Báo cáo Rà soát thể chế chuỗi giá trị lúa gạo

Báo cáo rà soát thể chế chuỗi giá trị  
lúa gạo  
Nội, tháng 3/2017  
Mục lục  
i
Từ viết tắt  
ANLT  
Bộ NNPTNT  
CIEM  
An ninh lương thực  
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn  
Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương  
Đồng bằng sông Cửu Long  
Đồng bằng Sông Hồng  
ĐBSCL  
ĐBSH  
EVFTA  
FAO  
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU  
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc  
Tổng thu nhập quốc dân  
GDP  
GCN QSDĐ  
GFSI  
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất  
Chỉ số an ninh lương thực toàn cầu  
Hợp tác xã  
HTX  
KHCN  
NHTG  
OECD  
TCTK  
TCTD  
TNHH  
UBND  
VARHS  
VHLSS  
VFA  
Khoa học công nghệ  
Ngân hàng thế giới  
Tổ chức Hợp tác kinh tế và Phát triển  
Tổng cục thống kê  
Tổ chức tín dụng  
Trách nhiệm hữu hạn  
Ủy ban nhân dân  
Khảo sát tiếp cận nguồn lực nông thôn Việt Nam  
Khảo sát mức sống hộ gia đình  
Hiệp hội lương thực Việt Nam  
Thuế giá trị gia tăng  
VAT  
iii  
 
LỜI NÓI ĐẦU  
Báo cáo Rà soát thể chế chuỗi giá trị lúa gạo được thực hiện với các mục tiêu  
xác định, phân tích các rào cản về thể chế và chính sách trong sản xuất phân phối lúa  
gạo, từ đó đề ra các khuyến nghị cải cách để góp phần nâng cao năng suất lao động,  
khả năng cạnh tranh và thu nhập của người nông dân trong ngành lúa gạo.  
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương trân trọng cảm ơn Dự án Hỗ trợ  
tái cơ cấu kinh tế nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam (RCV) đã tài trợ cho Báo  
cáo này.  
Chúng tôi chân thành cm ơn ông Raymond Mallon, Cvn ca Dán RCV, đã  
đóng góp nhng bình lun, góp ý quý báu và thiết thc để hoàn thin Báo cáo. Chúng tôi  
cũng xin cm ơn bà Phm Chi Lan – chuyên gia kinh tế độc lp, Tiến sNguyn Đỗ Anh  
Tun, Vin trưởng Vin Chính sách và Chiến lược phát trin nông nghip nông thôn  
(IPSARD), và Tiến sỹ Đào Thế Anh thuc Vin cây lương thc và cây thc phm. Các  
chuyên gia này đã đóng góp nhiu ý kiến phn bin hu ích cho Báo cáo. Đồng thi,  
chúng tôi cũng cm ơn các ý kiến đóng góp ti hi tho tham vn để hoàn thin báo cáo  
này được tchc ti Vin Nghiên cu qun lý kinh tế Trung ương ngày 17/3/2017.  
Báo cáo do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và nhóm tư vấn của  
dự án RCV thực hiện. Nhóm soạn thảo do Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung chủ trì, với sự  
tham gia của Tiến sỹ Đặng Quang Vinh. Các tư vấn đóng góp báo cáo chuyên đề và  
số liệu gồm các tư vấn nghiên cứu Đinh Tuấn Minh, Hà Huy Cường Đoàn Quang  
Hưng.  
Mọi thiếu sót cũng như các quan điểm, ý kiến trình bày trong Báo cáo là của  
nhóm soạn thảo, không phải của cơ quan tài trợ hay của Viện Nghiên cứu quản lý kinh  
tế Trung ương.  
TS. NGUYỄN ĐÌNH CUNG  
Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương  
Giám đốc Quốc gia Dự án RCV  
1
2
Tóm tắt  
Lúa gạo là cây lương thực chính, đồng thời cũng nguồn thu nhập chính cho  
hàng triệu hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam. Tuy xuất khẩu lúa gạo đem lại một  
nguồn ngoại tệ đáng kcho đất nước, thu nhập của ngành trồng lúa gạo vẫn rất thấp so  
với mặt bằng chung của hội. Mặc năng suất trên diện tích canh tác của Việt  
Nam được đánh giá là rất cao, năng suất lao động (NSLĐ) ngành lúa gạo lại thấp hơn  
rất nhiều so với trung bình cả nước đang có xu hướng tăng chậm lại. Những năm  
gần đây, ngành lúa gạo của Việt Nam gặp nhiều khó khăn cả về điều kiện khí hậu, giá  
thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, các thách thức về biến đổi khí hậu, thiếu hụt  
nguồn nước, thoái hóa đất, v.v., đang ngày càng hiện rõ. Ngành nông nghiệp nói  
chung và ngành lúa gạo nói riêng cần đổi mới toàn bộ quá trình sản xuất để nâng cao  
NSLĐ và thu nhập của người nông dân. Để đạt được mục tiêu nói trên, việc rà soát hệ  
thống chính sách, thể chế thực hiện những cải cách kịp thời hết sức cần thiết.  
Báo cáo rà soát thể chế chuỗi giá trị lúa gạo mục đích là xác định các rào  
cản về thể chế và chính sách trong sản xuất lúa gạo, từ đó đưa ra các khuyến nghị  
chính sách để góp phần nâng cao năng suất lao động, khả năng cạnh tranh và thu nhập  
của người nông dân trong ngành lúa gạo. Báo cáo đề cập đến thể chế trong toàn bộ  
quá trình sản xuất và phân phối lúa gạo, tuy có mức độ đậm, nhạt khác nhau ở từng  
công đoạn hoặc yếu tố sản xuất khác nhau.  
Những nội dung chính về thể chế chuỗi giá trị lúa gạo bao gồm:  
(1) Thể chế về đất trồng lúa:  
Báo cáo chỉ ra rằng các chính sách về đất nông nghiệp nói chung và đất trồng  
lúa nói riêng đang là rào cản lớn đối với đầu tư, thay đổi phương thức sản xuất nông  
nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất NSLĐ trong ngành lúa gạo. Cụ thể, Báo cáo chỉ  
ra rằng các chính sách về hạn điền, chính sách bảo vệ đất trồng lúa và an ninh lương  
thực quốc gia, và các hạn chế chuyển nhượng đất trồng lúa đã gây khó khăn cho tích  
tụ đất đai, mở rộng quy mô sản xuất, thay đổi phương thức sản xuất, thu hút đầu tư và  
nâng cao NSLĐ trong ngành lúa gạo. Hơn nữa, chính sách hạn chế chuyển đổi cây  
3
 
trồng đang gây ra thiệt hại đáng kể về kinh tế cho đất nước và thu nhập của người  
nông dân trồng lúa. Nếu đất trồng lúa được chuyển sang các ngành nông nghiệp khác,  
nền kinh tế Việt Nam có thể thu được lợi ích là 6 tỷ USD trong 20 năm1. Bên cạnh đó,  
chính sách thu hồi đất nông nghiệp cho mục đích sử dụng khác với mức đền thấp  
đang làm cho đất trồng lúa có giá trị thấp, rủi ro cao, làm nàn lòng nhà đầu tư vào  
nông nghiệp nói chung và lúa gạo nói riêng. Các rào cản thể chế này đã làm thui chột  
cả cung và cầu đất trồng lúa, làm nản lòng nhiều nhà sản xuất khi họ muốn mở rộng  
quy mô sản xuất.  
(2) Thể chế về sản xuất lúa gạo:  
Duy trì sản lượng lúa gạo lớn một chính sách đã được áp dụng từ lâu. Nghị  
quyết 63/2009/NQ-CP về đảm bảo an ninh lương thực quốc gia yêu cầu duy trì sản  
lượng lúa 41-42 triệu tấn lúa, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước xuất khẩu  
khoảng 4 triệu tấn gạo/năm. Đây một chính sách sản lượng nhằm tới hai mục tiêu  
an ninh lương thực trong nước xuất khẩu với một chỉ tiêu cứng nhắc. Chính sách  
khuyến khích sản lượng cao dẫn đến nhiều hệ quả bất lợi cho nông dân trồng lúa.  
Thâm canh tăng vụ đem lại sản lượng lớn với chất lượng thấp sự thoái hóa đất,  
đồng thời làm giảm uy tín hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Chất  
lượng lúa gạo thấp dẫn đến giá xuất khẩu thấp, đồng thời đẩy giá trong nước và thu  
nhập của người nông dân xuống thấp. Chính sách sản lượng lớn như vậy là không cần  
thiết để đảm bảo an ninh lương thực và gây ra chi phí lớn cho xã hội nói chung và  
người trồng lúa nói riêng. Việt Nam hiện đang bao cấp lúa gạo cho nhiều nước trong  
khi một bộ phận người Việt Nam đang nhập khẩu gạo chất lượng của Thái Lan và  
Campuchia về để tiêu dùng.  
Trong bối cảnh nguồn cung thế giới có xu hướng tăng và nhu cầu lúa gạo chất  
lượng thấp giảm, nếu không có những thay đổi kịp thời, thể sẽ xuất hiện thời điểm  
ngành lúa gạo sẽ phải gánh chịu hiện tượng tăng trưởng bần cùng hóa (immiserizing  
growth) khi sản lượng tăng nhưng thu nhập giảm do chi phí đầu vào tăng và giá bán  
giảm.  
(3) Thể chế về xuất khẩu lúa gạo:  
1 Xem Chu và cộng sự (2016)  
4
Thể chế về xuất khẩu gạo đang một rào cản lớn đối với đầu tư, sáng tạo và  
tưởng trưởng NSLĐ. Báo cáo này đã chỉ ra cụ thể các rào cản đó, bao gồm các điều  
kiện phải đáp ứng để được cấp phép xuất khẩu gạo một cơ chế thi hành bất cập, tạo  
ra một môi trường kinh doanh bất bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh  
nghiệp tư nhân. Cụ thể, Nghị định 109/NĐ-CP/2010 về kinh doanh xuất khẩu gạo đề  
ra điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo rất ngặt nghèo và bất hợp lý, bao gồm: (i) có  
ít nhất một kho chuyên dùng với sức chứa tối thiểu 5.000 tấn thóc; (ii) có ít nhất một  
cơ sở xay, xát thóc, gạo với công suất tối thiểu 10 tấn thóc/giờ; (iii) phải xuất khẩu  
gạo trong thời gian 12 tháng liên tục mới được cấp lại giấy chứng nhận đủ điều kiện  
xuất khẩu gạo. Những điều kiện này đòi hỏi vốn đầu tư lớn một doanh nghiệp mới  
thành lập không thể vượt qua để tham gia xuất khẩu gạo.  
Quan trọng hơn, quy định của Nhà nước đang tạo điều kiện cho Hiệp hội lương  
thực Việt Nam (VFA) nắm thị thế độc quyền trong xuất khẩu gạo tạo rào cản cạnh  
tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Cụ thể, theo quy định của Nghị  
định 109/2010/NĐ-CP các doanh nghiệp xuất khẩu gạo sau khi ký hợp đồng xuất  
khẩu phải đăng với VFA trong vòng ba ngày làm việc (điều 17). Trong khi đó, các  
công ty lương thực nhà nước, bao gồm VINAFOODS I và VINAFOODS II, lại được  
giao vị trí chủ tịch VFA. Rõ ràng những quy định pháp luật hiện nay đang tạo ra một  
lợi thế rất lớn cho các DNNN trong xuất khẩu gạo. Điều này có vẻ đi ngược lại tinh  
thần bình đẳng giữa các của Hiến pháp 2013 theo đó “Các chủ thể thuộc các thành  
phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật” (Điều 51, khoản 2).  
Các quy định này đã đang cản trở đầu tư, sáng tạo trong sản xuất lúa gạo,  
tiệt tiêu mọi nỗ lực nâng cao chất lượng gạo và xây dựng thương hiệu gạo xuất khẩu  
của Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp sản phẩm chất lượng cao, giá trị gia tăng cao  
nhưng không được phép xuất khẩu, phải nhờ doanh nghiệp khác xuất khẩu thay. Tư  
duy sản lượng lớn cộng với một cấu trúc thị trường do doanh nghiệp xuất khẩu gạo,  
nhất là doanh nghiệp gạo nhà nước đứng đầu, dẫn dắt chuỗi giá trị, đã khiến cho  
ngành lúa gạo của Việt Nam tiếp tục phải chạy theo mô hình “lượng lớn, chất kém” vì  
những đơn vị sản xuất lúa chất lượng cao, quy mô lớn cuối cùng cũng chỉ bán được  
lúa với giá tương tự như gạo chất lượng thấp. Việc mở rộng quy mô sản xuất lúa chất  
5
lượng cao cũng sẽ gặp khó khăn do khó vượt qua được rào cản xuất khẩu để tiếp cận  
thị trường thế giới.  
Trên cở sở phân tích, đánh giá thể chế trong chuỗi giá trị lúa gạo, Báo cáo đi  
đến những nhiều khuyến nghị cải cách thể chế, chính sách. Các khuyến nghị quan  
trọng nhất được tóm tắt như sau:  
(i)  
Về thể chế, chính sách đất trồng lúa nói riêng và đất nông nghiệp  
nói chung  
Thứ nhất - Bỏ hạn điền: Báo cáo khuyến nghị sửa Luật Đất đai năm  
2013 theo hướng bỏ quy định về hạn điền (Điều 129 và Điều 130); các  
quy định về hạn điền đang cản trở sản xuất nông nghiệp ở quy mô lớn  
và làm giảm nhu cầu đầu tư vào nông nghiệp.  
Thứ hai - Bỏ quy hoạch đất trồng lúa: Báo cáo khuyến nghị bỏ các quy  
hoạch hiện nay về đất trồng lúa, cụ thể là các quy định về bảo vệ đất  
trồng lúa trong các văn bản: Nghị quyết 63/2009/NQ-CP về đảm bảo an  
ninh lương thực quốc gia, Nghị quyết 17/2011/QH13 về quy hoạch sử  
dụng đất đến năm 2020 và Nghị định 42/2012/NĐ-CP về quản lý, sử  
dụng đất trồng lúa. Ở một số địa phương ưu thế tự nhiên và NSLĐ  
ngành lúa gạo cao, nên sử dụng các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ  
nâng cao hơn nữa NSLĐ để khuyến khích sản xuất lúa gạo thay vì bắt  
buộc trồng lúa.  
Thứ ba – Coi quyền sử dụng đất nông nghiệp là tài sản bảo vệ quyền  
sử dụng đất nông nghiệp tốt hơn: Báo cáo khuyến nghị sửa đổi chính  
sách về đất nông nghiệp nói chung và đất trồng lúa nói riêng để bảo vệ  
quyền sử dụng đất nông nghiệp, đất trồng lúa như một tài sản có giá trị  
như các loại đất khác, tài sản khác. Cụ thể, Báo cáo khuyến nghị sửa đổi  
Luất đất đai như sau: (a) thừa nhận quyền sử dụng lâu dài đối với đất  
nông nghiệp nói chung và đất trồng lúa nói riêng (Điều 126 Luật Đất đai  
2013), người nông dân không bị mất quyền sử dụng khi chuyển sang  
hoạt động phi nông nghiệp, thể chuyển nhượng đất nông nghiệp hoặc  
góp vốn khi không muốn tiếp tục sản xuất nông nghiệp; (b) bỏ các quy  
6
định về thu hồi đất để giao đất cho người sử dụng khác trong Luật Đất  
đai 2013 (các Điều 61, 62 và 63), thay vào đó Nhà nước thực hiện trưng  
thu, trưng mua đất cho các dự án phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh  
hạ tầng kinh tế - xã hội, bồi thương theo mức giá thị trường; chủ  
đầu tư các dự án thương mại phải tự thương lượng để mua hoặc thuê đất  
của người sử dụng; (c) Xóa bỏ hạn chế về chuyển nhượng đất trồng lúa  
(Điều 191 Luật Đất đai 2013) để người nông dân có thể tự do chuyển  
nhượng đất nông nghiệp cho mọi đối tượng có nhu cầu, bao gồm cả tổ  
chức, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Nhà nước quản lý  
đất bằng cách phê duyệt mục đích sử dụng đất, không quản đối tượng  
nắm quyền sử dụng đất. Cách bảo vệ người nông dân tốt nhất là trao  
quyền cho họ để họ tự bảo vệ mình, tự quyết định việc sử dụng tài sản  
của mình thông qua giao dịch thị trường. Nhà nước thể sử dụng thuế  
sử dụng đất lũy tiến để hạn chế hanh vi tích tụ đất cho mục đích đầu cơ,  
không sử dụng cho sản xuất.  
(ii)  
Về thể chế, chính sách sản xuất lúa gạo:  
Thứ tư - Bỏ mục tiêu sản lượng: Báo cáo khuyến nghị bỏ mục tiêu tổng  
sản lượng lúa gạo (Nghị quyết 63/2009/NQ-CP về đảm bảo an ninh  
lương thực quốc gia), và chuyển sang các mục tiêu thực chất hơn về an  
ninh lương thực, cụ thNSLĐ và thu nhập của người dân.  
(iii) Về thể chế, chính sách xuất khẩu gạo:  
Thứ năm Bỏ các điều kiện xuất khẩu gạo: Báo cáo khuyến nghị bỏ các  
rào cản xuất khẩu gạo trong Nghị định 109/2010/NĐ-CP loại bỏ các  
đặc quyền mà Nhà nước đã trao cho VFA. Đồng thời, Báo cáo cho rằng  
cần thay đổi tổ chức chức năng của VFA, để VFA trở thành một hiện  
hội ngành hàng bình thường với sự tham gia của toàn bộ các tác nhân  
trong chuỗi giá trị lúa gạo, từ người trồng lúa đến xay xát, người phân  
phối nội địa thương nhân xuất khẩu.  
Thứ sáu – Hỗ trợ tiếp cận thị trường cho lúa gạo: Báo cáo khuyến nghị  
Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu gạo tiếp cận thị trường xuất  
khẩu bằng cách cung cấp thông tin và sử dụng cơ quan đại diện ngoại  
7
giao, thương mại giúp doanh nghiệp thiết lập sự hiện diện thương mại  
trực tiếp ở các thị trường nước ngoài (thành lập văn phòng đại điện,  
công ty, kho bãi; tiếp cận đối tác nhập khẩu; v.v.).  
Tóm lại, ngành lúa gạo Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức và  
nhiều rào cản thể chế. Hệ thống chính sách, thể chế về lúa gạo của Việt Nam hiện nay  
được xây dựng trên nền tảng của các mục tiêu không còn phù hợp với thực tiễn tư  
duy can thiệp hành chính, không phù hợp với định hướng xây dựng một nền kinh tế  
thị trường đầy đủ, hiện đại. Do đó, Nhà nước cần thực hiện các biện pháp cải cách  
mạnh mẽ nhằm tháo gỡ các rào cản thể chế trong các công đoạn của chuỗi giá trị lúa  
gạo. Cải cách thể chế là con đường nhanh nhất, bền vững nhất đthúc đẩy tăng trưởng  
năng suất lao động của cả nền kinh tế nói chung và ngành lúa gạo nói riêng.  
8
I. Giới thiệu về nghiên cứu  
1. Lý do thực hiện nghiên cứu  
Lúa gạo đóng vai trò quan trọng đối với người dân Việt Nam. Lúa gạo là cây  
lương thực chính của Việt Nam và cung cấp nguồn dinh dưỡng quan trọng hàng đầu  
cho dân cư. Trồng lúa cũng là công việc của nhiều người dân. Theo số liệu của TCTK,  
năm 2015 44% người lao động làm việc trong ngành nông nghiệp, phần lớn trong số  
đó tham gia trồng lúa. Lúa gạo nguồn thu nhập chính cho rất nhiều hộ gia đình ở  
nông thôn Việt Nam. Lúa gạo cũng một mặt hàng xuất khẩu quan trọng trong nhóm  
hàng nông nghiệp của Việt Nam, đem lại một nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước,  
nhất là trong giai đoạn những năm 20002. Năm 2012 xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt  
mức cao nhất là 8,5 triệu tấn đạt giá trị 3,7 tỷ USD. Tuy nhiên, thu nhập của người  
nông dân trồng lúa vẫn rất thấp so với các ngành nông nghiệp khác và so với thu nhập  
trung bình của cả nước.  
Trong những năm gần đây, ngành lúa gạo của Việt Nam gặp nhiều khó khăn.  
Trong khi giá lương thực thế giới vẫn tiếp tục đà tăng chậm (Hình 1), tình hình biến  
đổi khí hậu đang làm cho sản xuất nông nghiệp của Việt Nam khó khăn hơn. Quý  
I/2016, lần đầu tiên GDP ngành nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng âm so với cùng kỳ  
năm trước do tác động của hạn hán và ngập mặn.  
Ngành nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước những cơ hội cũng như thách  
thức to lớn của hội nhập kinh tế quốc tế. Các hiệp định thương mại tự do mà Việt  
Nam tham gia, ví dụ Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA), sẽ tạo  
điều kiện cho hàng nông sản của Việt Nam tiếp cận các thị trường lớn trên thế giới.  
Tuy nhiên, các cơ hội này chỉ thể thành hiện thực nếu hàng nông sản của Việt Nam  
đáp ứng được các tiêu chuẩn về chất lượng đáp ứng được sở thích của người tiêu  
dùng các thị trường phát triển đó3. Điều này đặt ra yêu cầu đổi mới toàn bộ quá trình  
sản xuất lúa gạo để đáp ứng yêu cầu của những thị trường tiềm năng nói trên.  
2 Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đây chưa chắc đã là giá trị cao nhất thể do có sự can thiệp khá nhiều của nhà  
nước thông qua hợp đồng chính phủ và DNNN, và chưa chắc đã phải hiệu quả nhất tính về giá trị gia tăng và  
thu nhập cho người dân.  
3 Theo Người Lao Động, người Việt ở Hoa Kỳ, một nhóm khách hàng tiềm năng của gạo Việt Nam, đang chủ  
9
   
Hình 1 Sản lượng và giá lúa gạo  
Nguồn: FAO, xem ngày 15/9/2016 tại  
Để đối phó với các thách thức của biến đổi khí hậu hội nhập, nỗ lực của  
từng nông dân và từng doanh nghiệp là không đủ. Điều cần thiết là các quan nhà  
nước hữu quan thực hiện rà soát hệ thống chính sách, thể chế hoạt động của thị  
trường để đề ra và thực hiện các biện pháp cải cách cần thiết. Đây việc làm thiết yếu  
để vượt qua các thách thức, nâng cao năng nâng suất lao động ngành lúa gạo và thu  
nhập của nông dân trồng lúa. Đó chính là góp phần hữu hiệu vào việc thực hiện kế  
hoạch phát triển kinh tế - xã hội kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế Đảng và Nhà  
nước đã đề ra.  
2. Mục tiêu của nghiên cứu  
Mục tiêu lớn nhất cuối cùng của nghiên cứu này là góp phần nâng cao năng  
suất lao động, sức cạnh tranh ngành lúa gạo Việt Nam và thu nhập của người nông  
dân trồng lúa. Để đạt được mục tiêu này, nghiên cứu sẽ cố gắng chỉ ra ra các rào cản,  
điểm nghẽn về thể chế và chính sách đối với tăng trưởng năng suất lao động trong  
ngành lúa gạo và thu nhập người nông dân trong tương quan với các tác nhân khác  
10  
 
trong chuỗi cung ứng lúa gạo4. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sẽ đề ra các khuyến nghị  
chính sách để giúp đạt được mục tiêu lớn nhất năng suất lao động, khả năng cạnh  
tranh và thu nhập của người nông dân trong ngành lúa gạo.  
3. Phạm vi nghiên cứu  
Nghiên cứu này hướng tới các chính sách, thể chế, chương trình hỗ trợ người  
sản xuất, cấu trúc thị trường, các quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp và các yếu  
tố khác có thể ảnh hưởng đến hành vi sản xuất, kinh doanh của nông dân, doanh  
nghiệp, qua đó ảnh hưởng đến năng suất lao động và thu nhập của ngành lúa gạo. Như  
vậy, không có giới hạn về mặt loại hình thể chế, chính sách hoặc rào cản đối với tăng  
trưởng năng suất lao động và thu nhập của người dân.  
Xét theo chuỗi sản xuất đầu vào – đầu ra, nghiên cứu này tập trung nhiều hơn  
vào công đoạn trồng lúa – xay xát – phân phối hơn là công đoạn chuẩn bị các yếu tố  
đầu vào. Nói cách khác, nghiên cứu này tập trung vào các rào cản thể chế ở các công  
đoạn từ (2) đến (4) trong lưu đồ về chuỗi sản xuất lúa gạo trong Sơ đồ 1 dưới đây. Tuy  
nhiên, đất đai một chủ đề trọng tâm của nghiên cứu này do tác động to lớn của nó  
đến năng suất lao động đặc điểm cụ thể của các quy định về đất đai ở Việt Nam.  
Các yếu tố đầu vào khác cũng sẽ được phân tích với các mức độ khác nhau.  
Sơ đồ 1 – Chuỗi sản xuất và phân phối lúa gạo  
(4)  
(3)  
(1)  
(2)  
Phân  
Thu mua,  
chế biến  
Đầu  
vào  
Trồng trọt  
(rào cản ra  
nhập TT, cấu  
trúc TT, v.v.)  
phối  
(cấu trúc thị  
trường, chính  
sách  
(đất, giống,  
phân bón,  
thuốc trừ sâu,  
(cấu trúc thị  
trường,  
rào  
nước,  
móc,  
máy  
lao  
cản ra nhập  
TT, hạ tầng,  
động,v.v. )  
NN,v.v.)  
4 thể nhiều nguyên nhân khác ngoài nguyên nhân thể chế, chính sách nhưng các nguyên nhân đó không  
phải trọng tâm của nghiên cứu này.  
11  
 
II. Thực trạng ngành lúa gạo Việt Nam  
1. Tổng quan ngành lúa gạo Việt Nam  
a) Sản lượng năng suất  
Ngành lúa gạo Việt Nam là một trong những ngành kinh tế thành công nhất của  
Việt Nam xét về tăng trưởng sản lượng. Từ một nước thiếu lương thực vào cuối những  
năm 1980, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới. Nguyên  
nhân chính là Việt Nam có năng suất ngành lúa gạo khá cao. Theo Bộ NNPTNT, năng  
suất lúa năm 2014 của Việt Nam đạt 57,6 tạ/ha, cao nhất trong khu vực Đông Nam Á.  
Tốc độ tăng sản lượng lúa của Việt Nam là khá cao, đạt 2,7% trong giai đoạn 1986-  
2013. Nhờ sản lượng tăng cao nên xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng đạt tốc độ cao,  
trung bình 14%/năm về lượng 10%/năm về giá trị trong giai đoạn 1989-2012 (Bộ  
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2015).  
Trong mười năm qua diện tích canh tác và sản lượng lúa của Việt Nam đều  
tăng mặc đất diện tích tự nhiên giảm đi do quá trình đô thị hóa. Đây kết quả của  
việc thâm canh, tăng vụ sử dụng các giống cho sản lượng cao. Hình 1 cho thấy sản  
lượng gạo của Việt Nam đã tăng gần 10 triệu tấn trong 10 năm qua trong khi diện tích  
canh tác tăng thêm khoảng 600 nghìn ha nhờ tăng vụ. Về năng suất, trung bình giai  
đoạn 2005-2015 Việt Nam đạt 5,4 tấn/ha, cao hơn so với nhiều nước trồng lúa khác.  
Đương nhiên, chúng ta khó có thể vừa năng suất cao vừa chất lượng cao.  
12  
   
Hình 1 – Diện tích canh tác và sản lượng lúa 2005-2015  
Diện tích canh tác và sản lượng lúa, 2005-2015  
50000  
45000  
40000  
35000  
30000  
25000  
20000  
15000  
10000  
5000  
8000  
7800  
7600  
7400  
7200  
7000  
6800  
0
2005  
2006  
2007  
2008  
2009  
2010  
2011  
2012  
2013  
2014  
2015  
Sản lượng (nghìn tấn)  
Diện tích (nghìn ha)  
Nguồn: Tổng cục Thống (2016)  
Theo Niên giám thống kê 2015, diện tích đất trồng lúa khu vực ĐBSCL  
chiếm hơn 50% tổng diện tích lúa trên cả nước. Số hộ trồng lúa khu vực ĐBSCL chỉ  
chiếm 16% trong tổng số hộ trồng lúa trên cả nước nhưng sản xuất hơn một nửa tổng  
sản lượng lúa. Diện tích đất trồng lúa bình quân mỗi hộ ở khu vực ĐBSCL khoảng  
1,29 ha, cao hơn nhiều so với mức trung bình của cả nước khoảng 0,44 ha. Khoảng  
47% số hộ trên cả nước diện tích đất trồng lúa dưới 0,2 ha. Tỉ lệ này khu vực  
đồng bằng sông Hồng là 63%, trong khi khu vực ĐBSCL chỉ khoảng 8%. Khoảng  
55% số hộ ở ĐBSCL diện tích đất trồng lúa dao động từ 0,5 đến 2 ha, tỉ lệ này ở  
ĐBSH chỉ khoảng 2% và trên cả nước khoảng 13%. Số hộ diện tích đất trên 2 ha  
chủ yếu tập trung ở ĐBSCL, chiếm khoảng 14%.  
Với quy mô đất canh tác nhỏ như vậy, điều khó tránh khỏi năng suất yếu tố  
tổng hợp ngày càng giảm sản lượng tăng chủ yếu nhờ thâm canh, tăng sử dụng các  
yếu tố đầu vào, nhất là phân bón. Điều này dẫn đến thu nhập thấp cho nông dân trồng  
lúa, nhất là khi so với các ngành nông nghiệp khác và toàn bộ nền kinh tế (xem bên  
dưới).  
b) Tiêu dùng nội địa  
Kinh tế tăng trưởng đã tạo điều kiện cho người dân thay đổi khẩu phần theo  
hướng giảm gạo tăng các loại thực phẩm khác có hàm lượng dinh dưỡng cao hơn.  
13  
 
Theo tính toán dựa trên Khảo sát mức sống hộ gia đình của TCTK, nhu cầu tiêu thụ  
gạo trung bình của Việt Nam ngày càng giảm, từ mức gần 160 kg/người năm 1993  
xuống còn khoảng 125 kg/người năm 2010 (Oxfam 2013). Tổng lượng gạo tiêu dùng  
nội địa tăng lên mức đỉnh ở năm 2004, sau đó giảm dần trong các năm tiếp theo (Hình  
2). Con số này tiếp tục giảm trong những năm gần đây. Theo số liệu Khảo sát mức  
sống hộ gia đình 2014, lượng gạo tiêu thụ trung bình năm 2014 chỉ là 113 kg/người5.  
Hình 2 - Tổng tiêu dùng lúa gạo và tiêu dùng bình quân đầu người ở Việt Nam,  
1993-2010  
Nguồn: Oxfam 2013 dựa trên số liệu Khảo sát mức sống hộ gia đình các năm  
Do thu nhập của các nhóm dân cư đều tăng, chi tiêu cho gạo của các nhóm dân  
phân theo thu nhập đều giảm. Hình 2 cho thấy đối với nhóm 20% hộ gia đình có  
thu nhập thấp nhất, tỷ lệ chi cho gạo trong tổng chi ăn uống thường xuyên giảm từ gần  
50% năm 2002 xuống còn gần 40% tổng chi năm 2012. Tính trung bình cả nước, chi  
cho gạo giảm từ khoảng 40% năm 2002 xuống còn khoảng 30% năm 2012. Số liệu  
VHLSS 2014 cho thấy con số này chỉ gần 20%.  
5 Tác giả tự tính toán từ bộ số liệu Khảo sát mức sống hộ gia đình 2014 của Tổng cục thống kê. Cụ thể, đây số  
liệu từ câu hỏi về lượng gạo tẻ hộ gia đình tiêu thụ trong tháng gần nhất (chia trung bình đầu người rồi nhân 12  
tháng). Con số này chưa tính đến tiêu thụ gạo gián tiếp, vụ dụ như bún, phở, nhưng xu hướng giảm đi là rõ ràng.  
14  
 
Hình 2– Tỷ lệ chi tiêu hộ gia đình phân theo nhóm ngũ vị phân thu nhập, 2002  
và 2012  
Nguồn: NHTG, Chuyển đổi nông nghiệp Việt Nam, 2016  
Trong những năm gần đây, thị trường gạo trong nước xuất hiện xu hướng tiêu  
dùng gạo nhập khẩu, nhất gạo thơm của Thái Lan và Campuchia. Với thu nhập  
ngày càng tăng lên, một bộ phận người tiêu dùng Việt Nam đang tìm đến gạo Thái  
Lan và Campuchia vì chúng thơm hơn và ngon hơn. Nhu cầu tiêu dùng tăng đã dẫn  
đến hiện tượng nhập lậu gạo Thái Lan về bán ở một số thị trường, dụ như thành phố  
Hồ Chí Minh6.  
c) Xuất khẩu  
Sự gia tăng sản lượng lúa gần như liên tục trong suốt hơn 2 thập kỷ qua đã giúp  
Việt Nam không những đảm bảo an ninh lương thực trong nước mà còn liên tục là  
một trong 3 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Cụ thể, từ mức xuất khẩu 1,99  
triệu tấn năm 1995, sản lượng gạo xuất khẩu đã tăng lên mức 3,48 triệu tấn năm 2000  
và 8,02 triệu tấn vào năm 2012. Nhờ mức tăng sản lượng này, số ngoại tệ Việt Nam  
thu về nhờ xuất khẩu gạo đã tăng từ mức 854,6 triệu USD năm 1996 lên mức 3.678  
triệu USD vào năm 2012. Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu gạo đi trên 150 nước, trong  
6 Ngọc Ánh, “Gạo lậu Thái Lan đổ về Sài Gòn”, Người lao động, ngày 17/12/2015, xem tại  
15  
 
đó những năm gần đây chủ yếu là Trung Quốc (chiếm 38%), Philippin (9%), Malaysia  
(9%), Bờ Biển Ngà (9%)7. Tuy nhiên, từ năm 2014 kim ngạch xuất khẩu gạo có xu  
hướng giảm và kim ngạch xuất khẩu gạo không còn vai trò đáng kể trong tổng kim  
ngạch xuất khẩu quốc gia. Năm 2016, xuất khẩu gạo chỉ đạt khoảng 2 tỷ USD, thấp  
hơn so với xuất khẩu rau quả, cà phê, tôm, v.v.  
d) Thách thức đối với ngành lúa gạo  
Hiện nay, ngành lúa gạo Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức do  
những đặc điểm riêng của mình. Cụ thể là:  
Thứ nhất, quy mô sản xuất lúa gạo nói riêng và nông nghiệp nói chung ở Việt  
Nam rất nhỏ. Theo số liệu của Tổng cục thống kê (2012), năm 2011 Việt Nam  
có 8,8 triệu hộ nông dân, trong đó 53% hộ nông dân có đất canh tác dưới 0,5  
ha, và 30,4% số hộ đất canh tác từ 0,5 đến dưới 2 ha. Riêng về trồng lúa,  
85% hộ trồng lúa có diện tích sản xuất dưới 0,5ha (Bộ Nông nghiệp và Phát  
triển nông thôn 2015). Quy mô nhỏ khiến khó cải thiện được năng suất và thu  
nhập của người nông dân. Ước tính với diện tích 0,5 ha một hộ gia đình chỉ có  
thể đạt thu nhập trung bình là 3,9 triệu đồng/người/năm (tỉnh An Giang, năm  
2013), thấp hơn mức chuẩn nghèo nông thôn8. Đã bắt đầu xuất hiện hiện tượng  
nông dân bỏ nghề trồng lúa để kiếm việc làm khác cho thu nhập cao hơn trên  
diện rộng (Nguyễn Thế Tràm 2015).  
Thứ hai, hiện tượng biến đổi khí hậu đã tác động nặng nề và ngày càng mạnh  
hơn đến sản xuất lúa gạo do nước biển dâng, hạn hán và lũ lụt. Trong nửa đầu  
năm 2016, lần đầu tiên sản xuất nông nghiệp của Việt Nam tăng trưởng âm kể  
từ khi Đổi Mới. Ngoài lý do thảm họa môi trường do nhà máy thép Formosa  
gây ra Tĩnh, ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long và hạn hán ở miền  
Trung và Tây Nguyên là nguyên nhân trực tiếp gây ra điều này. Hơn nữa,  
nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp đang giảm dần do các nước thượng  
nguồn xây đập thủy điện. Vấn đề thiếu nước ảnh hưởng lớn đối với đồng  
7 Số liệu Tổng cục Hải quan năm 2013 được dẫn trong Đề án Tái cơ cấu ngành lúa gạo đến năm 2020 của Bộ  
NN-PTNT (2015).  
8 Ấp Bắc, “Người trồng lúa nếu lãi 50% vẫn nghèo”, xem ngày 9/11/2016 tại http://baoapbac.vn/kinh-  
16  
Tải về để xem bản đầy đủ
docx 70 trang yennguyen 04/04/2022 5280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Rà soát thể chế chuỗi giá trị lúa gạo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxbao_cao_ra_soat_the_che_chuoi_gia_tri_lua_gao.docx