Tiểu luận Cơ sở khoa học của việc sử dụng urê bổ sung trong thức ăn cho động vật nhai lại

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN  
TIỂU LUẬN:  
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC SỬ DỤNG  
URÊ BỔ SUNG TRONG THỨC ĂN CHO  
ĐỘNG VẬT NHAI LẠI  
Người thực hiện: Phạm Hữu Trí  
Buôn Ma Thuột, 2010  
LỜI CAM ĐOAN  
Đây Tiểu luận của tôi, tôi cam đoan rằng nội dung trình bày trong Tiểu  
luận những kiến thức mà tôi đã học từ Đại học, Cao học gần đây và tài liệu  
tham khảo. Chắc chắn nội dung của Tiểu luận chưa được phong phú, đầy đủ và  
còn nhiều thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý  
Thầy, Cô, bạn đồng nghiệp độc giả đbài tiểu luận được hoàn chỉnh hơn.  
Tôi xin chân thành cảm ơn!  
Học viên thực hiện  
Phạm Hữu Trí  
i
MỤC LỤC  
ii  
 
iii  
CHƯƠNG I  
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC SỬ DỤNG URÊ BỔ SUNG TRONG  
THỨC ĂN CHO ĐỘNG VẬT NHAI LẠI  
I. ĐẶC ĐIỂM TIÊU HÓA CỦA DẠ DÀY LOÀI NHAI LẠI  
Đường tiêu hóa của  
gia súc nhai lại được đặc  
trưng bởi hệ dạ dày kép gồm  
4 túi. Trong đó có ba túi  
trước (dạ cỏ, dạ tổ ong và dạ  
lá sách) được gọi chung là  
dạ dày trước, không có  
tuyến tiêu hóa riêng. Túi thứ  
4 gọi dạ múi khế, tương tự như dạ dày của loài động vật dạ dày đơn, hệ  
thống tiêu hóa phát triển mạnh. Đối với gia súc non thời kỳ sữa, dạ cỏ dạ  
tổ ong kém phát triển, còn sữa sau khi xuống qua thực quản được dẫn trực tiếp  
xuống dạ lá sách và dạ múi khế thông qua rãnh thực quản. Rãnh thực quản gồm  
đáy và hai mép. Hai mép này được khép lại sẽ tạo ra một cái ống dẫn thức ăn  
lỏng. Khi bê bắt đầu ăn thức ăn cứng thì dạ cỏ dạ tổ ong bắt đầu phát triển  
nhanh, đến khi trưởng thành chiếm khoảng 85% tổng dung tích dạ dày nói  
chung. Trong điều kiện bình thường ở gia súc trưởng thành, rãnh thực quản  
không hoạt động nên cả thức ăn nước đều đi thẳng vào dạ cỏ dạ tổ ong.  
1.1. Dạ cỏ  
Là túi lớn nhất, chiếm hầu hết nửa trái của xoang bụng, từ cơ hoành đến  
xương chậu. Dạ cỏ chiếm 85 – 90% dung tích dạ dày, 75% dung tích đường tiêu  
hóa. Dạ cỏ có tác dụng dự trữ, nhào trộn chuyển hóa thức ăn. Dạ cỏ không có  
tuyến tiêu hóa, niêm mạc nhiều núm hình gai. Sự tiêu hóa thức ăn trong đó là  
nhờ hệ vi sinh vật cộng sinh. Dạ cỏ có môi trường thuận lợi cho hệ vi sinh vật  
1
   
lên men yếm khí. Nhiệt độ tương đối ổn định trong khoảng 38 – 420C, pH t5,5  
– 7,4. Hơn na dinh dưỡng được bsung đều đặn tthc ăn, còn thức ăn không  
lên men cùng các chất dinh dưỡng hòa tan và sinh khối vi sinh vật được thường  
xuyên chuyến xuống phần dưới của đường tiêu hóa.  
tới khoảng 50 – 80% các chất dinh dưỡng thức ăn được lên men ở dạ  
cỏ. Sản phẩm lên men chính là các axit béo bay hơi (ABBH), sinh khối vi sinh  
vật và các khí thể (metan và cácbônic). Phần lớn ABBH được hấp thu qua vách  
dạ cỏ trở thành nguồn năng lượng chính cho gia súc nhai lại. Các khí thể được  
thải ra ngoài qua phản xạ ợ hơi. Trong dạ cỏ còn có sự tống hợp các vitamin  
nhóm B và vitamin K. Sinh khối vi sinh vật và các thành phần không lên men  
được chuyển xuống phần dưới của đường tiêu hóa.  
1.2. Dạ tổ ong  
Là túi nối liền với dạ cỏ, niêm mạc cấu tạo giống như tổ ong. Dạ tổ  
ong có chức năng chính là đẩy các thức ăn rắn và các thức ăn chưa được nghiền  
nhỏ trở lại dạ cỏ, đồng thời đẩy các thức ăn dạng nước vào dạ lá sách. Dạ tổ ong  
cũng giúp cho việc đẩy các miếng thức ăn lên miệng để nhai lại. Slên men và  
hấp thu các chất dinh dưỡng trong dạ tổ ong tương tự như ở dạ cỏ.  
1.3. Dạ lá sách  
Là túi thứ ba, niêm mạc được cấu tạo thành nhiều nếp gấp (tương tự các  
tờ giấy của quyển sách). Dạ lá sách có nhiệm vụ chính là nghiền ép các tiểu  
phần thức ăn, hấp thu nước, muối khóang và các axit béo bay hơi (ABBH) trong  
dưỡng chất đi qua.  
1.4. Dạ múi khế  
dạ dày tuyến gồm có thân vị hạ vị. Các dịch tuyến múi khế được  
tiết liên tục dưỡng chất từ dạ dày trước thường xuyên được chuyển xuống. Dạ  
múi khế chức năng tiêu hóa men tương tự như dạ dày đơn nhờ có HC1,  
pepsin, kimozin và lipaza.  
2
     
Tuyến nước bọt: Nước bọt ở trâu bò được phân tiết nuốt xuống dạ cỏ  
tương đối liên tục. Nước bọt kiềm tính nên có tác dụng trung hòa các sản  
phẩm axit sinh ra trong dạ cỏ. Nó còn có tác dụng quan trọng trong việc thấm  
ướt thức ăn, giúp cho quá trình nuốt và nhai lại được dễ dàng. Nước bọt còn  
cung cấp cho môi trường dạ cỏ các chất điện giải như Na+, K+, Ca++, Mg++. Đặc  
biệt trong nước bọt còn có urê và phốt pho, có tác dụng điều hòa dinh dưỡng N  
và P cho nhu cầu của vi sinh vật dạ cỏ, đặc biệt là khi các nguyên tố này bị thiếu  
trong khẩu phần.  
Sự phân tiết nước bọt chịu tác động bởi bản chất vật của thức ăn, hàm  
lượng vật chất khô trong khẩu phần, dung tích đường tiêu hóa và trạng thái tâm  
sinh lý của con vật. Trâu bò ăn nhiều thức ăn xơ thô sẽ phân tiết nhiều nước bọt.  
Ngược lại trâu bò ăn nhiều thức ăn tinh, thức ăn nghiền quá nhỏ sẽ giảm tiết  
nước bọt nên tác dụng đệm đối với dịch dạ cỏ sẽ kém và kết quả là tiêu hóa thức  
ăn xơ sẽ giảm xuống.  
1.5. Ruột  
Quá trình tiêu hóa và hấp thu ở ruột non của gia súc nhai lại cũng diễn ra  
tương tự như ở gia súc dạ dày đơn nhờ các men tiêu hóa của dịch ruột, dịch tuy  
sự tham gia của dịch mật.  
Trong ruột già có sự lên men vi sinh vật lần thhai. Sự tiêu hóa ở ruột già  
có ý nghĩa đối với các thành phần xơ chưa được phân giải hết ở dạ cỏ. Các  
ABBH sinh ra trong ruột già được hấp thu và sử dụng, nhưng protein vi sinh vật  
thì bị thải ra ngoài qua phân mà không được tiêu hóa sau đó như ở phần trên.  
Snhai li: thc ăn sau khi ăn được nut xung dcvà lên men ở đó.  
Phn thc ăn chưa được nhai knm trong dcvà dtong thnh thong li  
được lên xoang ming vi nhng miếng không ln và được nhai kli ming.  
Khi thc ăn đã được nhai li kvà thm nước bt li được nut trli dc.  
3
 
Sự nhai lại được diễn ra 5 – 6 lần trong ngày, mỗi lần kéo dài khoảng 50  
phút. Thời gian nhai lại phụ thuộc vào bản chất vật của thức ăn, trạng thái  
sinh lý của con vật, cơ cấu khẩu phần, nhiệt độ môi trường, v.v... Thức ăn thô  
trong khẩu phần càng ít thì thời gian nhai lại càng ngắn. Trong điều kiện yên  
tĩnh gia súc sẽ bắt đầu nhai lại (sau khi ăn) nhanh hơn. Cường độ nhai lại mạnh  
nhất vào buổi sáng và buổi chiều. Hiện tượng nhai lại bắt đầu xuất hiện khi bê  
được cho ăn thức ăn thô.  
II. KHU HỆ VI SINH VẬT DẠ CỎ  
Số lượng loài hoặc giống vi sinh vật trong dạ cỏ thường xuyên thay đổi,  
phụ thuộc vào thành phần thức ăn sự tiêu hóa trong dạ cỏ lại dựa vào sự  
hoạt động phân giải của các loài vi sinh vật này. Hệ vi sinh vật dạ cỏ rất phức  
tạp phụ thuộc nhiều vào khẩu phần. Hệ vi sinh vật dạ cỏ gồm có 3 nhóm  
chính: Vi khuẩn (Bacteria), động vật nguyên sinh (Protozoa) và nấm (Fungi).  
2.1. Vi khuẩn (Bacteria)  
Vi khuẩn xuất hiện trong dạ cỏ loài nhai lại trong lứa tuổi còn non, mặc  
dù chúng được nuôi cách biệt hoặc cùng với mẹ chúng. Thông thường vi khuẩn  
chiếm số lượng lớn nhất trong vi sinh vật dạ cỏ và là tác nhân chính trong quá  
trình tiêu hóa xơ.  
Tổng số vi khuẩn trong dạ cỏ thường là 109 – 1011 tế bào/g chất chứa dạ  
cỏ. Trong dạ cỏ vi khuẩn ở thể tự do chiếm khoảng 30%, số còn lại bám vào các  
mẫu thức ăn, trú ngụ ở các nếp gấp biểu mô và bám vào protozoa.  
Trong dạ cỏ khoảng 60 loài vi khuẩn đã được xác định. Sự phân loại vi  
khuẩn dạ cthể được tiến hành dựa vào cơ chất mà vi khuẩn sử dụng hay sản  
phẩm lên men cuối cùng của chúng. Sau đây một số nhóm vi khuẩn dạ cỏ  
chính:  
- Vi khuẩn phân giải xenluloza. Vi khuẩn phân giải xenluloza có số lượng  
rất lớn trong dạ cỏ của những gia súc sử dụng khẩu phần giàu xenluloza. Những  
4
   
loài vi khuẩn phân giải xenluloza quan trọng nhất là Bacteroides succinogenes,  
Butyrivibrio fibrisolvens, Ruminoccocus flavefaciens, Ruminococcus albus,  
Cillobacterium cellulosolvens.  
- Vi khuẩn phân giải hemixenluloza. Hemixenluloza khác xenluloza là  
chứa cả đường pentoza và hexoza và cũng thường chứa axit uronic. Những vi  
khuẩn khả năng thủy phân xenluloza thì cũng khả năng sử dụng  
hemixenluloza. Tuy nhiên, không phải tất cả các loài sử dụng được  
hemixenluloza đều khả năng thủy phân xenluloza. Một số loài sử dụng  
hemixenluloza là Butyrivibrio fibrisolvens, Lachnospira multiparus và  
Bacteroides ruminicola. Các loài vi khuẩn phân giải hemixenluloza cũng như vi  
khuẩn phân giải xenluloza đều bị ức chế bởi pH thấp.  
- Vi khuẩn phân giải tinh bột. Trong dinh dưỡng carbohydrat của loài nhai  
lại, tinh bột đứng vị trí thứ hai sau xenluloza. Phần lớn tinh bột theo thức ăn vào  
dạ cỏ, được phân giải nhờ sự hoạt động của vi sinh vật. Tinh bột được phân giải  
bởi nhiều loài vi khuẩn dạ cỏ, trong đó những vi khuẩn phân giải xenluloza.  
Những loài vi khuẩn phân giải tinh bột quan trọng là Bacteroides amylophilus,  
Succinimonas  
amylolytica,  
Butyrivibrio  
Fibrisolbvens,  
Bacteroides  
ruminantium, Selenomonas ruminantium và Steptococcus bovis.  
- Vi khuẩn phân giải đường. Hầu hết các vi khuẩn sử dụng được các loại  
polysaccharid nói trên thì cũng sử dụng được đường disaccharid và đường  
monosaccharid. Celobioza cũng thể nguồn năng lượng cung cấp cho nhóm  
vi khuẩn này vì chúng có men bêta – glucosidaza có thế thủy phân cellobioza.  
Các vi khuẩn thuộc loài Lachnospira multiparus, Selenomonas ruminantium...  
đều khả năng sử dụng tốt hydratcacbon hòa tan.  
- Vi khuẩn sử dụng các axit hữu cơ. Hầu hết các vi khuẩn đều khả năng  
sử dụng axit lactic mặc lượng axit này trong dạ cỏ thường không đáng kể trừ  
trong những trường hợp đặc biệt. Một số thể sử dụng axit succinic, malic,  
5
fumaric, formic hay acetic. Những loài sử dụng axit lactic là Veillonella  
gazogenes, Veillonella alacalescens, Peptostreptococcus elsdenii, Propioni  
bacterium và Selenomonas lactilytica.  
- Vi khuẩn phân giải protein. Trong số những loài vi khuẩn phân giải  
protein và sinh amoniac thì Peptostreptococus và Clostridium có khả năng lớn  
nhất. Sự phân giải protein và axit amin để sản sinh ra amoniac trong dạ cỏ có ý  
nghĩa quan trọng đặc biệt cả về phương diện tiết kiệm nitơ cũng như nguy cơ dư  
thừa amoniac. Amoniac cần cho các loài vi khuẩn dạ cỏ để tổng hợp nên sinh  
khối protein của bản thân chúng. Đồng thời một số vi khuẩn đòi hỏi hay được  
kích thích bởi axit amin, peptit và isoaxit có nguồn gốc từ valine, leucine và  
isoleucine. Như vậy cần phải một lượng protein được phân giải trong dạ cỏ  
đế đáp ứng nhu cầu này của vi sinh vật dạ cỏ.  
- Vi khuẩn tạo mêtan. Nhóm vi khuẩn này rất khó nuôi cấy trong ống  
nghiệm, cho nên những thông tin về những vi sinh vật này còn hạn chế. Các loài  
vi khuẩn của nhóm này là Methano baccterium, Methano ruminantium và  
Methano forminicum.  
- Vi khuẩn tổng hợp vitamin. Nhiều loài vi khuẩn dạ cỏ khả năng tổng  
hợp các vitamin nhóm B và vitamin K.  
2.2. Động vật nguyên sinh (Protozoa)  
Protozoa xuất hiện trong dạ cỏ khi gia súc bắt đầu ăn thức ăn thực vật thô.  
Sau khi đẻ và trong thời gian bú sữa dạ dày trước không có protozoa. Protozoa  
không thích ứng với môi trường bên ngoài V à bị chết nhanh. Trong dạ cỏ  
protozoa có số lượng khoảng 105 – 106 tế bào/g chất chứa dạ cỏ. khoảng 120  
loài protozoa trong dạ cỏ. Mỗi loài gia súc có số loài protozoa khác nhau.  
Protozoa trong dạ cỏ thuộc lớp Ciliata có hai lớp phụ là Entodiniomrphidia và  
Holotrica. Phần lớn động vật nguyên sinh dạ cỏ thuộc nhóm Holotrica có đặc  
6
 
điểm ở đường xoắn gần miệng có tiêm mao, còn tất cả chỗ còn lại của cơ thể  
rất ít tiêm mao.  
Protozoa có một số tác dụng chính như sau:  
- Tiêu hóa tinh bột đường. Tuy có một vài loại protozoa có khả năng  
phân giải xenluloza nhưng cơ chất chính vẫn đường và tinh bột. Vì thế mà khi  
gia súc ăn khẩu phần nhiều bột, đường thì số lượng protozoa tăng lên.  
- Xé rách màng tế bào thực vật. Tác dụng này có được thông qua tác động  
cơ học và làm tăng diện tích tiếp xúc của thức ăn. Do đó thức ăn dễ dàng  
chịu tác động của vi khuẩn.  
- Tích luỹ polysaccarit. Protozoa có khả năng nuốt tinh bột ngay sau khi  
ăn dự trữ dưới dạng amylopectin. Polysaccarit này có thể được phân giải về  
sau hoặc không bị lên men ở dạ cỏ được phân giải thành đường đơn được  
hấp thu ở ruột. Điều này không những quan trọng đối với protozoa mà còn có ý  
nghĩa dinh dưỡng cho gia súc nhai lại nhờ hiệu ứng đệm chống phân giải đường  
quá nhanh làm giảm pH đột ngột, đồng thời cung cấp năng lượng từ từ hơn cho  
nhu cầu của bản thân vi sinh vật dạ cỏ trong những thời gian xa bữa ăn.  
- Bảo tồn mạch nối đôi của các axit béo không no. Các axit béo không no  
mạch dài quan trọng đối với gia súc (linoleic, linolenic) được protozoa nuốt và  
đưa xuống phần sau của đường tiêu hóa để cung cấp trực tiếp cho vật chủ, nếu  
không các axit béo này sẽ bị làm no hóa bởi vi khuẩn.  
Tuy nhiên gần đây nhiều ý kiến cho rằng protozoa trong dạ cỏ một số  
tác hại nhất định:  
- Protozoa không có khả năng sử dụng NH3 như vi khuẩn. Nguồn nitơ đáp  
ứng nhu cầu của chúng là những mảnh protein thức ăn và vi khuẩn. Nhiều  
nghiên cứu cho thấy protozoa không thể xây dựng protein bản thân từ các amit  
được. Khi mật độ protozoa trong dạ cỏ cao thì một tỷ lệ lớn vi khuẩn bị protozoa  
thực bào. Mỗi protozoa có thể thực bào 600 – 700 vi khuẩn trong một giờ ở mật  
7
độ vi khuẩn 109/ml dịch dạ cỏ. Do có hiện tượng này mà protozoa đã làm giảm  
hiệu quả sử dụng protein nói chung. Protozoa cũng góp phần làm tăng nồng độ  
amoniac trong dạ cỏ do sự phân giải protein của chúng.  
- Protozoa không tổng hợp được vitamin mà sử dụng vitamin từ thức ăn  
hay do vi khuẩn tạo nên nên làm giảm rất nhiều vitamin cho vật chủ.  
2.3. Nấm (Fungi)  
Nấm trong dạ cỏ thuộc loại yếm khí. Nấm là vi sinh vật đầu tiên xâm  
nhập và tiêu hóa thành phần cấu trúc thực vật bắt đầu từ bên trong. Những loài  
nấm được phân lập từ dạ cỏ cừu gồm: Neocallimastix frontalis, Piramonas  
communis và Sphaeromonas communis.  
Chức năng của nấm trong dạ cỏ là:  
- Mọc chồi phá vỡ cấu trúc thành tế bào thực vật, làm giảm độ bền chặt  
của cấu trúc này, góp phần làm tăng sự phá vỡ các mảnh thức ăn trong quá trình  
nhai lại. Sự phá vnày tạo điều kiện cho bacteria và men của chúng bám vào  
cấu trúc tế bào và tiếp tục quá trình phân giải xenluloza.  
- Mặt khác, nấm cũng tiết ra các loại men tiêu hóa xơ. Phức hợp men tiêu  
hóa xơ của nấm dễ hoà tan hơn so với men của vi khuẩn. Chính vì thế nấm có  
khả năng tấn công các tiểu phần thức ăn cứng hơn và lên men chúng với tốc độ  
nhanh hơn so với vi khuẩn.  
Như vậy sự mặt của nấm giúp làm tăng tốc độ tiêu hóa xơ. Điều này  
đặc biệt có ý nghĩa đối với việc tiêu hóa thức ăn xơ thô bị lignin hóa.  
2.4. Tác động tương hỗ của vi sinh vật trong dạ cỏ  
- Mối quan hệ hợp tác: Vi sinh vật dạ cỏ, cả ở thức ăn ở biểu dạ cỏ,  
kết hợp với nhau trong quá trình tiêu hóa thức ăn, loài này phát triển trên sản  
phấẩ của loài kia. Sự phối hợp này có tác dụng giải phóng sản phẩm phân giải  
cuối cùng của một loài nào đó, đồng thời tái sử dụng những yếu tố cần thiết cho  
8
   
loài sau. Ví dụ: Vi khuẩn phân giải protein cung cấp amoniac, axit amin và  
isoaxit cho vi khuẩn phân giải xơ. Quá trình lên men dạ cỏ là liên tục và bao  
gồm nhiều loài tham gia.  
Trong điều kiện bình thường giữa vi khuẩn và protozoa cũng sự cộng  
sinh có lợi, đặc biệt là trong tiêu hóa xơ. Tiêu hóa xơ mạnh nhất khi có mặt cả vi  
khuẩn và protozoa. Một số vi khuẩn được protozoa nuốt vào có tác dụng lên  
men trong đó tốt hơn mỗi protozoa tạo ra một kiểu “dạ cỏ mini” với các điều  
kiện ổn định cho vi khuẩn hoạt động. Một số loài ciliate còn hấp thu oxy từ dịch  
dạ cỏ giúp đảm bảo cho điều kiện yếm khí trong dạ cỏ được tốt hơn. Protozoa  
nuốt và tích trữ tinh bột, hạn chế tốc độ sinh axit lactic, hạn chế giảm pH đột  
ngột, nên có lợi cho vi khuẩn phân giải xơ.  
- Mối quan hệ cạnh tranh: Giữa các nhóm vi khuẩn khác nhau cũng sự  
cạnh tranh điều kiện sinh tồn của nhau. Chẳng hạn, khi gia súc ăn khẩu phần ăn  
giàu tinh bột nhưng nghèo protein thì số lượng vi khuẩn phân giải xenluloza sẽ  
giảm và do đó tỷ lệ tiêu hóa xơ thấp. Đó là vì sự mặt của một lượng đáng  
kể tinh bột trong khẩu phần kích thích vi khuẩn phân giải bột, đường phát triển  
nhanh nên sử dụng cạn kiệt những yếu tố dinh dưỡng quan trọng (như các loại  
khoáng, amoniac, axit amin, isoaxit) là những yếu tố cũng cần thiết cho vi khuẩn  
phân giải xơ vốn phát triển chậm hơn.  
Mặt khác, tương tác tiêu cực giữa vi khuẩn phân giải bột đường và vi  
khuẩn phân giải xơ còn liên quan đến pH trong dạ cỏ. Chenost và Kayouli  
(1997) giải thích rằng quá trình phân giải chất xơ của khẩu phần diễn ra trong dạ  
cỏ hiệu quả cao nhất khi pH dịch dạ cỏ > 6,2. Ngược lại quá trình phân giải  
tinh bột trong dạ cỏ hiệu quả cao nhất khi pH < 6,0. Tỷ lệ thức ăn tinh quá  
cao trong khẩu phần sẽ làm cho ABBH sản sinh ra nhanh, làm giảm pH dịch dạ  
cỏ và do đó ức chế hoạt động của vi khuẩn phân giải xơ.  
9
Tác động tiêu cực cũng thể thấy giữa protozoa và vi khuẩn. Như đã  
trình bày trên, protozoa ăn và tiêu hóa vi khuẩn, do đó làm giảm tốc độ hiệu  
quả chuyến hóa protein trong dạ cỏ. Với những loại thức ăn dễ tiêu hóa thì điều  
này không có ý nghĩa lớn, song đối với thức ăn nghèo N thì protozoa sẽ làm  
giảm hiệu quả sử dụng thức ăn nói chung. Loại bỏ protozoa khỏi dạ cỏ làm tăng  
số lượng vi khuẩn trong dạ cỏ. Thí nghiệm trên cừu cho thấy tỷ lệ tiêu hóa vật  
chất khô tăng 18% khi không có protozoa trong dạ cỏ (Preston và Leng, 1991).  
Như vậy, cấu trúc khẩu phần ăn của động vật nhai lại ảnh hưởng rất  
lớn đến sự tương tác của hệ vi sinh vật dạ cỏ. Khẩu phần giàu các chất dinh  
dưỡng không gây sự cạnh tranh giữa các nhóm vi sinh vật, mặt cộng sinh có lợi  
có xu thế biểu hiện rõ. Nhưng khẩu phần nghèo dinh dưỡng sẽ gây ra sự cạnh  
tranh gay gắt giữa các nhóm vi sinh vật, ức chế lẫn nhau, tạo khuynh hướng bất  
lợi cho quá trình lên men thức ăn nói chung.  
2.5. Vai trò của vi sinh vật dạ cỏ đối với vật chủ  
Phân giải gluxit: Gluxit của thức ăn được phân giải bởi vi sinh vật trong  
dạ cỏ. Quá trình phân giải này của vi sinh vật rất quan trọng bởi vì 60 – 90%  
gluxit (carbohydrat) của khẩu phần, kể cả vách tế bào thực vật, được lên men  
trong dạ cỏ.  
Vách tế bào là thành phần quan trọng của thức ăn xơ thô được phân giải  
một phần bởi vi sinh vật nhờ có men phân giải xơ (xenlulaza) do chúng tiết ra.  
Quá trình phân giải các carbohydrat phức tạp sinh ra các đường đơn. Đối với gia  
súc dạ dày đơn thì đường đơn, như glucoza, là sản phẩm cuối cùng được hấp  
thu, nhưng đối với gia súc nhai lại thì đường đơn được vi sinh vật dạ cỏ lên men  
để tạo ra các axit béo bay hơi. Phương trình tóm tắt tả sự lên men glucoza,  
sản phẩm trung gian của quá trình phân giải các gluxit phức tạp, để tạo các  
ABBH như sau:  
10  
 
Axit axetic  
C6H12O6 + 2H2O  
Axit propionic  
C6H12O6 + 2H2  
Axit butyric  
C6H12O6  
2CH3COOH + 2CO2 + 4H2  
2CH3CH2COOH + 2H2O  
CH3-CH2CH2COOH + 2CO2 + 2H2  
CH4 + 2H2O  
Khí mê tan  
4H2 + CO2  
Như vậy, sản phẩm cuối cùng của sự lên men carbohydrat thức ăn bởi vi  
sinh vật dạ cỏ gồm:  
- Các axit béo bay hơi, chủ yếu là axit axetic (C2), axit propyonic (C3),  
axit butyric (C4) và một lượng nhỏ các axit khác (izobytyric, valeric, izovaleric).  
Các ABBH này được hấp thu qua vách dạ cỏ vào máu và là nguồn năng lượng  
chính cho vật chủ. Chúng cung cấp khoảng 70 – 80% tổng số năng lượng được  
gia súc nhai lại hấp thu. Trong khi đó gia súc dạ dày đơn lấy năng lượng chủ yếu  
từ glucoza và lipit hấp thu ở ruột. Tỷ lệ giữa các ABBH phụ thuộc vào bản chất  
của các loại gluxit có trong khẩu phần.  
Các ABBH được sinh ra trong dạ cỏ được cơ thế sữa sử dụng vào các  
mục đích khác nhau:  
- Axit acetic (CH3COOH) được sữa sử dụng chủ yếu để cung cấp năng  
lượng thông qua chu trình Creb sau khi được chuyển hóa thành axetyl-CoA. Nó  
cũng là nguyên liệu chính để sản xuất ra các loại mỡ, đặc biệt mỡ sữa.  
- Axit propionic (CH3CH2COOH ) chủ yếu được chuyển đến gan. Tại đây  
được chuyển hóa thành đường glucoza. Từ gan, glucoza sẽ được chuyển vào  
máu nhằm bảo đảm sự ổn định nồng độ glucoza huyết và tham gia vào trao đổi  
11  
chung của cơ thể. Đường glucoza được sữa sử dụng chủ yếu làm nguồn năng  
lượng cho các hoạt động thần kinh, nuôi thai và hình thành đường lactoza trong  
sữa. Một phần nhỏ axit lactic sau khi hấp thu qua vách dạ cỏ được chuyển hóa  
ngay thành axit lactic và có thể được chuyển hóa tiếp thành glucoza và  
glycogen.  
- Axit butyric (CH3CH2CH2COOH) được chuyển hóa thành bêta-  
hydroxybutyric khi đi qua vách dạ cỏ. Sau đó được sử dụng như một nguồn  
năng lượng bởi một số mô bào, đặc biệt cơ xương tim. Nó cũng thể  
được chuyển hóa dễ dàng thành xeton và gây độc hại cho bò sữa khi có nồng độ  
hấp thu quá cao.  
Hoạt động lên men gluxit của vi sinh vật dạ cỏ còn giải phóng ra một khối  
lượng khổng lồ các thể khí, chủ yếu là CO2 và CH4. Các thể khí này không được  
sữa sử dụng, mà chúng đều được thải ra ngoài cơ thể thông qua phản xạ ợ  
hơi. Chuyển hóa các hợp chất chứa nitơ.  
Các hợp chất chứa nitơ, bao gồm cả protein và phi protein, khi được ăn  
vào dạ cỏ sẽ bvi sinh vật phân giải. Mức độ phân giải của chúng phụ thuộc vào  
nhiều yếu tố, đặc biệt độ hòa tan. Các nguồn nitơ phi protein (NPP) trong thức  
ăn như urê, hòa tan hoàn toàn và nhanh chóng phân giải thành amoniac.  
Trong khi tất cả NPP được chuyển thành amoniac trong dạ cỏ, thì có một  
phần - nhiều hay ít tùy thuộc vào bản chất của thức ăn - protein thật của khẩu  
phần được vi sinh vật dạ cỏ phân giải thành amoniac. Amoniac trong dạ cỏ là  
yếu tố cần thiết cho sự tăng sinh của hầu hết các loài vi khuẩn trong dạ cỏ. Các  
vi khuẩn này sử dụng amoniac để tổng hợp nên axit amin của chúng. Nó được  
coi là nguồn nitơ chính cho nhiều loại vi khuẩn, đặc biệt những vi khuẩn tiêu  
hóa và tinh bột.  
Sinh khối vi sinh vật sẽ đến dạ múi khế ruột non theo khối dưỡng chất.  
Tại đây một phần protein vi sinh vật này sẽ được tiêu hóa và hấp thu tương tự  
12  
như đối với động vật dạ dày đơn. Trong sinh khối protein vi sinh vật khoảng  
80% là protein thật chứa đẩy đủ các axit amin không thay thế với tỷ lệ cân  
bằng. Protein thật của vi sinh vật được tiêu hóa khoảng 80 – 85% ở ruột.  
Nhờ có vi sinh vật dạ cỏ mà gia súc nhai lại ít phụ thuộc vào chất lượng  
protein thô của thức ăn hơn động vật dạ dày đơn. Bởi vì chúng có khả năng  
biến đối các hợp chất chứa N đơn giản như urê, thành protein có giá trị sinh học  
cao. Bởi vậy để thỏa mãn nhu cầu duy trì bình thường và nhu cầu sản xuất ở  
mức vừa phải thì không nhất thiết phải cho gia súc nhai lại ăn những nguồn  
protein có chất lượng cao. Bởi hầu hết nhũng protein này sẽ bị phân giải thành  
amoniac, thay vào đó amoniac có thể sinh ra từ những nguồn N đơn giản rẻ  
tiền hơn. Khả năng này của vi sinh vật dạ cỏ có ý nghĩa kinh tế rất lớn đối với  
sản xuất thức ăn chứa protein thật đắt hơn nhiều so với các nguồn NPP.  
Chuyển hóa lipit: Trong dạ cỏ có hai quá trình trao đổi mỡ có liên quan  
với nhau, phân giải lipit của thức ăn tổng hợp mới lipit của vi sinh vật.  
Triaxylglycerol và galactolipit của thức ăn được phân giải thuỷ phân bởi  
lipaza vi sinh vật. Glyexerol và galactoza được lên men ngay thành ABBH. Các  
axit béo giải phóng ra được trung hòa pH của dạ cỏ chủ yếu dưới dạng muối  
canxi có độ hoà tan thấp và bám vào bề mặt của vi khuẩn và các tiểu phẩn thức  
ăn. Chính vì thế tỷ lệ mỡ quá cao trong khẩu phần thường làm giảm khả năng  
tiêu hóa xơ ở dạ cỏ.  
Trong dạ cỏ còn xảy ra quá trình hydrogen hóa và đồng phân hóa các axit  
béo không no. Các axit béo không no mạch dài (linoleic, linolenic) bị làm bão  
hòa (hydrogen hóa thành axit stearic) và sử dụng bởi một số vi khuẩn. Một số  
mạch nối đôi của các axit béo không no có thkhông bị hydrogen hóa nhưng  
được chuyển từ dạng cis sang dạng trans bền vững hơn. Các axit béo có mạch  
nối đôi dạng trans này có điểm nóng chảy cao hơn hấp thu ở ruột non và  
chuyển vào mô mỡ làm cho mỡ của gia súc nhai lại điểm nóng chảy cao. Vi  
sinh vật dạ cỏ còn có khả năng tổng hợp lipit có chứa các axit béo lạ (có mạch  
13  
nhánh và mạch lẻ) do sử dụng các ABBH có mạch nhánh và mạch lẻ được tạo ra  
trong dạ cỏ. Các axit này sẽ mặt trong sữa mỡ cơ thể của vật chủ. Như  
vậy, lipit của vi sinh vật dạ cỏ kết quả của việc biến đổi lipit của thức ăn và  
lipit được tổng hợp mới.  
Khả năng tiêu hóa mỡ của vi sinh vật dạ cỏ rất hạn chế, cho nên khẩu  
phần nhiều mỡ sẽ cản trở tiêu hóa giảm thu nhận thức ăn. Tuy nhiên, đối  
với phụ phẩm xơ hàm lượng mỡ trong đó rất thấp nên dinh dưỡng của gia súc  
nhai lại ít chịu ảnh hưởng của tiêu hóa mỡ trong dạ cỏ.  
Cung cấp vitamin: Một số nhóm vi sinh vật dạ cỏ khả năng tổng hợp  
nên các loại viatmin nhóm B và vitamin K.  
Giải độc: Nhiều bằng chứng cho thấy vi sinh vật dạ cỏ khả năng thích  
nghi chống lại một số chất kháng dinh dưỡng. Nhờ khả năng giải độc này mà gia  
súc nhai lại Đặc biệt là dê, có thể ăn một số loại thức ăn mà gia súc dạ dày đơn  
ăn thường bị ngộ độc như sắn, hạt bông.  
14  
Sự tiêu hóa thức ăn trong dạ cỏ loài nhai lại được biểu diễn theo sơ đồ  
sau:  
Hydratcacbon  
NPP  
Protit  
Peptit  
Monosaccarit  
Axit amin  
NH3  
Xetoaxit  
Axit amin mới  
Kiến tạo nên cơ thể VSV  
Sơ đồ tiêu hóa ở dạ cỏ loài động vật nhai lại  
15  
Tuy nhiên NH3 được phân giải từ các Nitơphiprotit kết hợp với Xetoaxit  
được phân giải từ Hydratcacbon tạo thành các axitamin mới, kiến tạo nên cơ thể  
vi sinh vật. Vi sinh vật này là nguồn protit dồi dào cho vật chủ. Đây chính là cơ  
sở khoa học của việc bổ sung urê cho động vật nhai lại.  
CHƯƠNG II  
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG URÊ BSUNG CHO  
ĐỘNG VẬT NHAI LẠI  
Urê là 1 chất chứa nitơ không phải protein, mà loại nitơ này bò có thể  
tổng hợp thành chất tiêu hóa được do dạ dày chúng có cấu tạo 4 túi: đó dạ cỏ,  
dạ tổ ong, dạ lá sách và dạ múi khế. Chính vi sinh vật trong dạ cỏ sẽ biến đổi  
chất nitơ này thành protein có giá trị cho vật chủ.  
I. NHỮNG ĐIỀU CƠ BẢN KHI SỬ DỤNG URÊ  
- Lượng urê bổ sung trong khẩu phần cho bò phụ thuộc vào cách thức cho  
ăn, dao động từ 70 – 100g/con/ngày.  
- Mức độ bổ sung urê vào khoảng 1% của tổng khẩu phần khô, hoặc 2 –  
3% của hỗn hợp thức ăn tinh.  
- Mức độ bsung urê trong hỗn hợp thức ăn tinh có thể nhiều hơn 3% nếu  
có 1 loại nguyên liệu ngon miệng như rỉ mật đường được cho thêm vào trong  
khẩu phần lượng thức ăn thô xanh giảm đi.  
II. NHỮNG CHÚ Ý KHÁC ĐỂ SỬ DỤNG URÊ  
- Để thể sử dụng urê thích hợp và có hiệu quả nên cung cấp đầy đủ  
thức ăn tinh, nhiều năng lượng, khoáng chất và vitamin. Vì vi sinh vật cần  
những chất này để tổng hợp nên protein của cơ thể chúng từ nguồn nitơ phi  
protein có trong urê.  
16  
     
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 24 trang yennguyen 04/04/2022 4080
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Cơ sở khoa học của việc sử dụng urê bổ sung trong thức ăn cho động vật nhai lại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • doctieu_luan_co_so_khoa_hoc_cua_viec_su_dung_ure_bo_sung_trong.doc