản cấp cao. Ở nước ta hiện nay, thực hiện cơ thế Đảng lãnh đạo,  
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, thì phần nhiều chính khách kinh tế và nhà  
điều hành quản cấp cao ở một hệ thống thường là 2 thực thể khác nhau.  
II. VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ  
3
ĐỐI VỚI CNH-HĐH Ở NƯỚC TA:  
1. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:  
Quản lý kinh tế vĩ thực chất là nói đến vai trò, chức năng quản của Nhà  
nước đối với các hoạt động kinh tế. Mô hình kinh tế phổ biến trên thế giới hiện là  
kinh tế hỗn hợp trong đó Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết, quản  
lý các hoạt động của nền kinh tế quốc dân thông qua hệ thống các chính sách và  
công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.  
- Nhà nước thiết lập khung khuôn khổ luật pháp thống nhất để tạo môi trường  
chung cho các thị trường hoạt động.  
- Khắc phục các khuyết tật của thị trường để tạo cho cơ chế thị trường hoạt  
động hiệu quả thông qua chính sách kinh tế vĩ mô, xây dựng các chương trình, kế  
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.  
- Đảm bảo công bằng hội thông qua việc phân bổ các nguồn lực, phân phối  
thu nhập giữa các tầng lớp, các nhóm dân trong xã hội.  
- Ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn chặn kiềm chế lạm phát, thất nghiệp, thực  
hiện các biện pháp kiểm soát, giám sát, sử dụng các công cụ thuế để điều tiết các  
hoạt động kinh tế.  
Trong điu kin nước ta, để đạt được các mc tiêu kinh tế xã hi đã đề ra, qun lý  
kinh tế vĩ mô càng có vtrí quan trng hơn bao gihết và vai trò qun lý vĩ mô nn kinh  
tế ca Nhà nước ta trong cơ chế mi thhin nhng đim sau:  
- Nhà nước xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với điều  
kiện KT-XH nước ta theo các mục tiêu đề ra và mong đạt được.  
+ Nhà nước chủ động điều tiết các doanh nghiệp nhằm tạo ra sự thống nhất  
giữa các lợi ích của quốc gia.  
+ Nhà nước hoạch định các chương trình phát triển KT-XH, thông qua đó thực  
hiện chiến lược phát triển KT-XH, dẫn dắt các doanh nghiệp và các thành phần kinh  
tế đi đúng hướng đã chọn, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế để nhanh chóng hội  
nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.  
- Tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh  
+ Xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi, có chính sách để thu hút vốn đầu tư  
trong và ngoài nước.  
+ Quyết định bảo đảm các quyền tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất  
kinh doanh như các quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, xây dựng hệ thống pháp luật  
đồng bộ ổn định...  
- Thực hiện các chính sách phân phối thu nhập công bằng, hiệu quả, tạo động  
lực cho sản xuất phát triển.  
- Phân phi hp lý các ngun lc và qun lý sdng có hiu qutài sn quc gia.  
2. VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ Ở NƯỚC TA:  
4
Trong một hệ thống kinh tế hoạt động thành công hay thất bại phụ thuộc rất  
nhiều vào người cán bộ quản lý kinh tế. Nói cách khác trong hệ thống thì người cán  
bộ quản giữ vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động kinh tế.  
Cán bộ quản ở tầm vĩ mô chính là người vận hành, điều khiển thực thi  
trong bộ máy đó. Nói cách khác, tính hiệu quả của hệ thống các chính sách và công  
cụ quản lý kinh tế vĩ phụ thuộc vào 2 điều kiện cơ bản  
1. Cơ chế vận hành của nền kinh tế  
2. Khả năng và trình độ của đội ncán bộ quản lý  
Hai yếu tố này có mối quan hệ tương tác và có liên quan tới hàng loạt các nhân  
tố KT-XH trong đó khả năng và trình độ đội ngũ cán bộ quản đóng vai trò quyết  
định nhất.  
Để thực hiện được mục tiêu mà đại hội đảng VIII đã xác định, đội ngũ cán bộ  
nói chung và cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô nói riêng có vai trò quyết định và nó  
được thể hiện tập trung trên các mặt chủ yếu sau:  
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc xây dựng đúng  
đắn đường lối, chiến lược, chủ trương, định hướng kế hoạch phát triển kinh tế, chính  
sách, cơ chế quản lý kinh tế hệ thống pháp luật kinh tế trong toàn bộ đất nước,  
trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương.  
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc tổ chức bộ máy  
lựa chọn cán bộ để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ quản lý trong thời kỳ tiếp tục  
đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH.  
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc chỉ huy và điều  
hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ các hoạt động trong quá trình phát triển kinh  
tế quản lý kinh tế ở phạm vi cả nước, từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa  
phương.  
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc thường xuyên  
phối kết hợp các quá trình quản lý kinh tế để điều chỉnh kịp thời những mặt cân đối,  
những mâu thuẫn phát sinh.  
- Cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có vai trò quyết định trong việc kiểm tra và  
kiểm soát quá trình phát triển kinh tế quản lý kinh tế. Trong đổi mới kinh tế cơ  
chế quản lý kinh tế, công tác kiểm tra, kiểm soát đặc biệt kiểm tra, kiểm soát  
trong lĩnh vực kinh tế tài chính có vị trí rất quan trọng, không có kiểm tra, kiểm soát  
thì không có quản lý kinh tế vĩ mô.  
Trong đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô thì những người đứng đầu các cấp  
những chuyên gia đầu ngành luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng.  
5
III. YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ  
TRONG GIAI ĐOẠN MỚI:  
1. PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ:  
- Phi có quan đim, lp trường chính trvng vàng, có bn lĩnh và kiên định trong  
công vic được giao.  
- Có ý chí và có khnăng làm giàu cho tp th, cho xã hi và cho bn thân.  
- Có khnăng thoàn thin, tqun lý, tự đánh giá kết qucông vic ca bn thân,  
đánh giá con người mà mình qun lý theo tiêu chun chính tr.  
- Biết biến nhn thc chính trca mình thành nhn thc ca mi người, to được  
lòng tin và lôi cun mi người tham gia.  
- Hot động trong quá trình đổi mi, va phi có bn lĩnh chính trvng vàng, va  
phi rt năng động sáng to.  
2. YÊU CẦU VỀ NĂNG LỰC CHUYÊN MÔN - TỔ CHỨC:  
2.1 YÊU CẦU NĂNG LỰC CHUYÊN MÔN:  
- Trước hết, cán bộ quản lý kinh tế phải kiến thức chuyên môn về lĩnh vực  
được giao trách nhiệm quản lý, biết sử dụng tập hợp các chuyên gia giỏi, các cán  
bộ chuyên môn dưới quyền, giao đúng việc tạo điều kiện cho họ phát huy khả  
năng chuyên môn cho nhiệm vụ chung.  
- Phải kiến thức về kinh tế thị trường; nắm vững bản chất, cơ chế vận động  
để ứng xử, lựa chọn trong kinh doanh để sử dụng công cụ điều tiết kinh tế thị trường  
trong quản lý nhà nước.  
- Phải kiến thức về khoa học quản hiện đại, hình thành đội ngũ cán bộ  
quản lý chuyên nghiệp ở mọi cấp quản lý, hoạt động theo nguyên tắc của thị trường  
như mọi nghề khác.  
- Trong hoạt động quản phải xuất phát từ thực tế - kinh doanh, thực tế địa  
phương, thực tế đời sống kinh tế - xã hội để tìm lời giải, biện pháp cụ thể, tránh  
giao điều sách vở.  
2.2 YÊU CẦU NĂNG LỰC TỔ CHỨC QUẢN LÝ:  
Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế những người trực tiếp tổ chức điều hành bộ  
máy quản để phối hợp hoạt động của từng đơn vị kinh tế cụ thể. Do đó, đặt ra cho  
từng cán bộ quản những yêu cầu mang tính cụ thể, thiết thực, bao gồm: năng lực  
thực tế và phân tích các tình huống; năng lực quyết sách và giải quyết các vấn đề;  
năng lực tổ chức chỉ huy; năng lực liên kết phối hợp hành động.  
- Phải người bản lĩnh, khả năng nhạy cảm, linh hoạt, khả năng quan  
sát, nắm được các nhiệm vụ từ tổng thể tới chi tiết để tổ chức cho hệ thống hoạt  
động đồng bộ, hịêu quả.  
- Là người bình tĩnh, tự chủ nhưng quyết đoán dứt khoát trong công việc, kcó  
kế hoạch làm việc rõ ràng và tiến hành công việc nhất quán theo kế hoạch.  
6
- Là người năng động, sáng kiến, tháo vát, phản ứng nhanh nhạy, dám nghĩ,  
dám làm, dám mạo hiểm, dám chịu trách nhiệm, luôn biết lường trước mọi tình  
huống thể xảy ra, biết dồn đúng tiềm lực vào các khâu yếu, biết tận dụng thời cơ  
lợi cho hệ thống.  
- Là người có tác phong đúng mức, thông cảm hiểu cấp dưới, có thái độ  
chân thành, đồng thời hướng cho cấp dưới có tác phong cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau.  
- Biết sử dụng đúng tài năng từng người, đánh giá đúng con người, biết xử lý  
tốt các mối quan hệ trong và ngoài hệ thống, quan hệ với người dưới quyền; quan hệ  
với cấp trên,....  
3. YÊU CẦU VỀ PHÂM CHẤT ĐẠO ĐỨC:  
- Trước hết, cán bộ quản lý nói chung, cán bộ quản lý kinh tế nói riêng, với tư  
cách là một công dân, phải sống và làm việc theo tiêu chuẩn đạo đức một công dân.  
Hiện nay, phải lấy việc gương mẫu sống và làm việc theo pháp luật là tiêu chuẩn  
đạo đức cơ bản.  
- Yêu cầu đặc thù của chức nghiệp làm nghề quản lý là phải chăm lo việc công  
của đơn vị, của Nhà nước, phải quản một tập thể nhiều người, do đó đòi hỏi mỗi  
cán bộ quản phải biết chăm lo đến mọi người; tập thể, cộng đồng; biểu hiện qua  
việc làm phải công bằng, công tâm, khách quan, có văn hoá, tôn trọng con người,....  
- Là tấm gương cho người dưới quyền người lao động trực tiếp noi theo, do  
đó đòi hỏi mỗi cán bộ quản phải người liêm khiết, khiêm tốn, trung thực, thẳng  
thắn, không vụ lợi, thực hiện bình đẳng giữa cống hiến hưởng thụ, giữa quyền lợi  
và trách nhiệm.  
Trong các yêu cầu nói trên thì mức độ quan trọng của từng yêu cầu đối với  
từng loại cán bộ quản lý kinh tế là có khác nhau. Đối với cán bộ quản lý kinh tế vĩ  
mô thì những phẩm chất được đào tạo năng lực là các yêu cầu quan trọng hơn vì  
vừa là tiêu chuẩn, vừa là giá trị bên trong của con người, nó là thước đo năng lực  
thực tế phẩm chất tư tưởng của cán bộ quản lý. Tuy nhiên trong công tác quy  
hoạch cán bộ, việc lựa chọn, sử dụng, đào tạo,bồi dưỡng cán bộ cần phải căn cứ vào  
một tiêu chuẩn nữa đó triển vọng, tức khả năng cống hiến tiếp theo của cán bộ.  
Trong công tác quy hoạch cán bộ cần chú ý việc sắp xếp, bố trí cán bộ không chỉ là  
vấn đề tuổi tác,sức khoẻ khả năng thích ứng của mỗi con người. Chính điều đó là  
cơ sở để xem xét, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho phù hợp với điều kiện thực tiễn.  
IV. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐÀO TẠO VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG  
CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ:  
1. ĐẶC ĐIỂM ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY:  
- Sau nhiều năm đổi mới, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ đã những  
bước phát triển quan trọng về số lượng, chất lượng, trình độ chuyên môn.  
Trong công cuộc đổi mới đất nước, đổi mới kinh tế, cán bộ quản lý kinh tế đã  
tích lũy được những kinh nghiệm cần thiết để tiếp tục phát huy cao hơn trong thời  
7
kỳ mới - thời kỳ tiếp tục sự nghiệp đổi mới đồng bộ, sâu sắc, đẩy mạnh CNH-HĐH  
đất nước về mục tiêu dân giàu nước mạnh hội công bằng văn minh, vững  
bước đi lên CNXH. Trong những điều kiện và hoàn cảnh nói trên, đội ngũ cán bộ  
nói chung, đội ngũ lãnh đạo quản lý kinh tế vĩ mô các cấp nói riêng, đã được thử  
thách và trưởng thành cả về số lượng chất lượng. thể nói, số đông cán bộ lãnh  
đạo quản lý kinh tế vĩ đã sự nghiệp chung của đất nước, của dân tộc, đoàn  
kết xung quanh Ban chấp hành trung ương Đảng, Bộ Chính trị thống nhất về đường  
lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng lối sống lành mạnh, thích nghi  
nhanh với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng  
XHCN  
Kiến thức, kinh nghiệm, trình độ năng lực thực tiễn trong lãnh đạo, quản lý  
kinh tế vĩ được nâng lên một bước mới. Trong những năm đổi mới, tiêu chuẩn  
cơ cấu đội ncán bộ quản lý kinh tế vĩ cũng từng bước được hoàn thiện và phù  
hợp với yêu cầu đổi mới kinh tế hội của đất nước. Tỷ lệ đội ngũ cán bộ trẻ có  
trình độ đã được tăng lên, cơ cấu nam nữ, vùng miền, dân tộc tôn giáo, công, nông,  
binh, tri thức... đã được quan tâm nhiều hơn trong việc xây dựng cán bộ chủ chốt  
của hệ thống quản lý kinh tế vĩ mô. Sự phát triển mới của đội ngũ cán bộ quản lý  
kinh tế vĩ mô trong thời gian qua đã thực slà nhân tố quyết định sự thành công của  
sự nghiệp đổi mới đất nước.  
- Tuy nhiên đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ ở nước ta hiện nay còn bộc  
lộ một số khuyết điểm, yếu kém đáng quan tâm:  
Trong những năm qua trong số đông cán bộ quản lý kinh tế vĩ đã được đào  
tạo bồi dưỡng lại những kiến thức và kinh nghiệm về quản lý kinh tế thị trường  
vẫn còn nhiều hạn chế, nên trong hoạt động thực tiễn nhiều người còn lúng túng,  
làm ăn với nước ngoài bị thua thiệt, thậm chí có một bộ phận bị lừa đảo, bị lôi cuốn,  
biến chất và sa đoạ đồng tiền lợi ích cá nhân bất chính, làm tổn hại không nhỏ  
đến nền kinh tế, cho hệ thống Nhà nước. Đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trẻ tuy  
được đào tạo hệ thống trong cơ chế mới đã tỏ ra có năng lực, nhanh nhẹn, năng  
động hơn nhưng chưa được thử thách, rèn luyện chưa nhiều về kinh nghiệm  
thực tiễn, dễ nóng vội, thiếu thận trọng và còn những biểu hiện tuỳ tiện trong hoạt  
động quản lý kinh tế.  
Cơ cấu đội ngũ cán bộ hiện còn chưa sự đồng bộ như cán bộ cao tuổi còn  
chiếm tỉ trọng lớn nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế vĩ mô.  
Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt ở vùng sâu, xa, miền núi, vừng căn cứ  
cách mạng vừa thiếu về số lượng, vừa thấp về trình độ văn hoá, lý luận, chuyên môn  
về quản lý kinh tế vĩ mô.  
Tỷ trọng cán bộ nữ là lãnh đạo quản lý trong các quan Nhà nước về kinh  
tế còn thấp trong khi nữ chiếm 50% dân số cả nước.  
Tiêu chuẩn chung, tiêu chuẩn cơ bản của đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô  
tuy đã được hình thành nhưng chưa được cụ thể hoá cho từng cấp, ngành, từng lĩnh  
vực từng loại chức danh, chưa cơ sở pháp lý cho việc đào tạo, bồi dưỡng, đề  
bạt, sử dụng, đánh giá cán bộ. Do đó làm cho một bộ phận cán bộ quản lý kinh tế vĩ  
8
ỷ lại không chịu phấn đấu, vươn lên để nâng cao trình độ chuyên môn và rèn  
luyện phẩm chất, bản lĩnh chính trị theo tiêu chuẩn quy định. Vậy thể khẳng định  
đội ngũ cán bộ hiện còn bất cập vtrình độ so với đòi hỏi của công cuộc tiếp tục đổi  
mới kinh tế, đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH ở Việt nam trong tương lai.  
2. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ  
TRONG NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI:  
Vấn đề xây dựng đội ncán bộ quản lý kinh tế trong những năm tới vấn đề  
hết sức phức tạp và khó khăn. Từ trước đến nay đã nhiều quan điểm được đưa ra  
nhằm mục đích xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trong những năm đổi mới  
được hữu hiệu trong đó những quan điểm sau đây được coi là hiệu quả hơn cả:  
- Phải luôn nắm vững quan điểm và nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lê  
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác cán bộ và xây dựng quy hoạch cán bộ  
nói chung, cán bộ quản lý kinh tế nói riêng.  
- Cần chăm lo đến tính đồng bộ của đội ngũ cán bộ, phải hết sức coi trọng và  
tập trung xây dựng tốt đội ngũ cán bộ chủ chốt, trước hết người đứng đầu về quản  
lý kinh tế vĩ ở từng cấp đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược về quản lý kinh tế vĩ  
mô.  
- Cần có quan điểm, phương pháp đánh giá, sử dụng cán bộ một cách khoa học  
và khách quan, công tâm. Đánh giá đúng cán bộ bố trí sử dụng đúng cán bộ quản  
lý kinh tế vĩ mô là vấn đề khó khăn phức tạp và quan trọng nhất. Khi đánh giá phải  
có quan điểm đúng phải theo tiêu chuẩn quy định, căn cứ vào kết quả hiệu quả  
hoạt động của cán bộ, xét đến một cách đầy đủ, hoàn cảnh điều kiện hoạt động  
của cán bộ.  
- Cần thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ bằng việc thể chế hoá thành  
các quy chế, quy định, quy trình và chỉ đạo thực hiện một cách chặt chẽ việc xây  
dựng đội ngũ cán bộ.  
- Phải làm rõ trách nhiệm, quyền hạn quyền lợi của cán bộ trong từng thời  
kỳ. Cả 3 mặt này có quan hệ chặt chẽ với nhau, trách nhiệm phải quyền để  
thực hiện, khi thực hiện trách nhiệm tốt phải đảm bảo quyền lợi về vật chất và tinh  
thần đúng mực.  
- Trong công tác cán bộ phải kết hợp chặt chẽ giữa trước mắt và lâu dài, kế  
thừa và phát triển nhằm đảm bảo kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng một cách  
vững vàng.  
3. YÊU CẦU CẤP THIẾT ĐÀO TẠO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ:  
Nn kinh tế nước ta đang bước sang mt thi kphát trin mi, thi kỳ đẩy mnh  
CNH-HĐH thc hin mc tiêu chiến lược đưa nước ta cơ bn trthành mt nước công  
nghip. Để thc hin thng li nhim vụ đó, công tác đào to cán btrong đó có cán bộ  
qun lý kinh tế đủ phm cht và năng lc, nm bt được công nghqun lý kinh tế  
hin đại và vn dng thích ng vào điu kin cthể ở nước ta là mt trong nhng khâu  
có ý nghĩa quyết định.  
9
Ở nước ta hiện nay, công tác đào tạo cán bộ quản lý nói chung và đào tạo cán  
bộ quản lý kinh tế nói riêng đang đứng trước những mâu thuẫn gay gắt:  
Thnht: Yêu cu tng quy mô vi vic bo đảm cht lượng và hiu quả đào to.  
Thứ hai: đào tạo cán bộ quản lý kinh tế chất lượng cao với sự hạn hẹp về tài  
chính và đội ngũ giáo viên có trình độ cao.  
Thứ ba: sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu ngành giáo dục thị hiếu tập  
trung vào một số ít ngành nghề của người học.  
Chính từ thực tế như vậy cho nên trong những năm gần đây, nhu cầu đào tạo  
cán bộ quản lý kinh tế ở nước ta tăng lên rất nhanh, nhiều trường đại học và cao  
đẳng kinh tế đã mở rộng quy mô đào tạo. Sự tăng nhanh về quy mô đào tạo ở các  
trường kinh tế đã góp phần từng bước khắc phục osự thiếu hụt về số lượng cán bộ  
quản lý kinh tế. tuy nhiên điều này lại đang làm xuất hiện mâu thuẫn trong việc bảo  
đảm chất lượng đào tạo do hạn chế về tài chính và năng lực nội sinh của các quan  
đào tạo trưởng thành từ trong thời kỳ nền kinh tế vận hành theo mô hình kế  
hoạch hoá tập trung. Trong quá trình đổi mới, một bộ phận khá lớn cán bộ quản lý  
kinh tế đã được đào tạo đào tạo lại, bồi dưỡng kiến thức về kinh tế thị trường.  
Tuy nhiên trước yêu cầu tiếp tục đổi mới hội nhập trong giai đoạn hiện nay, đội  
ngũ cán bộ nói chung và cán bộ quản lý kinh tế nói riêng xét về số lượng, chất  
lượng cơ cấu nhiều mặt chưa ngang tầm với sự nghiệp CNH-HĐH.  
10  
CHƯƠNG II:  
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ  
ĐÀO TẠO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ  
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.  
I. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ  
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY:  
Trong những năm đổi mới, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ đã được rèn  
luyện trưởng thành. Trong điều kiện biến động mạnh phức tạp của tình hình  
dân tộc, quốc tế, những thử thách gay go của đất nước trong những năm cuối thập  
kỷ 90, nhìn chung đội ngũ cán bộ bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng và kiên  
định con đường XHCN mà Đảng đã vạch ra.  
Đã chuyển biến mọi mặt về trình độ, năng lực, thông qua việc học tập,bồi  
dưỡng hoạt động thực tiễn, làm quen và thích ứng với cơ chế quản mới. Đặc  
biệt ở các thành phố lớn, lực lượng cán bộ có trình độ cao về chuyên môn, lý luận  
chính trị tăng đáng kể, ở các tỉnh miền núi lãnh đạo chủ chốt phần đông cán bộ  
đã có ý thức được tầm quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của  
địa phương.  
Những năm qua đội ngũ cán bộ sự ổn định tương đối về biên chế. Hầu hết  
các địa phương, với sự giúp đỡ của trung ương đã tiến hành thực hiện công việc đào  
tạo lại bồi dưỡng cán bộ có quy mô đáng kể.  
Bên cạnh những mặt mạnh ưu điểm cơ bản nêu trên, đội ngũ cán bộ quản lí  
kinh tế vĩ ở nước ta còn đang bộc lộ một số hạn chế sau:  
Thnht: Tình trng “va tha, va thiếu” đang din ra khá phbiến nht là cán  
bqun lý nhà nước các b, ban, ngành trung ương và địa phương. Tha cán bchưa  
được đào to vqun lý kinh tế thích ng vi kinh tế thtrường và thiếu cán bđủ  
phm cht và năng lc đáp ng được yêu cu qun lý kinh tế ca nn kinh tế đang  
chuyn đổi. Theo kết quả điu tra năm 1997 ca Vin Nghiên cu kinh tế và phát trin  
- Đại hc KTQD trong s200 cán bqun lý kinh tế thuc10 bvà cơ quan ngang bộ  
được hi có 60% ý kiến cho rng cán bqun lý kinh tế ca ta hin đang trong tình  
trng thiếu, 20% ý kiến cho rng đội ngũ này đang trong tình trng tha và 20% cho  
rng va thiếu va tha.  
Thứ hai: Một số lượng khá lớn cán bộ đang làm nhiệm vụ quản lý kinh tế chưa  
được đào tạo một cách cơ bản và có hệ thống về quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị  
trường. Kết quả điều tra chi tiết về đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ 10 bộ, cơ  
quan ngang bộ và 10 tỉnh thành trong cả nước cho thấy có 65% số cán bộ quản lý  
kinh tế ở cấp bộ được đào tạo trước năm 1989 trong đó khoảng 30% chưa được  
đào tạo lại, khoảng 60% số cán bộ quản lý kinh tế ở cấp bộ có trình độ luận sơ  
cấp chỉ gần 5% có trình độ luận cao cấp. 89% cán bộ quản lý kinh tế >45  
tuổi không biết sử dụng máy vi tính và chỉ có 9,5% biết tiếng Anh có trình độ trên  
11  
C. các sở, ban, ngành cấp tỉnh có 52,8% số cán bộ quản lý kinh tế được đào tạo từ  
trước năm 1989 và có một bộ phận khá lớn chưa qua đaò tạo, bồi dưỡng kiến thức  
kinh tế thị trường, chỉ có 54% số cán bộ quản lý kinh tế các sở, ban, ngành thuộc 10  
tỉnh, thành phố đã được đào tạo từ các trường kinh tế. Số cán bộ được đào tạo ở các  
lĩnh vực khác (khoa học kỹ thuật, khoa học cơ bản...) chiếm 46% và đang cần tiếp  
tục bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế.  
Thứ ba: Cơ cấu cán bộ quản lý kinh tế đang sự mất cân đối lớn xét cả về độ  
tuổi giới tính, lẫn sự phân bổ theo ngành nghề, theo vùng, giữa cấp chiến lược  
hoạch định chính sách và cấp trực tiếp quản lý kinh doanh các doanh nghiệp. Số  
liệu điều tra 10 bộ cho thấy gần 50% cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô có độ tuổi >  
45 tuổi, chỉ 1/5 số cán bộ dưới 35 tuổi, tuổi bình quân là 46 tuổi, cán bộ trẻ nhất  
(<35 tuổi) thuộc 2 ngành ngân hàng và tài chính: ngân hàng nhà nước có 43% và Bộ  
Tài chính có 44% cán bộ quản thuộc nhóm tuổi dưới 35. Ngược lại số cán  
bộ ở độ tuổi dưới 35 tuổi chỉ chiếm 5% ở Bộ Thương mại và 4% ở Bộ Công nghiệp.  
Bộ Công nghiệp Bộ Nông nghiệp -PTNT có tỷ lệ cán bộ >45 tuổi cao nhất. Tỷ lệ  
này ở Bộ Công nghiệp là 76% và Bộ Nông nghiệp-PTNT là 69%. Đến năm 2005 có  
khoảng 80% số cán bộ quản lý kinh tế vĩ hiện nay đến tuổi nghỉ hưu. Sự già hoá  
của đội đội ncán bộ quản lý kinh tế sẽ gây nên tình trạng hẫng hụt cán bộ quản lý  
kinh tế kế cận  
Ở nhiều tỉnh miền núi, cán bộ quản lý kinh tế người dân tộc thiểu số chiếm  
tỷ lệ rất thấp phần lớn chưa được qua đào tạo về quản lý kinh tế. ở Đắc lắc chỉ có  
1 trong 475 cán bộ quản ở cấp tỉnh huyện người dân tộc thiểu scó trình độ  
từ cao đẳng trở lên. Lào cai có tới 49% cán bộ người dân tộc chưa qua đào tạo  
về chuyên môn, nghiệp vụ.  
Cán bộ quản lý kinh tế vĩ hiện nay chủ yếu là nam, nữ chiếm bộ phận thiểu  
số. Tuy nhiên tuỳ theo chức năng nhiệm vụ cụ thể thì tỷ lệ nam nữ cũng cao thấp  
khác nhau: tỷ lệ nam bình quân chiếm trên 65%, nữ chỉ khoảng 34%. Tỷ lệ nam  
cao nhất ở Bộ Thương mại (81%) và tỷ lệ nữ cao đông nhất Ngân hàng Nhà  
nước (48%).  
Thứ tư: Công tác đào tạo cán bộ nói chung và cán bộ quản lý kinh tế nói riêng  
chưa gắn với quy hoạch cán bộ. Hơn nữa, việc bố trí sử dụng cán bộ chưa thật hợp  
lý và trong nhiều trường hợp còn nặng về cơ cấu, thiếu mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ,  
chưa giải pháp cụ thể để thực sự khuyến khích những cán bộ năng lực chưa  
mạnh dạn bố trí, sắp xếp lại hoặc đưa ra khỏi biên chế những cán bộ không còn đáp  
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ mới.  
II. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ  
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY:  
Hiện nay ở nước ta việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế trước hết tập  
trung vào cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế đội ngũ này vừa có vai trò quyết  
định trong việc xây dựng cơ chế vận hành mô hình kinh tế mới, vừa người nghiên  
12  
cứu, hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, sử dụng các chính sách và công cụ quản  
lý kinh tế để điều tiết quản lý các hoạt động kinh tế trên bình diện toàn bộ nền kinh  
tế quốc dân. Vậy để đáp ứng yêu cầu tiếp tục đổi mới hội nhập hiện nay đòi hỏi  
chúng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ quản tầm vĩ đủ về số lượng,  
mạnh về chất lượng và có cơ cấu hợp lý. Ngoài các tiêu chuẩn chung mà Đại hội  
Trung ương (Khoá 8) đã đề ra. Cán bộ quản lý kinh tế vĩ phải hiểu biết sâu sắc  
đường lối, quan điểm kinh tế của Đảng, kiến thức về kinh tế thị trường, khả  
năng đề xuất, hoạch định các cơ sở kinh tế sử dụng các công cụ quản lý kinh tế  
để quản lý, điều tiết các hoạt động của nền kinh tế quốc dân phát triển theo các mục  
tiêu Kinh tế - Xã hội Đảng đã vạch ra.  
Nhận thức rõ vai trò của cán bộ quản lý kinh tế như trên nên Đảng và Nhà  
nước ta đã đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế. Tuy  
nhiên cũng vẫn còn những hạn chế.  
1- CHÚNG TA ĐÃ XÂY DỰNG ĐƯỢC 1 HỆ THỐNG CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC VÀ  
TRÊN ĐẠI HỌC VỀ KINH TẾ TRÊN PHẠM VI CẢ NƯỚC VỚI SỐ LƯỢNG NGÀY CÀNG  
TĂNG:  
Cụ thể các trường công lập nước ta từ trường đại học tài chính tế toán thành  
phố Hồ Chí Minh sát nhập với trường ĐHKT thành phố để trở thành thành viên mới  
của đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Còn các trường khác vẫn giữ nguyên.  
Tuy nhiên quy mô đào tạo của từng trường đã được mở rộng ra rất nhiều so với  
trước, thông thường tăng khoảng 10 lần.  
Các khoa kinh tế của các trường Đại học kỹ thuật cũng sự mở rộng quy mô  
đào tạo, thường gia tăng từ 4-5 lần so với trước.  
Việc đào tạo cán bộ quản lý kinh tế dường như được tiến hành ở tất cả các  
trung tâm hoặc các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các tỉnh, thành phố trong  
cả nước. Tuy nhiên nét đặc trưng nhất của hệ thống các cơ sở đào tạo cán bộ quản lý  
kinh tế hiện nay là cùng với sự ra đời của nền kinh tế nhiều thành phần, các trường  
đại học dân lập mở ra khá nhiều, cho đến nay cả nước đã có trên 15 trường đại học  
dân lập được thành lập. Các trường này được tập trung 3 thành phố lớn là: Hà Nội,  
thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Điều đáng quan tâm là phần lớn các trường đại  
học dân lập đều đào tạo vkinh tế.  
Ngoài ra viện đại học mở nội, đại học mở bán công thành phố HCM cũng  
là 2 cơ sở đào tạo cán bộ quản lý quy mô nhỏ.  
Bên cạnh các trường đại học còn có nhiều trường Cao đẳng kỹ thuật, các  
ngành, các địa phương cũng tham gia vào việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh  
tế.  
Việc mở rộng một cách ồ ạt các cơ sở đào tạo kỹ thuật bậc đại học thuộc mọi  
thành phần mặt tốt tạo điều kiện cho nhiều người được tham gia học tập và  
cũng nhanh chóng tạo ra cho đất nước một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế đông đảo.  
13  
Tuy nhiên cũng mặt không tốt trong đó quan trọng nhất là khó bảo đảm được  
chất lượng của đội ngũ cán bộ đào tạo ra.  
2 - CƠ SỞ VẬT CHẤT KỸ THUẬT CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ:  
Ngày nay đã được nâng cấp và ngày càng được quan tâm. Các trường Đại học  
kinh tế ở nước ta (Chủ yếu là các trường quốc lập) ở phía Bắc được xây dựng cách  
đây trên 40 năm, ở phía Nam trên 20 năm. Trong những năm vừa qua nhất từ năm  
1991 trở lại đây nhờ sự quan tâm đầu tư của Nhà nước sự nỗ lực của từng trường,  
một số bộ phận của cơ sở vật chất các trường đã sự thay đổi vật chất và nâng cấp  
phục vụ ngày càng tốt hơn công tác giảng dạy của thày và học tập của sinh viên  
trong nhà trường.  
- Chỗ làm việc của các khoa, các bộ môn trực thuộc cũng như các phòng ban,  
các trung tâm đã được nâng cấp nhiều so với trước. Các cơ sở này đã được trang bị  
thêm máy vi tính, bàn ghế giường tủ, tủ đựng tài liệu và giá sách.  
- Giảng đường phục vụ học tập của Sinh viên cũng đã được sửa chữa nâng cấp,  
bàn ghế, bảng viết tốt hơn, ánh sáng đầy đủ và thoáng mát hơn. Tuy nhiên vẫn còn  
thiếu nhiều trường phải bố trí dạy học 3 ca (Sáng, chiều, tối)  
- Thư viện nhiều sách hơn, việc cho mượn sách cũng dề dàng hơn, thuận lợi.  
Chỗ đọc sạch sẽ thoáng mát hơn bước đầu thể đảm bảo cho sinh viên tìm kiếm và  
nghiên cứu học tập ngay tại thư viện. Nhưng với số lượng sinh viên không lớn vì  
đầu sách còn ít. Thực tế với số sách hiện của các thư viện bình quân mỗi sinh  
viên kinh tế mới khoảng 1,94 đầu sách và tạp chí. Theo thống của các trường  
hiện nay, chỗ ngồi đọc sách và tạp chí tính bình quân mỗi sinh viên mới chỉ đạt  
0,01.  
- Tại nhiều trường kinh tế, các trung tâm máy tính cũng đã được thành lập  
nhằm giúp sinh viên nhanh chóng tiếp cận với tin học, giúp cho giáo viên có điều  
kiện thuận lợi hơn trong nghiên cứu khoa học nhưng số lượng máy tính các trường  
đại học kinh tế còn quá ít. Tính bình quân khoảng 200 sinh viên và 4-5 giáo viên  
mới có 1 máy vi tính. Bởi vậy việc thực hành của sinh viên trên máy vi tính là rất  
hạn chế.cùng với hạn chế trong việc sử dụng máy vi tính thì phần lớn việc học ngoại  
ngữ ở các trường kinh tế học chay do thiếu các phương tiện luyện nghe, nói hiện  
đại vậy khả năng nghe và nói của sinh viên cũng bị hạn chế.  
- Ký túc xá sinh viên của các trường mặc đã được đầu nâng cấp nhiều lần  
song do xây dựng quá lâu, nhà cửa đã quá vậy ký túc xá xuống cấp rất nhanh  
chưa thoả mãn được nhu cầu về chỗ ở cho sinh viên. Theo báo cáo của các  
trường, hệ thống ký túc xá chỉ mới đáp ứng được 25-30% nhu cầu chỗ ở của sinh  
viên và điều kiện ăn ở của sinh viên hiện nay là hết sức chật chội, bình quân 2 m2/1  
sinh viên, trang bị của ký túc xá phần lớn rất sơ sài, giường tầng chủ yếu và  
giường sắt, tủ không ô, bàn học không ngăn...  
3 - THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CỦA CÁC TRƯỜNG ĐHKT HIỆN NAY:  
14  
Cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ giáo viên các trường ĐH nói  
chung, đại học kinh tế nói riêng, cũng không ngừng trưởng thành (Cả về số lượng,  
chất lượng).  
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (Tháng 12-1986), nền kinh tế nước ta đã  
từng bước chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường sự quản lý  
của Nhà nước theo định hướng XHCN. Phát triển nền kinh tế thị trường, đó điều  
rất mới mẻ. Đội ngũ giáo viên các trường ĐHKT tại thời điểm đó chủ yếu được  
đào tạo tại Liên xô, Trung quốc và các nước Đông Âu, ít am hiểu về kinh tế thị  
trường. vậy để thể đào tạo cho đất nước một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế  
hoạt động tốt trong nền kinh tế thị trường, đội ngũ giáo viên của các trường Đại học  
kinh tế đã thực hiện khá nhanh việc tự đào tạo lại mình. Thông qua nhiều hình thức  
phong phú, đa dạng như: Đi bồi dưỡng ngắn hạn ở các nước nền kinh tế thị  
trường phát triển, mời các chuyên gia, các giáo sư của các trường đại học nổi tiếng  
trên thế giới sang tổ chức bồi dưỡng kiến thức về kinh tế thị trường cho đội ngũ giáo  
viên, hợp tác với một số trường đại học của nước ngoài tổ chức các khoá đào tạo  
cho giáo viên của trường. Việc bồi dưỡng kiến thức kinh tế thị trường cho giáo viên  
còn được tiến hành thông qua các cuộc hội thảo, các cuộc tham quan, khảo sát thực  
tế ở nước ngoài...  
- Trong những năm qua đã có hàng vạn giáo viên của các trường được đi bồi  
dưỡng lại kiến thức. Chỉ tính riêng trường Đại học KTQD trong khoảng thời gian từ  
năm 1986 đến năm 1996 đã có 5.936 lượt giáo viên, cán bộ được bồi dưỡng đào  
tạo lại kiến thức về kinh tế thị trường.  
Cùng với việc bồi dưỡng kiến thức về kinh tế thị trường, đội ngũ giáo viên các  
trường Đại học kinh tế cũng được bồi dưỡng thêm về ngoại ngữ cũng như về máy vi  
tính. Nhiều giáo viên của các trường giờ đây đã thể giảng bài hoàn toàn bằng  
ngoại ngữ. Một số cũng đã đăng giảng dạy ở nước ngoài, đồng thời cũng không  
ít giáo viên đã sử dụng thành thạo máy vi tính theo biên soạn giáo trình, nghiên cứu  
khoa học.  
Chính vì vậy, trong những năm đổi mới vừa qua, đội ngũ giáo viên các trường  
Đại học kinh tế đã thực hiện khá tốt việc đào tạo cho đất nước một đội ngũ cán bộ  
quản lý kinh tế khá đông đảo thuộc mọi lĩnh vực của nền kinh tế, góp phần vào việc  
bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ cán bộ viên chức, đặc biệt đội ngũ cán bộ quản lý  
kinh tế thuộc các quan Trung ương, các tỉnh, thành phố trong cả nước.  
Ngoài ra đội ngũ giáo viên trong các trường Đại học kinh tế còn có nhiều đóng  
góp quan trọng vào việc xây dựng các chiến lược, các chủ trương, chính sách phát  
triển kinh tế hội của Đảng và Nhà nước ta.  
thể nói trong những năm đổi mới vừa qua đội ngũ giáo viên của các trường  
đại học kinh tế đã bước trưởng thành đáng kể cả về số lượng chất lượng. Tính  
đến tháng 10 năm 1996 đội ngũ Giáo viên của 6 trường đại học kinh tế công lập là  
1.691 người trong đó:  
15  
+ Nếu phân theo chức vụ khoa học có: 20 giáo (1,2%), 97 phó giáo sư  
(5,7%); 364 giảng viên chính (21,5%); 1.210 giảng viên (71,6%).  
+ Nếu phân theo trình độ đào tạo có: 15 tiến sĩ (0,9%); 314 PTS (18,6%); 232  
thạc sĩ (12,7%); cử nhân 1.130 (66,8%).  
Nếu tính đến năm 1999 thì con số thống đã tăng lên khá nhiều so với năm  
1996.  
Bên cạnh những mặt trưởng thành của đội ngũ Giáo viên của các trường đại  
học kinh tế trong những năm đổi mới, hiện tại đội ngũ này còn thiếu rất nhiều về số  
lượng. vậy tình trạng đội ngũ Giáo viên phải giảng 2-3 ca/ngày là phổ biến dẫn  
đến chất lượng giảng dạy giảm sút. Hơn nữa cơ cấu đội ngũ Giáo viên hiện tại  
không hợp lý. Tỷ lệ Giáo viên dưới 35 tuổi bằng sau đại học ít, phần lớn giáo sư,  
PTS, Tiến sĩ đều ở lứa tuổi 50 trở lên. Nếu không có chính sách bổ xung đào tạo kịp  
thời sẽ gây ra sự hẫng hụt về đội ngũ trong những năm sắp tới.  
Đó đội ngũ Giáo viên các trường quốc lập, còn các trường dân lập đại  
học mở, đội ngũ giáo viên hiện vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng.  
Việc giảng dạy ở các cơ sở này chủ yếu dựa vào việc đi thuê các thày của các  
trường công lập hoặc thuê các thày về hưu.  
4 - NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO:  
Về cơ cấu kiến thức nội dung đào tạo, để đảm bảo sự phù hợp với đòi hỏi  
của nền kinh tế thị trường, các cơ sở đào tạo cán bộ kinh tế đã đổi mới cơ cấu kiến  
thức, nội dung đào tạo. Các kiến thức của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã  
được thay thế bằng kiến thức của nền kinh tế thị trường sự quản của Nhà nước  
theo định hướng XHCN.  
Hầu hết các môn học đã được biên soạn thành giáo trình, hệ thống giáo trình  
này cũng đã được in và cung cấp đủ cho sinh viên. thể nói, mới từ nền kinh tế kế  
hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường một thời gian ngắn mà  
chúng ta đã xây dựng được một hệ thống giáo trình mới tương đối phù hợp một  
cố gắng rất lớn của đội ngũ Giáo viên của các trường đại học kinh tế.  
Tuy nhiên về cơ cấu nội dung chương trình đào tạo vẫn còn nhiều tồn tại  
sau đây:  
- Số môn học còn quá nhiều, trong 4 năm học sinh viên phải học từ 45-60 môn  
(bình quân mỗi năm 15 môn). Đây một điều chưa thật hợp bởi lẽ mỗi môn học  
có vài học trình, người dạy cũng khó có thể trình bày sâu sắc được những vấn đề gì  
lớn về mặt khoa học.  
- Sự trùng lặp giữa các môn học khá lớn do mở ra nhiều chuyên ngành đào tạo  
tương đối cụ thể đưa ra quá nhiều môn học thế khó có thể tránh khỏi sự trùng  
lặp.  
Vậy trong tương lai cần phải sự nghiên cứu để xây dựng cho được cơ cấu  
kiến thức hợp lý, các ngành và chuyên ngành đào tạo hợp để có giáo trình tốt  
cũng phải tập trung đội ngũ giáo viên giỏi cho từng chuyên ngành, đầu tư thoả đáng  
16  
để họ viết, mặt khác cũng cần phải một hội đồng chuyên môn đa ngành, xem xét,  
cắt bỏ những phần trùng lặp của giáo trình, chương trình đào tạo.  
- Trừ một số giáo trình đã từ trước, (những giáo trình toán, triết, kinh tế  
chính trị học .v.v). Còn phần lớn các môn học mới giáo trình là được dịch từ giáo  
trình của các nước nền kinh tế thị trường phát triển, sửa chữa bổ xung. Vì vậy  
tính Việt Nam còn rất hạn chế.  
- Nội dung và chương trình giảng dạy của ta còn quá nặng nề về giảng lý  
thuyết, việc rèn luyện khả năng thực hành còn quá ít và yếu, nhất việc thực hành  
về các kỹ năng phân tích đánh giá các hiện tượng kinh tế, khả năng về giao tiếp với  
bên ngoài về sử dụng các công cụ phương tiện hiện đại trong quản lý kinh tế .v.v.  
- Việc dành thời gian cho sinh viên nghiên cứu khoa học, việc tổ chức để cho  
thày hướng dẫn sinh viên làm quen cũng như tiếp cận với các hoạt động nghiên cứu  
khoa học còn quá ít.  
5 - CÁC HÌNH THỨC ĐÀO TẠO:  
Trong thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, việc đào tạo của các  
trường đại học kinh tế được tiến hành dưới 4 hình thức: Dài hạn tập trung (Chính  
quy); tại chức, chuyên tu và bồi dưỡng. Tuy nhiên hình thức chuyên tu chỉ áp dụng  
trong một số năm đầu khi chúng ta còn quá thiếu cán bộ quản lý kinh tế.  
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường sự quản của Nhà nước theo  
định hướng XHCN do nhu cầu cán bộ quản lý kinh tế tăng nhanh nên các trường đại  
học kinh tế đã áp dụng nhiều hình thức đào tạo linh hoạt:  
5.1 Đào tạo cán bộ quản lý kinh tế cấp cao:  
Đây là hình thức đào tạo vô cùng quan trọng, đối tượng được đào tạo những  
cán bộ nguồn năng lực trình độ, khả năng quản lý, lãnh đạo, bản lĩnh chính trị.  
Tham gia giảng dạy đội ngũ giảng viên có trình độ, trung thành với Đảng, Nhà  
nước. Hình thức này được đào tạo tại Học viện chính trị quốc gia, Học viện hành  
chính quốc gia.  
5.2 Đào tạo chính quy tập trung:  
Đây là hình thức đào tạo cử nhân kinh tế chủ yếu, thông qua kỳ thi quốc gia để  
tuyển chọn những người đủ tiêu chuẩn vào học 4 năm theo hình thức tập trung tại  
trường. Đây là hình thức đào tạo tốt nhất, chất lượng hiện nay. Bởi lẽ sinh viên  
được học tập rèn luyện trong môi trường tốt.  
Đào tạo tập trung cung cấp cho xã hội những cử nhân kinh tế giỏi vè chuyên  
môn, có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực nghiên cứu, có trình độ ngoại ngsử  
dụng các công cụ, các phương tiện hiện đại phục vụ cho việc nghiên cứu, quản lý.  
Những cán bộ quản lý kinh tế có tài năng thường được đào tạo ở hình thức này.  
5.3 Hình thức đào tạo cấp văn bằng đại học II:  
17  
Hình thức này giành cho những người đã tốt nghiệp 1 bằng đại học do nhu cầu  
của công việc họ cần thiết phải chuyển đổi ngành. Hình thức này thời gian học tập  
thể kéo dài một cách linh hoạt từ 20 đến 30 tháng. Sau khi tốt nghiệp họ được  
cấp bằng cử nhân kinh tế theo chuyên ngành, chương trình đào tạo được tuân theo  
hệ chuẩn, bảo lưu những phần học đã tích luỹ theo chương trình của Bộ  
GD&ĐT.  
Hình thức này đang được hội đánh giá cao. Tuy nhiên do thời gian đào tạo  
là ngoài giờ (Buổi tối) nên người học thường mệt mỏi sau một ngày làm việc căng  
thẳng ở cơ quan. Vì vậy ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Mặt khác hình thức này  
đòi hỏi người học phải tự học 50% và với phương pháp học tập hiệu quả. Nhưng  
vì các điều kiện khác nhằm đảm bảo dồng bộ trong đào tạo chưa thoả đáng nên chất  
lượng đào tạo còn bị hạn chế phải tìm cách khắc phục.  
5.4 Đào tạo tại chức:  
Do sự phát triển của nền kinh tế và yêu cầu của hội cần thiết phải nâng cáo  
trình độ cho những người đang làm việc. Đây là hình thức nâng cao kỹ năng và trình  
độ có liên quan đến nghề nghiệp của người đi học phải chuyển đổi ngành để  
kiếm việc làm mới. Hiện nay bộ phận không nhỏ những người chưa việc làm  
cũng theo học hình thức này.  
Đào tạo tại chức dành cho những người thuộc mọi thành phần kinh tế, học ở  
mọi phương thức khác nhau không phải học tập trung liên tục tại trường đại học tại  
chức một bộ phận của giáo dục thường xuyên, người học thể vừa học vừa làm:  
Học tập và tích luỹ kiến thức dần dần với các phương thức đào tạo linh hoạt, đa  
dạng trong khoảng thời gian và không gian thích hợp mềm dẻo để đạt được một  
mục tiêu nội dung và chương trình quy định. Do đó đào tạo tại chức hiện nay có  
nhiều hình thức, mỗi hình thức đều những ưu nhược điểm nhất định, tuy nhiên do  
nhiều yếu tố tác động, giáo dục đại học tại chức hiện nay đang nhiều bất cập.  
5.5 Hình thức đào tạo từ xa:  
Đây là hình thức đào tạo thích hợp trong điều kiện kinh tế hội đã phát triển,  
hệ thống các tài liệu, tư liệu thông tin liên lạc, phát thanh truyền hình phổ biến trong  
cả nước. Hình thức đào tạo này người học không cần phải mặt thường xuyên hay  
định kỳ tại trường. Nhờ có hình thức đào tạo này mà những người ở miền xa xôi,  
miền núi, hải đảo nếu muốn học cũng thể học được. Hình thức này hiện nay mới  
được thực hiện ở một vài trường với phạm vi nhỏ hệ thống thông tin liên lạc của  
ta còn chưa đầy đủ nhiều người chưa lĩnh hội được phương pháp này nên còn  
ngần ngại.  
5.6 Hình thức đào tạo theo chứng chỉ:  
Hiện nay hình thức đào tạo theo chứng chỉ là hình thức được đào tạo thường  
xuyên, người học thể tích luỹ từng bộ phận kiến thức theo đơn vị học trình và  
học phần một cách linh hoạt. Nhờ áp dụng phương thức đào tạo này nên chỉ trong  
một thời gian tương đối ngắn, các trường đại học kinh tế đã đào tạo được cho đất  
nước một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế khá đông đảo. Đội ngũ này cũng đã có  
những đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp phát triển của nền kinh tế nước nhà.  
18  
6 - TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO:  
Các trường đại học kinh tế hiện nay chủ yếu đào tạo các loại bằng cấp: Cử  
nhân kinh tế quản trị kinh doanh, thạc sĩ kinh tế quản trị kinh doanh, tiến sĩ  
Khoa học kỹ thuật quản trị kinh doanh.  
Như vậy trong những năm đổi mới, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước,  
sự nghiệp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế của nước ta có sự phát triển đáng mừng  
nhất là trong những năm gần đây.  
a - Chúng ta đã xây dng được mt hthng các cơ sở đào to đại hc và trên đại  
hc vkinh tế trên phm vi cnước vi slượng ngày càng tăng, quy mô ngày càng ln,  
cơ svt cht kthut ngày càng được tăng cường.  
b - Đã đào tạo được một đội ngũ Giáo viên đông đảo về số lượng, chất  
lượng tương đối tốt, bước đầu đáp ứng được nhu cầu đào tạo cán bộ quản lý kinh tế  
cho đất nước.  
c - Đã từng bước xây dựng được nội dung, chương trình đào tạo phù hợp với  
đối tượng cần đào tạo, phù hợp với nền kinh tế thị trường sự quản của Nhà  
nước theo định hướng XHCN.  
d - Đã đào tạo cho đất nước một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế (Cả vĩ mô và vi  
mô) tương đối đông đảo, với chất lượng tương đối khá.  
Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đáng khích lệ đó, sự nghiệp đào tạo cán  
bộ quản lý kinh tế của chúng ta cũng còn nhiều khả năng hạn chế lớn:  
- Hệ thống các cơ sở đào tạo sử dụng cán bộ quản lý kinh tế phát triển thiếu  
quy hoạch bởi vậy quy mô của các trường chưa ngang tầm với các nước trong khu  
vực.  
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của các trường vừa thiếu, vừa lạc hậu, chưa đạt tiêu  
chuẩn của một trường đại học hiện đại.  
- Đội ngũ Giáo viên còn thiếu về số lượng, cơ cấu không hợp lý và chất lượng  
cũng còn hạn chế.  
- Nội dung chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo vẫn chưa thật phù hợp,  
chưa thật khoa học hiện đại Việt Nam.  
Muốn giải quyết những tồn tại trên đòi hỏi phải sự đầu tư lớn đồng bộ  
của Đảng và Nhà nước cũng như nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của tất cả các  
trường.  
19  
CHƯƠNG III  
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ  
QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ Ở VIỆT NAM:  
Nghquyết hi nghTrung Ương ln th3 (Khoá VIII) đã chrõ: “Phi xut phát  
tnhim vchính tr, nhim vtchc, đánh giá thc trng đội ngũ cán bqun lý hin  
có, dkiến nhu cu và khnăng phát trin ca đội ngũ cán b, công chc để chủ động có  
phương hướng đào to, bi dưỡng đặc bit chú trng đào to được ngun cán bdi dào,  
đủ tiêu chun để kp thi đáp ng yêu cu...”  
I - CĂN CỨ ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐÀO TẠO VÀ NÂNG  
CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ:  
Để được căn cứ phát triển đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ  
quản lý kinh tế vĩ trước tiên ta phải xem xét đến mục tiêu chiến lược trong việc  
đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô và những quan điểm cơ bản trong việc  
đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô.  
1 - MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC TRONG VIỆC ĐÀO TẠO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH  
TẾ VĨ MÔ:  
- Mục tiêu chung là tạo ra một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ đủ về số  
lượng và có chất lượng cao, có khả năng tiếp thu những kiến thức quản lý kinh tế  
mới nhất của thế giới ứng dụng vào Việt Nam cũng như giải quyết được một cách  
hiệu quả những vấn đề luận thực tiễn do sự phát triển của nền kinh tế Việt  
Nam đặt ra.  
- Tích cực đào tạo, bồi dưỡng trong hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ  
quản lý kinh tế nhất đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện có. Những người đứng đầu của  
hệ thống chính trị các cấp, nhằm bảo đảm sự chuyển biến liên tục kế tục vững  
vàng sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước giữa các thế hệ trong những năm đầu  
của thế kXXI.  
- Xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế của hệ thống chính trị các cấp  
đặc biệt đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý kinh tế vận động quần chúng nhân  
dân thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế. cơ cấu đồng bộ, bản lĩnh chính trị  
vững vàng, có kiến thức năng lực lãnh đạo, quản lý kinh tế vận động quần  
chúng thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, hội công bằng, văn minh, vững  
bước đi lên CNXH.  
- Xây dựng thực hiện đồng bộ các chính sách và biện pháp để khuyến khích  
các cán bộ quản lý kinh tế làm việc năng xuất, chất lượng, hiệu quả, ngăn chặn đẩy  
lùi và hạn chế tiêu cực trong đội ngũ cán bộ hệ thống chính trị các cấp. Trước hết là  
cán bộ chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng các cấp, giữ  
vững kỷ cương kỷ luật không để lọt những phần tử cơ hội thiếu trung thực.  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
docx 27 trang yennguyen 01/04/2022 4260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề án Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt nam trong điều kiện hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxde_an_xay_dung_doi_ngu_can_bo_quan_ly_kinh_te_vi_mo_o_viet_n.docx