Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu vốn vay ADB - Đề tài: Chọn giống và phát triển giống trám lấy quả tại Hoà Bình và một số tỉnh phía Bắc

HỘI KHOA HỌC KỸ THUẬT LÂM NGHIỆP VIỆT NAM  
VIỆN CẢI THIỆN GIỐNG VÀ PHÁT TRIỂN LÂM SẢN  
BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU  
VỐN VAY ADB  
Tên đề tài:  
CHỌN GIỐNG VÀ PHÁT TRIỂN GIỐNG TRÁM LẤY QUẢ  
TẠI HOÀ BÌNH VÀ MỘT SỐ TỈNH PHÍA BẮC  
Cơ quan chủ quản: BNông nghiệp và Phát triển Nông thôn  
Cơ quan thực hiện: Viện Cải thiện ging và Phát triển lâm sản  
Chnhiệm đề tài: - ThS. Lý Thu Quỳnh (2009 - 6/2010)  
- TS. Hoàng Thanh Lộc (7/2010 -12/2011)  
Thời gian thực hiện: 9/2009 - 12/2011  
HÀ NỘI - 2011  
1
MỤC LỤC  
TT  
Nội dung  
Trang  
5
LỜI NÓI ĐẦU  
Phần 1 GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI  
Phần 2 BÁO CÁO KHOA HỌC  
Chƣơng 1 Tng quan tình hình nghiên cứu  
7
10  
10  
10  
11  
1.1  
1.2  
Nghiên cứu cây trám trên thế giới  
Nghiên cứu cây trám ở Việt Nam  
Mục tiêu, nội dung, vật liệu, địa điểm và phƣơng pháp  
nghiên cứu  
Chƣơng 2  
17  
2.1  
2.2  
2.3  
2.3.1  
2.3.2  
Mục tiêu nghiên cứu  
Nội dung nghiên cứu  
Vật liệu nghiên cứu  
Vật liệu nghiên cứu tuyển chọn giống Trám sai quả  
Vật liệu nghiên cứu nhân giống bằng phương pháp ghép  
Vật liệu cho xây dựng mô hình trồng rừng bằng cây Trám ghép  
tại Hoà Bình Ba Vì, Chí Linh  
17  
18  
19  
19  
19  
2.3.3  
19  
Vật liệu cho nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật thâm canh  
cho vườn Trám ghép  
2.3.4  
19  
2.4  
2.5  
Địa điểm nghiên cứu  
Phương pháp nghiên cứu  
19  
20  
2.5.1  
20  
Phương pháp nghiên cứu tuyển chọn giống Trám sai quả  
Phương pháp nghiên cứu nhân giống cây Trám bằng phương  
pháp ghép  
2.5.2  
21  
Phương pháp xây dựng mô hình rừng trồng bằng cây Trám  
ghép ti Hoà Bình, Ba Vì và Chí Linh  
2.5.3  
2.5.4  
21  
22  
22  
Phương pháp nghiên cứu biện pháp thâm canh vườn trám ghép  
Phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng thời vụ bón và lượng  
phân bón đến lượng quả  
2.5.4.1  
Phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng của tỉa cành và phân bón  
đến lượng quả  
2.5.4.2  
22  
24  
Phương pháp phân tích thành phần dinh dưỡng trong cùi quả  
Trám trắng, Trám đen  
Phương pháp xử lý số liệu  
2.5.5  
2.5.6  
24  
Chƣơng 3 Kết quả nghiên cứu và thảo luận  
26  
2
Đánh giá tình hình trồng trám lấy quả và nhu cầu cây  
giống của người dân tại tỉnh Hoà Bình  
3.1  
3.2  
26  
27  
27  
29  
Tuyển chọn cây trội sai quả  
3.2.1 Đặc điểm của các cây trội Trám trắng sai quả  
3.2.2 Đặc điểm của các cây trội Trám đen sai quả  
Kích thước quả, hạt, độ dày cùi ca cây trội Trám trắng,  
Trám đen  
3.3  
31  
31  
33  
34  
35  
Đặc điểm biến động về kích thước quả, hạt, độ dày cùi của các  
cây trội Trám trắng  
3.3.1  
Đặc điểm biến động về kích thước quả, hạt, độ dày cùi của các  
cây trội Trám đen  
3.3.2  
Hàm lượng các chất dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe con  
người có trong cùi quả Trám trắng, Trám đen  
3.4  
Hàm lượng của một số chất dinh dưỡng có trong cùi quả cây  
trội Trám trắng  
3.4.1  
Hàm lượng của một số chất dinh dưỡng có trong cùi quả cây  
trội Trám đen  
3.4.2  
36  
37  
39  
3.5  
3.6  
Nhân giống cây Trám bằng phƣơng pháp ghép  
Xây dựng mô hình trồng Trám trắng, Trám đen bằng cây  
ghép  
3.6.1 Diện tích các mô hình và các dòng được trồng tại các mô hình  
3.6.2 Sinh trưởng của các dòng tại các mô hình  
39  
41  
Ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật thâm canh đến  
sản lượng quả của các dòng vô tính  
3.7  
43  
43  
44  
Ảnh hưởng của thời vụ bón phân và lượng phân bón đến sản  
lượng quả của các dòng vô tính Trám trắng  
3.7.1  
Ảnh hưởng của tỉa cành và bón phân đến sản lượng quả của  
các dòng vô tính Trám trắng  
3.7.2  
3
3.8  
Tập huấn kỹ thuật nhân giống và trng trám  
45  
46  
46  
50  
51  
Chƣơng 4 Kết luận và đề nghị  
4.1  
4.2  
Kết luận  
Đề nghị  
Tài liệu tham khảo  
Phụ lục 1. Một số hình ảnh họat động của đề tài  
Phụ lục 2. Sơ đồ trồng các mô hình  
Phụ lục 3. Tài liệu tập huấn kỹ thuật  
Phụ lục 4. Quy trình kỹ thuật nhân giống và trồng trám lấy  
quả  
4
LỜI NÓI ĐẦU  
Mục tiêu của Dự án khoa học công nghệ Nông nghiệp vốn vay ADB thực hiện giai  
đoạn 2009 -2011 nhằm đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng, chiếm lĩnh thị  
trường theo hướng phát triển kinh tế bền vững; để thực hiện được mục tiêu của dự  
án này, việc lựa chọn các loài cây bản địa thân gỗ, sống lâu năm, cho quả làm  
thực phẩm có thị trường tiêu thụ rộng và áp dụng các biện pháp công nghệ vchọn  
giống, nhân giống, thâm canh để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm là  
một trong những hướng đi có triển vng..  
Trám trắng và Trám đen đang là những loài cây bản địa lấy quả làm thực  
phẩm có giá trị kinh tế cao. Quả trám là một mặt hàng đặc sản có giá trị, được sử  
dụng trong nước và là một mặt hàng xuất khẩu được ưa chuộng. Hiện nay trám  
đang được người dân trồng kết hợp lấy gỗ và lấy quả. Tuy vậy những nghiên cứu  
về hai loài trám này chủ yếu mới dừng ở các kỹ thuật gây trồng, chưa có nghiên  
cứu vchọn giống sai quả và vchất lượng quả. Mặt khác, do thiếu hiểu biết về  
trồng cây ăn quả, nhiều người đã trồng trám ghép lấy quả theo phương thức trồng  
rừng hỗn giao với một số loài cây bản địa khác theo kiểu trồng rừng lấy gỗ, nên  
kết quả là vừa không có quả, vừa không có gỗ.  
Khảo nghiệm giống cho Trám trắng được chọn trước đây tại Trm Thản có  
tính chất trồng thử, sau 7 năm mới thấy dòng sai quả nhất có hơn 10 kg  
quả/cây/vụ, nhiều dòng khác chỉ đạt 2 - 3 kg quả/cây, thậm chí có dòng có lượng  
quả không đáng kể. Hơn nữa, khảo nghiệm giống mới được tiến hành đầu tiên tại  
Trạm Thản (Phú Thọ) và cũng chưa có nghiên cứu vchất lượng quả. Vì t hế  
nghiên cứu chất lượng quả và tiếp tục khảo nghiệm mở rộng ở các địa điểm khác,  
trong đó có Hòa Bình là cơ sở để khẳng định các giống có sản lượng quả cao và ổn  
định, thích hợp với điều kiện sinh thái của một số nơi trong vùng.  
Mặt khác, tại Hòa Bình nơi có người dân trồng khá nhiều Trám trắng để lấy quả  
cũng chưa có chọn giống và khảo nghiệm giống. Vì thế chọn cây trội sai quả cho  
Trám trắng tại vùng này, khảo nghiệm giống giai đoạn một làm cơ sở cho việc phát  
triển giống là hết sức cần thiết.  
Trám đen là loài cây được trồng nhiều ở tỉnh Hòa Bình, chủ yếu là làm thực  
phẩm, có thị trường nội địa lớn ở Hà Nội và các tỉnh phía Bắc, song đến nay vẫn  
chưa có nghiên cứu về chọn giống lấy quả và chất lượng quả. Chọn giống Trám  
5
đen tại tỉnh Hòa Bình, khảo nghiệm giống từ các cây trội Trám trắng, Trám đen sai  
quả tại tỉnh Hòa Bình sẽ cho phép xác định được cây ưu việt thật sự có khả năng di  
truyền đặc tính nhiều quả, chất lượng quả tốt như cùi dày, hạt nhỏ, v.v..., góp phần  
tăng thêm nguồn giống trám cho tỉnh Hòa Bình và các vùng lân cận.  
Chn giống, xây dựng mô hình trồng vườn giống lấy quả kết hợp với khảo  
nghiệm giống cho những giống đã chọn, không những tạo thêm nguồn giống mà  
còn làm cơ sở tăng thêm sản lượng và chất lượng giống Trám trắng và Trám đen,  
tăng hiệu quả trồng trám, góp phần tăng thu nhập của người dân và tăng thêm độ  
che phủ của rừng.  
Vì vậy, việc thực hiện đề tài “ Chọn giống và phát triển giống Trám lấy quả tại  
Hoà Bình và một số tỉnh phía Bắc” sẽ va có giá trị khoa học, va có ý nghĩa  
thực tiễn đối với việc đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng, tạo thị thị trường  
theo hướng phát triển kinh tế bền vững.  
6
Phần 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI  
1. Tên đề tài:  
“Chọn giống và phát triển giống trám lấy quả tại Hòa Bình và một số tỉnh phía Bắc”  
2. Mục tiêu nghiên cứu  
2.1. Mục tiêu tổng quát:  
- Tăng thêm nguồn giống cây rừng ăn quả cho người dân, đa dạng hóa giống cây  
cho trồng rừng kinh tế, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân  
tỉnh Hòa Bình và các vùng lân cận.  
2.2. Mục tiêu cụ thể:  
- Chọn được cây trội Trám trắng và Trám đen sai quả tại Hòa Bình và vùng lân  
cận có lượng quả vượt trội so với cây chung quanh 15 %.  
- Xây dựng được vườn tập hợp nguồn giống kết hợp với khảo nghiệm giống và mô  
hình Trám trắng tại Hòa Bình.  
- Xây dựng được quy trình kỹ thuật nhân giống và gây trồng Trám trắng lấy quả.  
3. Nội dung nghiên cứu  
Nội dung1: Điều tra, đánh giá tình hình trồng trám lấy quả và nhu cầu cây giống  
của người dân ở tỉnh Hòa Bình.  
Nội dung 2: Nghiên cứu tuyển chọn giống trám sai quả, nhân giống và trồng mô  
hình  
- Nghiên cứu tuyển chọn giống Trám trắng và Trám đen sai quả tại Hòa Bình và  
một số tỉnh miền Bắc.  
- Nghiên cứu nhân giống bằng phương pháp ghép.  
- Xây dựng mô hình trồng Trám Trắng và Trám đen Bình Thanh (Hòa Bình), Ba  
(Hà Nội) và Chí Linh (Hải Dương).  
Nội dung 3: Nghiên cứu biện pháp thâm canh và xây dựng quy trình kỹ thuật nhân  
giống và gây trồng.  
- Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật thâm canh cho giống đã trồng tại Phú Thọ.  
- Xây dựng quy trình kỹ thuật về nhân giống và trồng trám lấy quả.  
Nội dung 4: Tp huấn kỹ thuật cho nông dân vkỹ thuật nhân giống và trồng  
trám.  
4. Thời gian thực hiện đề tài: 28 tháng (từ tháng 9/2009 đến tháng 12/2011).  
5. Tng kinh phí:  
- Tng kinh phí được duyệt: 430.000.000đ.  
- Tng kinh phí đã cấp: 387.664.000đ  
7
- Kinh phí còn lại:  
42.336.000đ.  
Được phân bổ cho các năm như sau:  
- Năm 2009: 60.000.000đ  
- Năm 2010: 220.000.000đ.  
- Năm 2011: 150.000.000đ.  
6. Sản phẩm của đề tài:  
Theo kế hoch  
Đã thực hiện  
1/ Cây trội Trám trắng: chọn được 10 - 1/ Đã chọn được 14 cây trội Trám trắng  
15 cây có lượng quả vượt trội so với cây có lượng quả vượt trội so với cây xung  
xung quanh 15%.  
quanh trên 30%.  
2/ Cây trội Trám đen: chọn được 6 -8  
cây có lượng quả vượt trội so với cây  
xung quanh 15%.  
2/ Đã chọn được 7 cây trội Trám đen có  
lượng quvượt trội so với cây xung  
quanh trên 50%.  
3/ Quy trình kỹ thuật nhân giống và  
trồng trám.  
3/ Đã xây dựng Quy trình kỹ thuật nhân  
giống và trồng trám lấy quả  
4/ Đã xây dựng đủ 2,3 ha mô hình trồng  
trám, trong đó có 1 ha tại Bình Thanh  
(Hòa Bình) là vườn tập hợp các nguồn  
giống kết hợp với vườn kiểm tra dòng  
tính, 1 ha mô hình trồng trám ghép  
lấy quả tại Ba Vì (gồm 6 hộ gia đình);  
0,3 ha mô hình trồng trám ghép lấy quả  
tại Chí Linh-Hải Dương (1 hộ gia đình).  
5/ Đã thí nghiệm thâm canh, mt số  
công thức thâm canh: bón phân và tỉa  
4/ Mô hình trồng trám: 2,3 ha.  
5/ Mô hình các biện pháp thâm canh,  
năng suất cao hơn công thức đối chứng cành đã làm tăng lượng qucủa các  
10%.  
dòng vô tính vượt hơn so với đối chứng  
từ 50% - 190%.  
6/ Bài báo Biến dị về năng suất và chất  
lượng quả Trám trắng và Trám đen.  
6/ Chưa viết  
7/ Đã xác định hàm lượng các chất  
dinh dưỡng có lợi cho sức khoẻ con  
người có trong cùi quả Trám trắng và  
trong cùi quả Trám đen.  
8
7. Cán bộ tham gia thực hiện đề tài:  
- ThS. Lý Thu Quỳnh (CN đề tài từ tháng 8/2009 - 6/2010); Vin CTG và PTLS.  
- TS.Hoàng Thanh Lộc (CN đề tài từ tháng 7/2010 -12/2011); Viện CTG và PTLS.  
- GS.TS. Lê Đình Khả - Cố vấn kỹ thuật; Viện CTG và PTLS.  
- ThS. Đỗ Thị Lan Hương - Cán bộ phân tích thành phần dinh dưỡng; Trung tâm  
phân tích và Giám định thực phẩm Quốc gia -Vin Công nghiệp thực phẩm (Bộ  
Công Thương).  
- ThS. Kiều Đăng Anh - Cán bộ thực hiện; Viện CTG và PTLS.  
- KS. Chu Văn Trọng - Thư ký đề tài; Vin CTG và PTLS.  
- KS. Đỗ Thế Hiểu - Cán bộ hiện trường; Trung tâm giống cây trồng Hòa Bình.  
8. Các đơn vị phối hợp:  
- Trung Tâm giống cây trồng Hòa Bình - Tnh Hòa Bình.  
- Công ty cổ phần giống Lâm nghiệp vùng Bắc Bộ ( Trạm thản - Phú Thọ).  
- Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng -Viện Khoa học lâm nghiệp.  
- Trung tâm Phân tích và Giám định thực phẩm Quốc gia - Viện Công nghiệp thực  
phẩm (Bộ Công Thương).  
`
9
Phần 2. BÁO CÁO KHOA HỌC  
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU  
1.1. Nghiên cứu cây trám trên thế giới  
Canarium là chi thực vật gồm 75 loài thuộc họ Burseraceae, có phân bố tự  
nhiên ở các nước nhiệt đới và á nhiệt đới từ Châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á đến  
Australia. Các loài trong chi Canarium phân bố từ phía nam Nigeria đế phía đông  
Nadagasca, Martius, Ấn Độ, nam Trung Quốc, các nước Đông Dương, Indonesia  
và Philippin. Chi này gồm những loài cây thân gỗ, có thể cao đến 40 -50 m, lá kép  
Trám trắng (Canarium album (Lour.) Raeusch còn tên Ô liu trung quốc  
(Chinese oliu), hoặc Ô liu trắng trung quốc (Chinese white oliu), là loài cây có  
phân bố tự nhiên và được trồng rộng rãi ở nam Trung Quốc, nhân hạt chứa hàm  
lượng dầu béo cao (52,8%) và protein (29,5%) (http://www. scienccedord.  
com/science..., 2009).  
Theo Hầu Khoan Chiếu (1958) thì ở Trung Quốc có Trám trắng và Trám đen.  
Trám trắng có tên khoa học là Canarium album Raeusch. Trám đen có tên khoa  
học là C. pimela Koenig. Trám đã được người dân trồng lấy quả từ rất lâu đời.  
Các tác giả Trung Quốc ở Hội thực vật chí (1976) giới thiệu Trám đen cho  
trồng rừng. Theo các tác giả thì Trám đen cao 10 - 25 m, đường kính 20 - 120 cm,  
có phân bố chủ yếu ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, một phần của tỉnh Phúc  
Kiến và ở Đài Loan. Các nhà khoa học Trung Quốc cũng đã có những nghiên cứu  
về phân bố, hình thái, đặc tính sinh học, giá trị sử dụng, kỹ thuật trồng rừng và  
phòng trừ sâu bệnh (chủ yếu là Sâu Anoplophora chinesis hại cây con). Họ đã tìm  
được cây nhiều quả có thể đạt 200 kg quả, cá biệt có thể đạt 400 kg quả.  
Tuy vây, theo công bố mới nhất thì ở Trung quốc có đến 7 loài trám, trong đó  
Trám trắng (Canarium album) và Trám đen (C. pimela hoặc C. tramdenum) là  
những loài cây chủ yếu có giá trị kinh tế. Trám trắng quả hình trứng, có phân bố  
và được trồng trên các sườn núi và thung lũng, ở độ cao 100 - 1300 m, tại các tỉnh  
Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hải Nam, Tứ Xuyên, Đài Loan,  
Vân Nam và Việt Nam. Trám đen quả hình trứng hẹp dài 3 - 4 cm, đường kính 1,7  
10  
- 2 cn, có phân bố ở độ cao 500 - 1300 m tại Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam,  
Vân Nam và các nước khác như Việt Nam, Lào, Canpuchia (Flore of China,  
2008).  
Trám trắng được nhiều nhà khoa học trên thế giới đặt vấn đề nghiên cứu từ đầu  
thế kỷ 20. Các nhà khoa học người Pháp trong đó có Anfray (1901), Pignet (1902)  
và Heim (1904) đã nghiên cứu khai thác và chế biến nhựa Trám để phục vụ cho  
công nghệ chế biến xà phòng, dầu thơm, véc ni và xi đánh dày (Tập san kinh tế  
Đông dương - 1994). Theo tài liệu này người ta đã chưng cất được 18 - 20 kg dầu,  
57 đến 60 kg côlôphan trong 100 kg nhựa Trám. Các kết quả nghiên cứu này đã  
được ứng dụng để khai thác nhựa Trám ở một số nước có trám phân bố tự nhiên.  
Nghiên cứu tính chất gỗ của các loài cây nhiệt đới đã thấy các loài trám có tỷ  
trọng gỗ thay đổi trong khoảng 0,50 - 0,56 (Reyes al, 1992)  
Các nghiên cứu tiếp theo được tập trung vào việc khai thác các nguồn lợi từ  
cây Trám trắng, cụ thể là Trisonthi người Pháp đã nghiên cứu đặc điểm của một số  
loài cây có quả ăn được của rừng nhiệt đới trong đó có loài Trám trắng, nghiên  
cứu giá trị kinh tế của quả và nhựa Trám trắng của Griffith người Anh, nghiên cứu  
chế biến và bảo quản quả Trám của Lin - Hetong người Trung Quốc, nghiên cứu  
thành phần dược phẩm trong quả Trám trắng của Ito - M người Nhật Bản, (Tng  
hợp của Trerrs CD - Từ 1973 đến10/1999).  
Tuy nhiên cho đến nay vấn đề chọn giống Trám trắng và Trám đen sai quả vẫn  
chưa được chú ý nhiều.  
1.2. Nghiên cứu cây trám ở Việt Nam  
Đặc điểm phân loại, lâm học và giá trị của quả Trám trắng và Trám đen  
Chi Canarium ở nước ta gồm 8 loài, trong đó 2 loài được trồng ăn quả là Trám  
trắng và Trám đen, loài có thể ăn quả ít giá trị hơn là Trám ba cạnh hay Trám hng  
(C. bengalensis Roxb) (Nguyễn Tiến Bân và cs, 2003), bảy loài trong số đó đã  
được mô tả chi tiết vphân loại (Vũ Văn Dũng et al, 2009).  
Như vậy, trong các loài trám hiện có ở nước ta và ở Trung Quốc thì Trám  
trắng và Trám đen là hai loài cây ăn quả có giá trị kinh tế cao nhất và cũng là  
những loài được trồng nhiều nhất đến nay.  
11  
Trám trắng (Canarium album (Lour.) Raeusch, hoặc Pimela alba Lour).  
Trám trắng là cây gỗ lớn, có chiều cao từ 20-30 m, đường kính ngang ngực có thể  
đạt đạt 50-120 cm, thân tròn thẳng, tán rộng và lá xanh quanh năm. Cành non màu  
u nhạt, có lông mềm. Vỏ mỏng màu nâu xám, có mùi thơm đặc biệt. Lá kép  
lông chim một lần lẻ, lá chét hình thuôn trái xoan, dài 35 - 40 cm, rộng 7 - 11 cm.  
Cụm hoa ở ngọn, chùm kép, lá bắc hình vảy. Hoa đơn tính cùng gốc, thường 2 - 3  
cái một mấu. Quả hạch hình trái xoan, dài 3,5 - 4 cm, đường kính quả 2,0 - 2,5 cm,  
khi chín màu vàng nhạt - trắng (Vũ Văn Dũng et al, 2009).  
Đây là loài cây có phân bố ở các tỉnh miền Bắc, miền Trung Việt Nam và một  
số nước trên thế giới như Lào, Trung Quốc, Thái Lan, Cam Pu Chia, trong đó ở  
nước ta Trám trắng có phân bố tự nhiên từ Hà Giang đến các tỉnh Đồng Nai, Bà  
Rịa - Vũng Tàu và các tỉnh Tây Nguyên (Nguyễn Tiến Bân và cs., 2003). Tuy vậy,  
theo một số nghiên cứu mới nhất, thì Trám trắng chủ yếu phân bố trong các rừng  
nguyên sinh và thứ sinh ở các tỉnh miền Bắc, đặc biệt là ở các tỉnh Bắc Kạn, Thái  
Nguyên, Phú Thọ, Quảng Bình ở độ cao dưới 500 m, thường mọc lẫn với Lim  
xanh, Lim xẹt, Xoan đào... và đôi khi mọc cùng với Trám đen, Táu (Vũ Văn Dũng  
và cs, 2009).  
Trám trắng là loài cây đa mục đích được nhân dân ưa chuộng và gây trồng từ  
lâu (Lê Mng Chân và cs., 2000).  
Điều kiện vùng trồng Trám trắng thích hợp với nhiệt độ không khí 21oC -  
25oC, lượng mưa bình quân năm trên 1.500mm và phù hợp với hầu hết các loại đất  
có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến sét nhẹ, lượng mùn cao, tầng đất dày trên 50  
cm, thoát nước, còn tính chất đất rừng (Cục Lâm nghiệp, 2007).  
Sau khi trồng 5 - 6 năm, cây Trám trắng bắt đầu ra hoa, mùa hoa nở từ tháng 2  
- 3, thu hái quả tháng 9 - 10. Khi quả chín vỏ thường chuyển từ màu xanh sang  
mầu mơ vàng, có vị hơi chua ngọt, hạt có nhân màu trắng. Số lượng quả trong 1  
kg từ 200 đến 250 quả, số lượng hạt trong 1 kg là 500 - 600 hạt (Công ty ging và  
phục vụ trồng rừng, 1995).  
Quả Trám trắng có thể dùng chế biến ô mai, mứt, làm thực phẩm, làm thuốc  
chữa ho, giải rượu, giải độc, chữa viêm ruột, chữa động kinh. Quả tươi dùng để trị  
ngộ độc cá, hạt dùng để trị giun và hóc xương, vỏ dùng để trị dị ứng sơn và đau  
nhức răng (Võ Văn Chi, 1997). Hiện nay quả trám trắng đang được dùng để làm  
12  
mứt và đóng đồ hộp, tiêu thụ nhiều trong nước và là mặt hàng xuất khẩu sang  
Trung Quốc có giá trị.  
Trong quả Trám trắng có 1,2% chất protein, 1% chất béo, 12% chất hydrat  
cacbon, 0,204% canxi, 0,06% photpho, 0,0014% chất sắt và 0,021% vitamin C  
(Đỗ Tất Lợi, 1995). Nhựa trám trắng dùng để cất tinh dầu dùng trong kỹ nghệ  
nước hoa, colophan có thể sử dụng trong kỹ nghệ xà phòng, làm vecni. Cứ 100 kg  
nhựa trám sau khi chưng cất cho 18-20 kg tinh dầu và 50-60 kg colophan (Đỗ Tất  
Lợi, 1995).  
Hiện nay thị trường quả trám đang được mở rộng, cung không đủ cầu, giá thu  
mua quả Trám trắng khoảng 6.000 - 8.000 đ/kg quả tươi (Triệu Văn Hùng, 2007).  
Trám đen (Canarium tramdemum Dai & Yakovlev, hoc C. nigrum (Lour)  
Engler), hoặc Canarium pimaela Leenh). Trám đen là cây gỗ lớn, song kích thước  
nhỏ hơn Trám trắng, cây có chiều cao 25 - 30 m, đường kính trên 90 cm, thân tròn  
thẳng, tán rộng và xanh quanh năm (Lê Mộng Chân và cs., 2000). Lá kép lông  
chim một lần lẻ, lá chét hình thuôn trái xoan, dài 6 - 12 cm, rộng 3 - 6 cm. Cụm hoa  
chùm, viên chùy. Hoa tạp tính hay đơn tính màu vàng nhạt. Quả hạch hình trứng,  
dài 3,5 - 4,5 cm, đường kính quả 2,0 - 2,5 cm (thực ra, mô tả về kích thước quả  
của các tác giả Trung Quốc như phần trên là sát với thực tế hơn, vì Trám đen có  
quả hình trứng hẹp, trong khi Trám trắng có quả hình trứng hơi bầu). Khi chín  
quả Trám đen có màu đen sẫm (vì thế có tên là Trám đen), thịt quả mầu hồng. Hạt  
hóa gỗ rất cứng, có 3 ô, mỗi ô có 1 nhân màu trắng (Vũ Văn Dũng et al, 2009).  
Trám đen có phân bố tự nhiên từ Nam Trung Quốc đến Việt Nam. Ở Việt  
Nam cây mọc trong rừng thứ sinh ở hầu hết các tỉnh miền Bắc và miền Trung: Phú  
Thọ, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Nghệ An, Quảng Bình,... (Nguyễn Tiến  
Bân, 2003). Tuy vậy, theo công bố mới đây thì Trám đen có phân bố chủ yếu cũng  
ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam như Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Nghệ An,  
Hà Tĩnh, Quảng Bình (Vũ Văn Dũng et al, 2009).  
Trám đen trồng 5 - 6 năm bắt đầu ra hoa, cây ra hoa vào tháng 4 - 5, thu hái  
quả tháng 9 - 11. Khi quả chín vỏ thường có mầu tím đen. Số lượng quả Trám đen  
trong 1 kg là 200 - 300, số lượng hạt là 350 - 400 hạt/kg (Công ty giống và phục  
vụ trồng rừng, 1995).  
Trám đen là cây ưa sáng mọc nhanh, ưa đất thịt pha, tầng đất dày, độ ẩm trung  
13  
bình, mọc nhiều ở những nơi độ dốc thấp, cá biệt có thể sống trên cả đất sỏi (Trần  
Hợp, 2002) và có thể trồng theo phương thức nông lâm kết hợp: 2 - 3 năm đầu có  
thể xen cây nông nghiệp như Lạc, Lúa, Đỗ, Sắn... (Cục Lâm nghiệp, 2007). Đây là  
cây đa tác dụng, quả sau khi ngâm (om qua nước nóng) ăn rất ngon. Quả tươi giã  
lấy nước uống giải độc do ăn phải cá nóc hoặc cá thối, chữa hóc xương cá. Quả khô  
tán bột, rắc chữa nứt nẻ da, lở miệng và trị sâu răng... (Võ Văn Chi, 1997). Vì thế  
quả Trám đen được tiêu thụ ở nhiều thị trường trong nước chủ yếu là ở dạng thực  
phẩm ăn tươi.  
Nhu cầu thi tường vquả Trám đen rất lớn, trong khi lượng quả bán ra chưa  
nhiu nên quả tươi Trám đen có giá cao hơn Trám trắng, khoảng 10.000 - 12.000  
đ/kg quả tươi, trong khi giá quả tươi Trám trắng là 6.000-8.000 đ/kg (Triệu Văn  
Hùng, 2007).  
Các nghiên cứu về chọn giống lấy quả, lâm sinh và sử dụng gỗ  
Từ năm 1993 Bộ Lâm nghiệp đã ban hành Quy pham xây dựng rừng giống và  
vườn giống, trong đó mới đề cập đến các tiêu chuẩn chọn cây trội để lây gố (Bộ  
Lâm nghiêp, 1993). Sau này, trong Tiêu chuẩn công nhận giống (Bộ  
NN&PTNT,1998, 2003) đã đề cấp đến tiêu chuẩn chọn cây trội để lấy các sản  
phẩm ngoài gỗ nói chung mà chưa nêu cụ thể. Đến tiêu chuẩn công nhận giống  
gần đây (Bộ NN&PTNT,2006) mới có quy định vtiêu chuẩn chọn cây trội để lấy  
sản phẩm ngoài gỗ từ rừng trồng và từ trồng cây phân tán.  
Nghiên cứu về chọn giống Trám trắng lấy quả đã được Hoàng Thanh Lộc  
(2001 - 2005) tiến hành tại tỉnh Phú Thọ, đã chọn được 20 cây trội sai quả, trong  
đó có một cây 30 năm tuổi nhiều quả nhất có thể đạt 300 kg quả. Các cây ghép từ  
các cây trội này mới được trồng trong vườn tập hợp các dòng vô tính tại khu Văn  
phòng của Công ty cổ phần giống lâm nghiệp vùng Bắc Bộ (ở Trạm Thản - Phú  
Thọ) cho thấy trong 20 cây được chọn ban đầu sau 4 năm chỉ một số cây có quả,  
trong đó chỉ 3 cây có nhiều quả nhất. Tuy vậy, chưa được khảo nghiệm ở giai đoạn  
tiếp theo để xác định tính ổn định di truyền của chúng và chưa có những nghiên  
cứu vchất lượng quả của những cây sai quả này.  
Vin Ci thiện giống và Phát triển lâm sản hiện cũng đang tiến hành khảo  
nghiệm tại Bắc Kạn cho một số dòng Trám trắng lấy từ Trm Thản (đây là một  
phần của dự án "Trng thử nghiệm và xây dựng mô hình một số cây lâm nghiệp  
14  
cho năng xuất cao tại tỉnh Bắc Kạn").  
Kết quả nghiên cứu về hạt giống một số vùng khác nhau trong đề tài "Nghiên  
cứu kỹ thuật trồng rừng Trám trắng" của Viện Khoa học Lâm nghiệp 1995 - 1999  
cho thấy Trám trắng phân bố tại vùng Hòa Bình có chất lượng hạt giống tốt nhất, ở  
giai đoạn vườn ươm cây con sinh trưởng khỏe mạnh và vượt trội so với các vùng  
khác. (Phạm Đình Tam, 2000, Báo cáo tổng kết đề tài).  
Trần Đức Mạnh (2007) đã nghiên cứu kỹ thuật trồng rừng Trám đen phục vụ  
mục tiêu lấy gỗ và lấy quả, nhưng mới chỉ nghiên cứu chọn cây mẹ, kỹ thuật ghép  
cây và phương thức trồng rừng mà chưa nghiên cứu chọn giống theo hướng chọn  
lọc cây trội một cách đầy đủ và khảo nghiêm giống theo các quy định cần thiết,  
việc trồng rừng lại theo phương thức trồng hỗn giao để lấy gỗ nên vẫn không  
mang lại kết quả mong muốn vchọn giống lấy quả.  
Trám trắng và Trám đen đã được nhân dân ta ở miềm Bắc trồng từ trước  
những năm 1950. Từ những năm 60 có nơi đã trồng hàng chục hecta như Lạc  
Thủy - Hòa Bình trồng thuần loại khoảng 30 ha. Trồng từ năm 1980 - 1981 đến  
năm 1998 đường kính bình quân đạt 18 - 19 cm, chiều cao bình quân đạt 17 - 18 m  
(Nguyễn Bá Chất, 1998).  
Từ thập niên 60 đến nay nhiều công trình nghiên cứu tập trung vào các giải  
pháp kỹ thuật lâm sinh, điển hình là nghiên cứu gây trồng Trám trắng tại Cầu Hai  
và Hữu Lũng của Nguyễn Văn Lê, Lưu Phạm Hoành (1961 - 1966) đã gây trồng 5  
- 10 ha thuần loại hoặc theo băng. Giai đoạn đầu sinh trường nhanh nhưng từ tuổi  
7 trở lên lượng tăng trưởng hàng năm chậm dần, có nơi bị sâu đục ngọn phá hoại  
thường xuyên (Nguyễn Bá Chất, 1998).  
Nghiên cứu phòng trừ sâu đục ngọn Trám đã phát hin được sâu Vòi Voi đục  
búp trám thuộc họ Curculionidae, bộ Coleoptera và đã đưa ra hình thái, tập tính  
sinh học và phương pháp phòng trừ như dùng bẫy đèn lúc 6 - 7 giờ, dùng vợt và rỏ  
tre đi rung từng cây hứng sâu trưởng thành và bắt giết, dùng thuốc bột thấm nước  
666 loại 6% nồng độ từ 1/200 - 1/250 phun vào búp hoặc dùng thuốc sữa DDT 5%  
nồng độ 1/150 phun ướt búp ngọn trám (Trần Đình Hạnh,1965; Đặng Văn A,  
1968).  
Nghiên cứu về khai thác và chế biến nhựa trám đã đưa ra phương pháp khai thác  
dưỡng sinh với nguyên tắc thượng hành tức làcắt dần từ dưới lênđể đón lấy dòng nhựa  
15  
luyện từ trên xuống, sản lượng nhựa thu được phụ thuộc vào sự sinh trưởng và phát  
trincủa từng cây (Bùi Minh Thanh, 1965).  
Từ năm 1995 đến 1999 nhóm cán bộ Phạm Đình Tam, Trần Lâm Đồng và  
Nguyễn Sỹ Đương (năm 1998) đã nghiên cứu biện pháp kỹ thuật lâm sinh để trồng  
rừng Trám trắng phục vụ mục tiêu cung cấp gỗ công nghiệp. Đề tài đã đề xuất  
được phương thức trồng và chọn loài cây phù trợ phù hợp để xây dựng rừng Trám  
theo hướng cung cấp gỗ công nghiệp. Sau đó cũng nhóm cán bộ này đã xây dựng  
“Quy phạm kỹ thuật trồng rừng Trám trắng(Bộ NN&PTNT, 2001).  
Nghiên cứu vtrồng Trám trắng hỗn loại với các loài cây lá rộng bản địa cho  
thấy so với trồng thuần loại thì trồng hỗn loại Trám trắng có tỷ lệ sống cao hơn, tỷ  
lệ sâu đục ngọn giảm, sinh trưởng tốt hơn nhưng so với các loài khác thì trám có  
sinh trưởng kém hơn (Hoàng Văn Thắng, Nguyễn Bá Chất và cs., 2005). So sánh  
sinh trưởng của phương thức trồng hỗn giao giữa Trám trắng và Lát hoa với trám  
thuần loại lại cho thấy tỷ lệ sống và sinh trưởng của phương thức hỗn giao kém  
hơn trồng thuần loại. Trám trồng thuần loại đạt tỷ lệ sống 92 % và trữ lượng là  
5,58 m3/ha trong khi đó Trám với Lát đạt tỷ lệ sống 87% và trữ lượng 4,25 m3/ha  
(Huỳnh Đức Nhân và cs., 2006).  
Nghiên cứu của Phạm Đình Tam, Trn Đức Mạnh, Phạm Đình Sâm (2000 -  
2005) vchọn lập địa, kỹ thuật trồng rừng Trám với mục đích lấy gỗ và lấy quả đã  
cho thấy trồng Trám ở Hòa Bình tốt hơn ở Đại Lải và Vĩnh Phúc và đi đến nhận  
định là Trám không nên trồng ở lập địa xấu, tầng đất mỏng, các chỉ tiêu hóa tính  
dưới trung bình (Tiêu chuẩn nghành 04 TCN 24-2001). Tuy vậy, đáng tiếc là các  
tác giả đã không nêu rõ các nghiên cứu vchọn giống lấy quả và khảo nghiệm  
giống.  
Trước đây gỗ Trám trắng và Trám đen đều phân vào nhóm 7 (Bộ Lâm nghiệp,  
1977), nhưng theo Nguyễn Đình Hưng (1999) thì Trám trắng gỗ có thớ mịn, vân  
đẹp được phân vào gỗ nhóm 1 dùng làm gỗ dán. Nghiên cứu của Viện Khoa học  
Lâm nghiệp Việt Nam (2002) cho thấy tỷ trọng gỗ của Trám trắng là 0,59, Trám  
đen 0,73, Tuy vậy, số liệu này chưa ghi rõ độ ẩm của mẫu gỗ khi xác định tỷ trọng  
và có thể hơi cao.  
16  
Chƣơng 2. MỤC TIÊU, NỘI DUNG, VẬT LIỆU, ĐỊA ĐIỂM  
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
2. 1. Mục tiêu nghiên cứu  
2.1.1. Mục tiêu tổng quát:  
- Tăng thêm nguồn giống cây rừng ăn quả cho người dân, đa dạng hóa giống cây  
cho trồng rừng kinh tế, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân  
tỉnh Hòa Bình và các vùng lân cận.  
2.1.2. Mục tiêu cụ thể:  
- Chọn được cây trội Trám trắng và Trám đen sai quả tại Hòa Bình và vùng lân  
cận có lượng quả vượt trội so với cây chung quanh 15 %.  
- Xây dựng được vườn tập hợp nguồn giống kết hợp với khảo nghiệm giống và mô  
nh Trám trắng tại Hòa Bình.  
- Xây dựng được quy trình kỹ thuật nhân giống và gây trồng Trám trắng lấy quả.  
17  
2. Nội dung nghiên cứu  
Nội dung1: Điều tra, đánh giá tình hình trồng trám lấy quả và nhu cầu cây giống  
của người dân ở tỉnh Hòa Bình.  
Nội dung 2: Nghiên cứu tuyển chọn giống trám sai quả, nhân giống và trồng mô  
hình  
- Nghiên cứu tuyển chọn giống Trám trắng và Trám đen sai quả tại Hòa Bình và  
một số tỉnh miền Bắc.  
- Nghiên cứu nhân giống bằng phương pháp ghép.  
- Xây dựng mô hình trồng Trám trng và Trám đen Bình Thanh (Hòa Bình), Ba Vì  
(Hà Nội) và Chí Linh (Hải Dương).  
Nội dung 3: Nghiên cứu biện pháp thâm canh và xây dựng quy trình kỹ thuật nhân  
giống và gây trồng.  
- Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật thâm canh cho giống đã trồng tại Phú Thọ.  
- Xây dựng quy trình kỹ thuật về nhân giống và trồng trám lấy quả.  
Nội dung 4: Tập huấn kỹ thuật cho nông dân vkỹ thuật nhân giống và trồng trám  
18  
2.3. Vật liệu nghiên cứu  
2.3.1. Vật liệu tuyển chọn cây trội sai quả  
- Vật liệu tuyển chọn cây trội sai quả là các cây Trám trắng, Trám đen có nguồn  
gốc từ hạt và từ cây ghép được trồng phân tán trong các hộ gia đình thuộc các  
huyện Kim Bôi, huynKỳ Sơn, huyện Cao phong và một số xã thuộc thành phố  
Hòa Bình.  
- Vật liệu cho đánh giá về chất lượng hình thái của quả xác định thành phần  
dinh dưỡng trong cùi qulà các cây trội Trám trắng, Trám đen được chọn tuyển  
năm 2009 tại các huyện Kim Bôi, KSơn, Cao Phong, thành phHoà Bình và  
một sdòng vô tính Tr ám trắng được tuyển chọn tại vườn trám ghép Phú Th.  
2.3.2. Vật liệu nghiên cứu nhân giống bằng phương pháp ghép  
Cành ghép được thu thập từ các dòng vô tính Trám trắng s5, 6,13, 21, 25 trồng  
tại Ba Vì (Hà Nội), các dòng này có nguồn gốc từ vườn tập hợp các dòng vô tính  
tại Trm Thản (Phú Thọ).  
2.3.3. Vật liệu cho xây dựng mô hình trồng bằng cây Trám ghép tại Hoà Bình,  
Ba Vì, Chí Linh  
Vật liệu để xây dựng các mô hình trồng tại Ba Vì, Hòa Bình và Chí Linh là các  
cây ghép của các dòng vô tính Trám trắng s5, 6, 13, 21, 25 có nguồn gốc tại Phú  
Th; 13 dòng vô tính Tr ám trắng có nguồn gốc t13 cây trội Trám trắng và 6  
dòng vô tính Trám đen có nguồn gốc t6 cây trội Trám đen được chọn tại Hoà  
Bình năm 2009.  
2.3.4. Vật liệu cho nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật thâm canh cho vườn  
Trám ghép  
- Vật liệu cho nghiên cứu ảnh hưởng thời vbón và lượng phân bón đến lượng  
qu.là 4 dòng vô tính Trám trắng s6, 11, 13, 25 trong vườn cây trám ghép được  
trồng năm 2002 tại Tr ạm Thản, Phù Ninh, Phú Th.  
- Vật liệu cho nghiên cứu ảnh hưởng của tỉa cành và phân bón đến lượng qu.là 5  
dòng vô tính Tr ám trắng s10, 14, 17, 22, 23 trong vườn cây Trám ghép được  
trồng năm 2002 tại Trạm Thản, Phù Ninh, Phú Th.  
2.4. Địa điểm nghiên cứu  
19  
2.4.1. Địa điểm khảo sát đánh giá tình hình trồng trám lấy quả và nhu cầu cây  
giống:  
- Các hộ gia đình thuộc các huyn Kim Bôi, Kỳ Sơn, Cao phong và một số xã  
thuộc thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.  
2.4.2. Địa điểm tuyển cây trội trám trắng, Trám đen sai quả:  
- Tại các vườn hộ gia đình thuộc các huyện huyện Kim Bôi, Kỳ Sơn, Cao phong  
và một số xã thuộc thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.  
2.4.3. Địa điểm nghiên cứu nhân giống bằng phương pháp ghép:  
- Tại vườn ươm Cẩm Quỳ, trạm Cẩm Quỳ thuộc Trung Tâm nghiên cứu giống cây  
rừng - Vin Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam.  
2.4.4. Địa điểm xây dựng mô hình trồng Trám trắng, Trám đen:  
- Mô hình khảo nghiệm giống kết hợp với vườn quả:  
+ Tại trạm giống Bình Thanh thuộc Trung tâm giống cây trồng tỉnh Hòa  
Bình., diện tích 1 ha.  
+ Tại hộ gia đình Ông Quách Hữu Đức, thôn Văn Minh, Xã Cam Thượng,  
Ba Vì , Hà Nội; diện tích 0,5 ha.  
+ Tại trang trại của Ông Nguyễn Đình Thi, Khu Ao Lân, Xã Cộng Hòa,  
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương: diện tích 0,3ha.  
- Mô hình trồng vườn quả:  
+ Tại 5 hộ gia đình: ông Nguyn Văn Tấn, ông Hoàng Đồng Tới, ông  
Nguyễn Văn Thường, ông Trần Văn Sĩ, ông Phùng Công Luyện, thuộc thôn Phú  
Phong, xã Cẩm Lĩnh, huyên Ba Vì, Hà Nội; tổng diện tích tại 5 hộ gia đình là 0,5  
ha.  
2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu  
2.4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu tuyển chọn giống Trám sai quả  
Chọn cây trội:  
Chn lọc cây trội theo hướng lấy quả: theo “Tiêu chuẩn công nhận giống cây trồng  
lâm nghiệp” (Tiêu chuẩn nghành 04TCN147-2006, ban hành kèm theo Quyết định  
số 4108 QĐ/BNN-KHCN ngày 29 tháng 12).  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 59 trang yennguyen 02/04/2022 5481
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu vốn vay ADB - Đề tài: Chọn giống và phát triển giống trám lấy quả tại Hoà Bình và một số tỉnh phía Bắc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbao_cao_tong_ket_de_tai_nghien_cuu_von_vay_adb_de_tai_chon_g.pdf