Báo cáo Chuyên đề Kinh nghiệm quốc tế và các đề xuất sửa đổi khung pháp lý về định giá rừng tại Việt Nam
B Á O C Á O C H U Y Ê N Đ Ề
Kinh nghiệm quốc tế và các đề xuất sửa đổi
khung pháp lý về định giá rừng tại Việt Nam
Vũ Tấn Phương
Phạm Thu Thủy
Lê Ngọc Dũng
Đào Thị Linh Chi
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ 168
Kinh nghiệm quốc tế và các đề xuất sửa đổi
khung pháp lý về định giá rừng tại Việt Nam
Vũ Tấn Phương
Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam
Phạm Thu Thủy
CIFOR
Lê Ngọc Dũng
CIFOR
Đào Thị Linh Chi
CIFOR
Tổ chức Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR)
Báo cáo chuyên đề 168
© 2017 Tổ chức Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR)
Nội dung trong ấn phẩm này được cấp phép bởi giấy phép Tài sản sáng tạo công cộng quốc tế 4.0 (CC BY
ISBN 978-602-387-052-3
DOI: 10.17528/cifor/006404
Phương VT, Phạm TT, Lê ND và Đào TLC. 2017. Kinh nghiệm quốc tế và các đề xuất sửa đổi khung pháp lý về định giá rừng
tại Việt Nam. Báo cáo chuyên đề 168. Bogor, Indonesia: CIFOR.
Ảnh chụp bởi Manuel Boissiere/CIFOR.
CIFOR
Jl. CIFOR, Situ Gede
Bogor Barat 16115
Indonesia
T +62 (251) 8622‑622
F +62 (251) 8622‑100
E cifor@cgiar.org
cifor.org
Chúng tôi xin cảm ơn các nhà tài trợ đã hỗ trợ cho nghiên cứu này thông qua việc đóng góp vào quỹ của CGIAR. Xin xem
Tất cả các quan điểm thể hiện trong ấn phẩm này là của các tác giả. Chúng không nhất thiết đại diện cho quan điểm của
CIFOR, các cơ quan chủ quản của tác giả hay của các nhà tài trợ cho ấn phẩm này.
Mục lục
Các từ viết tắt
Lời cảm ơn
Tóm tắt
v
vii
viii
1 Giới thiệu
1
3
2 Phương pháp
3 Kết quả
5
5
16
3.1 Bài học kinh nghiệm quốc tế
3.2 Định giá rừng ở Việt Nam
4 Các khuyến nghị chính sách và các tác động tiềm năng
4.1 Các khuyến nghị chính sách
32
32
32
33
34
4.2 Đề xuất cải thiện thực hiện định giá rừng hiện nay
4.3 Tác động tiềm năng của sửa đổi chính sách định giá rừng
4.4 Lồng ghép DVMT vào quản lý rừng quốc gia
5 Kết luận
35
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
36
39
iv
Danh mục hình, bảng và hộp
Hình
1
2
3
4
Khung đánh giá tổng giá trị kinh tế của rừng
7
25
25
26
Khó khăn của địa phương trong thực hiện định giá rừng
Nhu cầu định giá rừng cho các mục đích kinh doanh và quản lý rừng
Ý kiến về các giá trị của rừng trong định giá rừng
Bảng
1
2
3
4
5
Số lượng người tham vấn ở ái Nguyên và anh Hóa
3
15
20
23
27
Các ưu tiên và phương pháp định giá DVMT
Các văn bản pháp luật liên quan đến định giá rừng
Một số văn bản địa phương liên quan đến giá rừng
Đánh giá của các bên liên quan về triển khai định giá rừng
Hộp
1
Ví dụ từ châu Âu
10
11
2
Châu Âu- Nghị quyết H1 “Những hướng dẫn chung cho quản lý rừng
bền vững ở châu Âu”
3
4
Biên bản ghi chép của Nhà Trắng về DVMT tháng 10 năm 2015 được ký bởi Tổng thống 13
Sự công nhận dịch vụ môi trường rừng trong luật pháp quốc gia/khu vực. Sự tham
khảo cơ chế PES trong luật pháp quốc gia – trường hợp nghiên cứu tại châu Âu
Đấu giá (trích dẫn trực tiếp từ tài liệu và hướng dẫn của ICRAF)
14
16
5
v
Các từ viết tắt
BV&PTR
BTTN
BĐKH
CO2e
Bảo vệ và phát triển rừng
Bảo tồn thiên nhiên
Biến đổi khí hậu
Khí các bon níc tương đương
Khí các bon níc
CO2
CDM
CIFOR
CVM
Cơ chế phát triển sạch
Tổ chức Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế
Phương pháp lượng giá ngẫu nhiên
Công ty lâm nghiệp
CTLN
DLST
DVMT
DVMTR
ĐDSH
ĐGR
Du lịch sinh thái
Dịch vụ môi trường
Dịch vụ môi trường rừng
Đa dạng sinh học
Định giá rừng
FAO
Tổ chức Nông lương Liên Hiệp Quốc
Đánh giá tài nguyên rừng
Tổ chức Hợp tác phát triển Đức
Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu
Tổ chức Nông Lâm ế giới
Khí nhà kính
FRA
GIZ
IPCC
ICRAF
KNK
LSNG
Lâm sản ngoài gỗ
NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông tôn
PES
Chi trả dịch vụ môi trường
PRA
Đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia
NN&PTNT Nông nghiệp và Phát Triển Nông ôn
NORAD
TCM
Cơ quan Hợp tác Phát triển Na Uy
Chi phí du lịch
UNFCCC
USD
Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu
Đô la Mỹ
vi
UBND
VQG
Ủy ban nhân dân
Vườn Quốc Gia
Sẵn lòng chi trả
WTP
WTA
Sẵn lòng chấp nhận
vii
Lời cảm ơn
Báo cáo này được thực hiện với sự hỗ trợ kỹ thuật và
tài chính của Tổ chức nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc
tế (CIFOR) từ dự án “Từ nghiên cứu biến đổi khí
hậu tới hành động trong bối cảnh quản trị đa cấp:
Xây dựng kiến thức và năng lực trên cấp độ cảnh
quan” do Bộ Môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học,
Xây dựng và an toàn hạt nhân (BMUB), Cơ quan
hợp tác và Phát triển Na Uy (Norad), Ủy ban Châu
Âu (EU), Chương trình nghiên cứu của CGIAR về
Rừng, Cây và nông lâm kết hợp (CRP-FTA). Báo
cáo này được hoàn thành với sự hỗ trợ của rất nhiều
người đã tham gia và đóng góp cho báo cáo.
trong quá trình thu thập số liệu, khảo sát tại thực địa
và tham vấn với các bên liên quan.
Xin cảm ơn sự hợp tác của Sở Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn tỉnh ái Nguyên, Ủy ban nhân dân
huyện Võ Nhai tỉnh ái Nguyên, Sở Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn tỉnh anh Hóa, Vườn Quốc
gia Ba Vì và Vườn quốc gia Bến En, anh Hóa về các
giúp đỡ và phối hợp trong quá trình khảo sát và tham
vấn tại thực địa.
Chúng tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới Sở
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Chi cục lâm
nghiệp, chi cục kiểm lâm các tỉnh: Hà Giang, Cao
Bằng, Phú ọ, Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh,
ái Bình, Hà Nam, anh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Bạc Liêu, Kiên Giang, An Giang, Bến
Tre, Cà Mau, Sóc Trăng, Tiền Giang, Vĩnh Long, Gia
Lai, Đắc Nông, Đắc Lắc, Phú Yên, Ninh uận, Bình
Phước và thành phố Hồ Chí Minh; các vườn quốc gia
Xuân ủy, Xuân Sơn, Tam Đảo, Cúc Phương, Bến
En, Cát Tiên, Bạch Mã, Côn Đảo, Phong Nha – Kẻ
Bàng, Vũ Quang, Kon Ka Kinh, Chư Ya Sin và Yok
Đôn; các KBTTN và KDTTN, gồm Nam Ka, Easô,
KBTTN Văn hóa Đồng Nai, Mường Nhé, Ngọc
Linh và Ban quản lý rừng đặc dụng Du Già về sự hỗ
trợ quý báu trong quá trình thu thập thông tin về hiện
trạng định giá rừng tại địa phương.
Xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác và các đóng góp
của của các nhà quản lý, các chuyên gia, các nhà khoa
học và các tổ chức trong quá trình hội thảo tham
vấn. Cảm ơn sự hỗ trợ của bà Vũ ị Hiền - Trung
tâm Nghiên cứu và Phát triển vùng cao và bà Lương
ị Trường - Trung tâm Vì sự phát triển bền vững
miền núi trong quá trình thực hiện tham vấn tại
các tỉnh ái Nguyên và anh Hóa. Chúng tôi
cũng xin chân thành cảm ơn ông Rachmat Mulia
(ICRAF) và bà Grace Wong (CIFOR) cũng đã đóng
góp những ý kiến quý báu cho báo cáo này.
Chúng tôi xin gửi làm cảm ơn trân trọng tới ông
Phạm Hồng Lượng, bà Vũ Lê Lương, ông Trần Ngọc
Bình và bà Nguyễn ị Hạnh về sự giúp đỡ hiệu quả
viii
Tóm tắt
chính sách lâm nghiệp để khuyến khích việc sử
dụng rừng đa mục đích và các chủ rừng cần được
khuyến khích hoặc thậm chí đền bù để cung cấp
và đảm bảo việc sử dụng rừng đa mục đích; (iii)
định giá dịch vụ môi trường cần được dựa trên
cả phương pháp tính toán khoa học và tham vấn
cộng đồng về vai trò và tác động của dịch vụ môi
trường đến việc sử dụng đất hiện tại và tương lai
cũng như sinh kế địa phương (iv) việc xem xét sự
hài hòa giữa các dịch vụ môi trường khác nhau
quan trọng hơn đánh giá kinh tế của từng dịch vụ
đơn lẻ.
Báo cáo này được xây dựng nhằm tổng hợp các bài
học kinh nghiệm quốc tế về chính sách định giá
rừng, đánh giá hiện trạng thực hiện xác định giá
rừng theo quy định tại Luật BV&PTR 2004 và đề
xuất các sửa đổi trong dự thảo Luật Bảo vệ và Phát
triển rừng sẽ được trình vào năm 2017. Báo cáo
được xây dựng dựa trên số liệu thu thập được từ: (1)
nghiên cứu và phân tích các tài liệu và văn bản pháp
luật liên quan đến định giá rừng của thế giới cũng
như tại Việt Nam; (2) phiếu điều tra với 27 tỉnh, 13
VQG và 6 khu BTNN trên cả nước; (3) phỏng vấn
sâu với 90 cán bộ đến từ các bên liên quan gồm cơ
quan quản lý, các vườn quốc gia, khu bảo tồn, ủy ban
nhân dân huyện, sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, các công ty tư nhân thuê rừng kinh doanh du
lịch sinh thái (3 ở cấp trung ương; 48 ở cấp tỉnh, 34
ở cấp huyện; 5 ở cấp xã và 3 ở cấp thôn). Có hơn 24
văn bản pháp luật liên quan được rà soát và phân
tích, đồng thời có 46 phiếu hỏi được các tỉnh, VQG
và KBTTN phản hồi. Dưới đây trình bày các phát
hiện chính về kinh nghiệm quốc tế, kết quả phân
tích các văn bản pháp luật về xác định giá rừng,
thực trạng định giá rừng và các đề xuất sửa đổi Luật
BV&PTR liên quan đến định giá rừng
• Định giá dịch vụ môi trường rừng trong chính
sách lâm nghiệp cần dựa trên 4 nguyên tắc chính:
(i) Các dịch vụ môi trường cần được đánh giá
thông qua góc nhìn đa mục đích và với cả giá trị
từ gỗ và ngoài gỗ và trong bối cảnh sự đóng góp
của rừng và các ngành lâm nghiệp để tăng trưởng
xanh (ii) định giá dịch vụ môi trường rừng cần
phải được gắn vào các chính sách lâm nghiệp để
khuyến khích việc sử dụng rừng đa mục đích và
các chủ rừng cần được khuyến khích hoặc thậm
chí đền bù để cung cấp và đảm bảo việc sử dụng
rừng đa mục đích; (iii) định giá dịch vụ môi
trường cần được dựa trên cả phương pháp tính
toán khoa học và tham vấn cộng đồng về vai trò
và tác động của dịch vụ môi trường đến việc sử
dụng đất hiện tại và tương lai cũng như sinh kế
địa phương (iv) việc xem xét sự hài hòa giữa các
dịch vụ môi trường khác nhau quan trọng hơn
đánh giá kinh tế của từng dịch vụ đơn lẻ.
Kinh nghiệm quốc tế trong việc lồng ghép định giá
rừng vào chính sách
• Định giá dịch vụ môi trường rừng giúp cho các
nhà hoạch định chính sách tối ưu hóa việc đầu
tư rừng, tối ưu dịch vụ từ rừng và giá trị dịch vụ
môi trường của hệ sinh thái rừng, điều chỉnh tài
khoản nguồn tài nguyên rừng trong tài khoản
quốc gia.
ực trạng thực hiện định giá rừng ở Việt Nam:
• Luật BV&PTR 2004 lần đầu tiên đưa ra các
khái niệm về giá rừng, giá trị quyền sử dụng
rừng, quyền sở hữu rừng và giá rừng (Điều 1).
Tuy nhiên, khái niệm về giá rừng dựa trên giá trị
quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng là khái
niệm hẹp và chỉ bao gồm các lợi ích trực tiếp từ
việc sử dụng lâm sản theo quy định hiện hành.
Khái niệm này chưa tiếp cận theo quan điểm tổng
• Lồng ghép định giá dịch vụ môi trường rừng
trong chính sách lâm nghiệp cần dựa trên 4
nguyên tắc chính: (i) Các dịch vụ môi trường cần
được đánh giá thông qua góc nhìn đa mục đích
và xem xét cả giá trị từ gỗ và ngoài gỗ và nhìn từ
bối cảnh sự đóng góp của rừng và các ngành lâm
nghiệp để tăng trưởng xanh (ii) định giá dịch
vụ môi trường rừng cần phải được gắn vào các
ix
tiết (62% ý kiến); (2) Chưa rõ về phương pháp
định giá rừng (21% ý kiến); (3) iếu kinh phí
thực hiện (56%) và (4) iếu năng lực thực hiện
(48%). Kết quả khảo sát và tham vấn tại các tỉnh
cũng khẳng định nhu cầu cao về thực hiện định
giá rừng cho các mục đích giao dịch và quản
lý rừng. Trong đó, cho thuê môi trường rừng
(63-100%); đền bù khi thu hồi, chuyển đổi rừng
(chiếm 67-78% ý kiến); đền bù rừng do hành vi
phá hoại rừng (59-85%) và xác định giá trị tài sản
(50-69%).
giá trị kinh tế của rừng, do đó các giá trị DVMT
của rừng chưa được đề cập trong giá rừng. Các
quy định về giá rừng đề cập đến việc ban hành
nguyên tắc và phương pháp xác định giá rừng,
hình thành giá rừng và trách nhiệm thực hiện xác
định giá rừng (Điều 33); các quy định về đấu giá
quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng (Điều
34) và giá trị quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu
rừng khi Nhà nước giao rừng (Điều 35).
• Khung pháp lý về định giá rừng đã được quy định
tại Nghị định số 48/2007/NĐ-CP và ông tư
só 65/2008/TTLT-BNN-BTC. Đây là 2 văn bản
pháp lý quy định nguyên tắc và phương pháp xác
định giá các loại rừng. Trên cơ sở này, Ủy ban
nhân dân các tỉnh chịu trách nhiệm xây dựng và
ban hành khung giá rừng trên địa bàn tỉnh phục
vụ công tác quản lý và kinh doanh rừng.
• Tổ chức thực hiện và giám sát định giá rừng chưa
được quan tâm đúng mức ở cả cấp trung ương và
địa phương. Tại trung ương, chưa có Bộ phận đầu
mối theo dõi và giám sát về định giá rừng. Các
thông tin liên quan đến định giá rừng ở cấp Bộ là
rất ít và không được tổng hợp.
• Các ý kiến phản hồi và tham vấn về định giá rừng
cho rằng việc định giá rừng cần dựa trên quan
điểm xem xét toàn diện giá trị của rừng. Các giá
trị cần tính toán bao gồm việc xác định giá trị sử
dụng trực tiếp (chiếm 81 - 85% ý kiến); tiếp đến
là xác định các giá trị gián tiếp hay giá trị DVMT
rừng (83-100%) và giá trị văn hóa lịch sử (44-
69%). Trong các loại giá trị này thì giá trị DVMT
và văn hóa, lịch sử được đánh giá cao tại các
VQG khảo sát. Số liệu cũng cho thấy nhận thức
về giá trị của rừng, đặc biệt là các giá trị gián tiếp
đã có những thay đổi đáng kể.
• Triển khai thực hiện định giá rừng ở địa phương
chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Khảo sát
44 tổ chức (26 tỉnh, 14 VQG và 4 khu BTTN)
cho thấy có chỉ 15 đơn vị đã tiến hành định giá
rừng và ban hành khung giá rừng. Tuy nhiên,
khung giá rừng chủ yếu đề cập đến giá trị lâm sản
và mức độ chi tiết của khung giá rừng là rất khác
nhau. Ngoài ra việc áp dụng khung giá rừng do
tỉnh đưa ra cũng gặp nhiều khó khăn bao gồm:
(1) khung giá được ban hành không thể hiện
được giá trị của rừng tại thời điểm ban hành do
việc ban hành văn bản thường ra chậm từ 1-2
năm so với báo cáo đề xuất khung giá; (2) các
cơ quan áp dụng tính giá rừng dựa trên các định
mức về giá do Sở tài chính đưa ra và chưa phản
ánh thị trường;
• Công khai khung giá rừng và đấu giá các loại rừng
khá hạn chế. Khung giá rừng chủ yếu được hình
thành thông qua các cơ quan quản lý Nhà nước,
do đó giá rừng có thể sẽ không phản ánh đúng
quy luật thị trường. Tuy nhiên, việc áp dụng cơ
chế thị trường trong xác định giá rừng, đặc biệt
là rừng đặc dụng và rừng phòng hộ đang gặp khó
khăn do hạn chế thị trường trao đổi và quyền sử
dụng rừng.
Kết quả tham vấn trực tiếp tại tỉnh anh Hóa và
ái Nguyên phản ánh khá tương đồng với kết quả
khảo sát ở các tỉnh. Những phát hiện chính qua quá
trình tham vấn tại cấp tỉnh, huyện, xã bao gồm:
• Các thuận lợi trong việc định giá rừng: các địa
phương cho rằng định giá rừng sẽ làm rõ hơn vai
trò của ngành lâm nghiệp đối với nền kinh tế
quốc gia dựa trên xem xét, đánh giá giá trị toàn
diện của rừng đối với đời sống và bảo vệ môi
trường. Định giá rừng là nhu cầu thực tiễn hiện
nay, nhằm thúc đẩy kinh doanh môi trường rừng,
phát triển du lịch sinh thái, góp phần phát triển
kinh tế xã hội.
• Quan điểm về giá trị rừng tại cấp cơ sở: Hiện
nay giá trị rừng chưa được xem xét một cách đầy
đủ do chỉ tính đến các giá trị lâm sản. Giá trị đền
bù do phá hoại rừng hoặc chuyển đổi rừng mới
chỉ dựa trên giá trị đầu tư như cây giống, công
chăm sóc, bảo vệ, vv. và chưa bao gồm các giá trị
môi trường của rừng.
• Hướng dẫn, quy định về việc thực hiện định
giá rừng: Các hướng dẫn mới chỉ đưa ra các
phương pháp xác định giá rừng dựa trên giá trị
lâm sản và chưa đề cập đến phương pháp lượng
giá giá trị môi trường. Các hướng dẫn chưa chi
tiết dẫn đến việc thực hiện khó khăn, đặc biệt
các quy định về xác định giá đền bù rừng do các
• Các đơn vị được khảo sát và tham vấn đều cho
rằng khó khăn trong việc triển khai định giá rừng
ở địa phương là: (1) thiếu văn bản hướng dẫn chi
x
• Cần quy định về định giá rừng, trong đó
định giá rừng là yêu cầu bắt buộc cung cấp
cơ sở về tổng giá trị kinh tế của rừng và là
một trong các cơ sở quan trọng để xác định
giá rừng cho các hoạt động giao dịch, kinh
doanh rừng và quản lý lâm nghiệp. Trách
nhiệm và nhiệm vụ của các bên liên quan
như Bộ NN&PTNT, UBND các tỉnh và các
chủ rừng trong hoạt động định giá rừng cần
được làm rõ.
• Cần quy định chi tiết (phương pháp, trình
tự thực hiện, trách nhiệm các bên liên quan,
vv) về xác định giá các loại rừng cho các hoạt
động kinh doanh rừng (DLST, nghỉ dưỡng,
vv) và giá các loại rừng liên quan đến quản lý
lâm nghiệp (đền bù do chuyển đổi rừng, xâm
hại rừng, thuế, phí). Đối với hoạt động kinh
doanh rừng và thị trường giao dịch sẵn có thì
cần tuân thủ nguyên tắc thị trường trong xác
định giá rừng (thông qua đấu giá công khai).
Với các loại hoạt động quản lý lâm nghiệp
(tính tiền đền bù, thuế, phí, vv.) thì cần xác
định giá dựa trên xem xét tổng giá trị kinh
tế của rừng và do các cơ quan có thẩm quyền
quyết định.
hành vi chuyển đổi rừng, phá hoại rừng, vv. Cộng
đồng địa phương không được tham gia vào quá
trình định giá rừng. Các thủ tục phê duyệt khung
giá rừng tại địa phương khá phức tạp và đôi khi
chậm, dẫn đến khung giá rừng chưa phản ánh
theo giá thị trường. Tại các địa phương, chưa quy
định rõ nguồn kinh phí và các quy định về định
mức cụ thể cho định giá rừng. Chưa có chính
sách hỗ trợ khối tư nhân trong việc thuê rừng.
• Về năng lực thực hiện định giá rừng: Năng lực
của các sở, ngành tại địa phương và các chủ rừng
liên quan đến triển khai định giá rừng là khá hạn
chế. Định giá rừng là vấn đề phức tạp, đòi hỏi
nhiều chuyên ngành như lâm nghiệp, kinh tế,
môi trường, vv.
Trên cơ sở tham vấn, các địa phương đề xuất một số
nội dung sau liên quan đến việc cải thiện định giá
rừng ở địa phương:
• Quan niệm về giá trị của rừng: Cần được xem
xét toàn diện trên quan điểm bao gồm các giá trị
lâm sản, môi trường, văn hóa và xã hội. Việc định
giá rừng là cần thiết để xác định giá rừng cho các
hoạt động giao dịch, kinh doanh rừng và các hoạt
động quản lý lâm nghiệp.
• Cần quy định về hoạt động theo dõi, giám
sát và công khai các kết quả về định giá rừng.
eo dõi, giám sát cần được thiết kế đồng bộ,
từ trung ương đến địa phương với phân công
trách nhiệm vụ rõ ràng.
• Tổ chức thực hiện: Xác định giá rừng cần tuân
thủ nguyên tắc thị trường. Trong quá trình xây
dựng giá không nên cố định một mức giá mà nên
mở. Ngoài bộ NN và PTNT, UBND các tỉnh
thành phố trực thuộc trung ương giám sát và còn
phải cho người dân có rừng giám sát việc định
giá định kỳ. Cần quy định rõ định giá rừng do
ai thực hiện? Ai đánh giá? Ai cấp kinh phí thực
hiện định giá rừng. Các cơ quan quản lý cần ban
hành giá sàn làm cơ sở xác định giá theo cơ chế
thị trường. Ngoài ra, cần tập trung xây dựng năng
lực cho các địa phương về định giá rừng và nên có
bộ phận chức năng tư vấn về định giá rừng. Cần
minh bạch hóa thông tin về định giá rừng như
các văn bản hướng dẫn, công khai giá rừng tại địa
phương, vv.
Đề xuất nâng cao hiệu quả thực hiện định giá
rừng tại địa phương
• Xây dựng các hướng dẫn chi tiết về định giá
rừng, bao gồm hướng dẫn về tổ chức thực
hiện, định mức liên quan đến thực hiện,
phương pháp, đặc biệt quan tâm đến các
phương pháp xác định giá trị môi trường
rừng, xác định giá rừng cho các mục đích cho
thuê rừng, đền bù rừng;
• Xây dựng năng lực cho các bên liên quan
bao gồm các cơ quan quản lý tại địa phương,
các chủ rừng là các tổ chức, các tổ chức phi
chính phủ.
• Hỗ trợ các địa phương xây dựng lộ trình và
triển khai định giá rừng, bao gồm xác định
các khu vực ưu tiên cần định giá; tư vấn về
định giá rừng, vv.
Đề xuất sửa đổi Luật BV&PTR về định giá rừng
• Cần làm rõ khái niệm giá trị của rừng và giá rừng.
Khái niệm về giá trị của rừng cần được tiếp cận
theo quan điểm tổng giá trị kinh tế để phản ánh
đầy đủ, khách quan và toàn diện các lợi ích kinh
tế trực tiếp và gián tiếp mà rừng mang lại. Khái
niệm đúng về giá trị của rừng sẽ quyết định đến
các vấn đề liên quan khác như phương pháp xác
định tổng giá trị kinh tế của rừng.
• Xây dựng cơ sở dữ liệu về định giá rừng phục
vụ hoạt động theo dõi, giám sát và công khai
kết quả định giá rừng tại các địa phương.
1 Giới thiệu
ực hiện quy định của Luật BV&PTR, Nghị định
số 48/2007/NĐ-CP của Chính phủ về nguyên
tắc và phương pháp xác định giá các loại rừng được
ban hành năm 2007. Tiếp đến, ông tư liên tịch
số 65/2008/TTLT-BNN-BTC về hướng dẫn thực
hiện và Nghị định 48/2007/NĐ-CP về nguyên
tắc và phương pháp xác định giá các loại rừng được
ban hành vào năm 2008. Đây là hai văn bản pháp lý
cao nhất hướng dẫn thực hiện xác định giá các loại
rừng ở Việt Nam. Các văn bản này cung cấp khá chi
tiết các nguyên tắc, phương pháp và tổ chức thực
hiện định giá rừng ở cấp trung ương và cấp tỉnh. Ba
phương pháp xác định giá rừng và các điều kiện áp
dụng được quy định, gồm phương pháp thu nhập,
phương pháp chi phí và phương pháp so sánh.
Sau hơn 10 năm thực hiện Luật BV & PTR và hơn
8 năm thực hiện Nghị định số 48 và ông tư 65
về xác định giá rừng cho các hoạt động kinh doanh
rừng và quản lý lâm nghiệp, đến nay chưa có một
báo cáo chính thức nào về đánh giá kết quả thực
hiện định giá rừng. Báo cáo này là sản phẩm đầu ra
của dự án “Từ nghiên cứu biến đổi khí hậu tới hành
động trong bối cảnh quản trị đa cấp: Xây dựng kiến
thức và năng lực trên cấp độ cảnh quan” do CIFOR
tổ chức thực hiện tại Việt Nam. Mục đích của báo
cáo này là rà soát lại các bài học kinh nghiệm quốc tế
về định giá rừng trên thế giới, rà soát chính sách về
định giá rừng ở Việt Nam, xác định các thuận lợi và
khó khăn trong việc thực hiện chính sách định giá
rừng và đưa ra các khuyến nghị cho việc sửa đổi Luật
Bảo vệ và Phát triển rừng 2004.
Sau hơn 10 năm triển khai Luật BV&PTR và hơn 7
năm triển khai 48/2007/NĐ-CP và ông tư liên
tịch số 65/2008/TTLT-BNN-BTC về xác định giá
rừng đã nảy sinh nhiều bất cập và hạn chế. Những
vấn đề này bao gồm quan điểm và khái niệm về giá
trị của rừng và giá rừng khá hẹp; công tác định giá
rừng ở địa phương diễn ra khá chậm và chưa đáp ứng
yêu cầu thực tiễn. Một trong các nguyên nhân hạn
chế tiến độ thực hiện định giá rừng nhằm thúc đẩy
các nhu cầu về giao dịch trong lâm nghiệp và quản lý
rừng là các quy định pháp lý và hướng dẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu trong tình hình mới.
Luật BV&PTR 2004 là văn bản pháp lý cao nhất
liên quan đến quản lý và phát triển rừng ở Việt Nam.
So với Luật BV&PTR 1991, Luật BV&PTR 2004
đã đề cập đến khái niệm về giá rừng và ứng dụng giá
rừng trong quản lý lâm nghiệp và các giao dịch liên
quan đến hoạt động sản xuất và quản lý trong lâm
nghiệp. Khái niệm về giá rừng đề cập trong Luật
BV&PTR gắn liền với quyền sử dụng rừng đối với
rừng tự nhiên do Nhà nước quản lý và quyền sở
hữu rừng sản xuất là rừng trồng. eo đó hai loại
giá trị rừng được định nghĩa là giá trị quyền sử dụng
rừng và giá trị quyền sở hữu rừng trồng là rừng sản
xuất. Giá rừng trên cơ sở đó được xác định trên cơ
sở giao dịch giá trị quyền sử rừng, giá trị quyền sở
hữu rừng trồng, hoặc được Nhà nước quyết định.
Luật BV&PTR 2004 cũng quy định rõ về giá rừng,
thẩm quyền xác định và ứng dụng giá rừng trong các
giao dịch và quản lý hoạt động lâm nghiệp như cho
thuê rừng kinh doanh du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng,
tính tiền sử dụng rừng, tiền bồi thường thiệt hại,
vv. (Điều 33, 34 và 35 Luật BV&PTR 2004). Một
yêu cầu quan trọng của Luật BV&PTR (Điều 33) là
“Chính phủ quy định nguyên tắc và phương pháp
xác định giá các loại rừng (khoản 1, Điều 33).
Hiện nay, cho thuê môi trường rừng, đặc biệt là ở các
khu rừng đặc dụng để kinh doanh du lịch sinh thái,
nghỉ dưỡng là đòi hỏi cấp bách của thực tiễn trong
tiến trình phát triển ngành lâm nghiệp nhằm khai
thác các giá trị tiềm năng của rừng, đặc biệt là các
giá trị dịch vụ môi trường rừng. Tuy nhiên chưa có
quy định cụ thể về định giá rừng và xác định giá rừng
cho hoạt động kinh doanh du lịch dẫn đến việc triển
khai cho thuê rừng còn nhiều bất cập.
Trong những năm gần đây Chính phủ đã ban hành
hàng loạt các văn bản luật và dưới luật nhằm tạo
2 | Vũ Tấn Phương, Phạm Thu Thủy, Lê Ngọc Dũng và Đào Thị Linh Chi
ra hành lang pháp lý quan trọng thúc đẩy việc sử
dụng có hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên
rừng và đất rừng, trong đó có một số định hướng
đối với hoạt động cho thuê môi trường rừng, kinh
doanh DLST, nghỉ dưỡng. Bên cạnh đó, quá trình
đổi mới các lâm trường quốc doanh cũng đặt ra
các yêu cầu về xác định giá trị của rừng và coi rừng
là một loại tài sản có thể sử dụng để góp vốn, thế
chấp. Một điều quan trọng khác là giá trị của các hệ
sinh thái rừng đang được xem xét đưa vào hệ thống
thống kê quốc gia nhằm làm rõ giá trị của rừng
không chỉ là các giá trị sử dụng trực tiếp, mà quan
trọng hơn là các giá trị môi trường. Trong bối cảnh
biến đổi khí hậu, các hệ sinh thái rừng cũng đóng
vai trò quan trọng không thể thay thế trong việc
giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu. Tuy
nhiên những giá trị này vẫn chưa được nhìn nhận
một cách đầy đủ. Tương tự, cùng với sự phát triển
kinh tế, xã hội, các giá trị của rừng về văn hóa, tín
ngưỡng, lịch sử cũng cần được đánh giá một cách
thỏa đáng.
Với những bất cập và những vấn đề mới nảy sinh
trong quá trình thực hiện Luật BV&PTR 2004 nói
chung và xác định giá rừng nói riêng, Luật BV&PTR
2004 dự kiến sẽ được xem xét và điều chỉnh trong
thời gian tới. Nhằm hỗ trợ việc chỉnh sửa và hoàn
thiện các nội dung liên quan đến định giá rừng và
xác định giá rừng nhằm tạo cơ sở pháp lý tốt hơn
cho các hoạt động giao dịch, kinh doanh rừng và
quản lý lâm nghiệp, báo cáo này được cấu trúc thành
6 phần. Sau phần giới thiệu này chúng tôi sẽ trình
bày về phương pháp nghiên cứu tại phần 2 và các
bài học kinh nghiệm quốc tế tại phần 3. Phần 4 sẽ
trình bày về kết quả rà soát các văn bản chính sách
hiện hành về định giá rừng tại Việt Nam cũng như
những khó khăn và thuận lợi trong quá trình thực
hiện tại địa phương. Phần 5 sẽ thảo luận các khuyến
nghị về sửa đổi chính sách. Chúng tôi kết thúc bài
viết này với một vài khuyến nghị thiết thực cho các
nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam trong việc
lồng ghép định giá dịch vụ môi trường rừng vào Luật
BV&PTR sắp tới.
2 Phương pháp
Nghiên cứu này áp dụng nhiều phương pháp nghiên
cứu tổng hợp, bao gồm nghiên cứu tài liệu thứ cấp,
sử dụng bảng hỏi để thu thập thông tin, phỏng vấn,
hội thảo tham vấn và chuyên gia.
Chi cục Kiểm lâm các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng,
Phú ọ, Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh, ái
Bình, Hà Nam, anh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Bạc Liêu, Kiên Giang, An Giang,
Bến Tre, Cà Mau, Sóc Trăng, Tiền Giang, Vĩnh
Long, Gia Lai, Đắc Nông, Đắc Lắc, Phú Yên, Ninh
uận, Bình Phước và thành phố Hồ Chí Minh;
13 vườn quốc gia, gồm Xuân ủy (Nam Định),
Xuân Sơn (Phú ọ), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Cúc
Phương (Ninh Bình), Bến En (anh Hóa), Cát
Tiên (Đồng Nai), Bạch Mã (ừa iên Huế),
Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu), Phong Nha – Kẻ
Bàng (Quảng Bình), Vũ Quang (Hà Tĩnh), Kon
Ka Kinh (Gia Lai), Chư Ya Sin (Đắc Lắc) và Yok
Đôn (Đắc Lắc); và 6 khu bảo tồn thiên nhiên, khu
bảo tồn thiên nhiên văn hóa, gồm Nam Kar (Đắc
Lắc), Easô (Đắc Lắc), KBTTN Văn hóa Đồng Nai
(Đồng Nai), Mường Nhé (Điện Biên), Ngọc Linh
(Kon Tum) và Ban quản lý rừng đặc dụng Du Già
(Hà Giang).
Nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Nghiên cứu các tài liệu
thứ cấp bao gồm hai bước là rà soát các tài liệu liên
quan và nghiên cứu sâu các tài liệu đến định giá rừng
và xác định giá rừng ở cả trong nước và quốc tế.
Các tài liệu rà soát và nghiên cứu gồm các văn bản
pháp luật (Luật, Nghị định, Quyết định của ủ
tướng, ông tư và các văn bản của các tỉnh) và các
tài liệu khoa học (bài báo, báo cáo, vv.). Qua rà soát
đã xác định 24 văn bản pháp luật liên quan trực tiếp
đến định giá rừng ở Việt Nam và các hoạt động liên
quan đến đến các giao dịch rừng (cho thuê rừng,
tính tiền sử dụng rừng, tiền bồi thường, vv.), trong
đó bao gồm 2 Luật, 4 Nghị định, 4 Quyết định của
ủ tướng Chính phủ, 3 ông tư và 11 văn bản
của tỉnh (nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh và
quyết định của UBND các tỉnh).
am vấn các bên liên quan: am vấn các bên
liên quan về thực trạng định giá rừng các các đề
u thập thông tin của các tỉnh thông qua bảng
hỏi: Phiếu hỏi được thiết kế nhằm thu thập nhanh
các thông tin liên quan đến thực hiện định giá rừng
và xác định giá rừng ở các tỉnh. Nội dung phiếu
phỏng vấn tập trung vào các vấn đề:
• ực trạng thực hiện định giá rừng và xác định
giá rừng
Bảng 1. Số lượng người tham vấn ở Thái Nguyên
và Thanh Hóa
TT Cấp
tham
VQG Thanh
Thái
Nguyên
Tổng
Ba Vì
Hóa
vấn
• Các giá trị của rừng được xem xét trong quá trình
định giá rừng
1
2
Cấp tỉnh
7
0
16
8
25
26
48
34
• Phương pháp xác định giá rừng và xác định giá
rừng
• Các khó khăn và thách thức về định giá rừng
• Các ưu tiên trong việc định giá rừng
Cấp
huyện
3
4
Cấp xã
0
0
5
3
0
0
5
3
Cấp
thôn
bản
Các bảng hỏi được gửi đến các Sở NN & PTNT các
tỉnh, các vườn quốc gia và khu bảo tồn. Tổng cộng
có 46 tổ chức trả lời phiếu phỏng vấn, trong đó có
27 phiếu từ Sở NN & PTNT, Chi cục Lâm nghiệp,
Tổng cộng
7
32
51
90
4 | Vũ Tấn Phương, Phạm Thu Thủy, Lê Ngọc Dũng và Đào Thị Linh Chi
xuất sửa đổi Luật BV & PTR liên quan đến định
giá rừng và xác định giá rừng được thực hiện bởi 2
tổ chức phi chính phủ: Trung tâm nghiên cứu và
phát triển vùng cao và Trung tâm Vì sự Phát triển
bền vững miền núi tại ái Nguyên, anh Hóa và
Vườn Quốc Gia Ba Vì. Các kết quả tham vấn cung
cấp bổ sung các thông tin đầu vào cho việc đề xuất
các sửa đổi Luật BV & PTR về định giá rừng và giá
rừng. Tổng số người tham vấn ở địa phương là 90
người (bảng 1).
báo cáo liên quan; phân tích và tổng hợp
các thông tin phản hồi trong các phiếu hỏi
của các tổ chức; phân tích các ý kiến và đề
xuất về kết quả tham vấn các bên liên quan
và tổng hợp, đánh giá và xây dựng báo cáo và
các đề xuất về sửa đổi Luật BV & PTR 2004.
Hội thảo tham vấn: 6 hội thảo tham vấn
được tổ chức tại 2 tỉnh ái Nguyên và
anh Hóa và 1 hội thảo quốc gia được tổ
chức tại Hà Nội nhằm chia sẻ các kết quả
nghiên cứu và lấy ý kiến đóng góp của các
bên có liên quan.
Phương pháp chuyên gia: Sử dụng trong phân tích,
đánh giá và tổng hợp các văn bản pháp luật và các
3 Kết quả
3.1 Bài học kinh nghiệm quốc tế
thiết và quan trọng của định giá dịch vụ môi trường
rừng, vẫn còn thiếu sự lồng ghép vấn đề này trong
khuôn khổ pháp lý. Hơn nữa, mặc dù có một số
lượng lớn các kết quả nghiên cứu trước đây đã đánh
giá giá trị của dịch vụ môi trường rừng, hầu hết
chúng chủ yếu tập trung vào gỗ và thị trường hàng
hóa trong một hệ sinh thái rừng ở mức độ rời rạc
trong khi giá trị cảnh quan, loài và mức độ di truyền
vẫn còn chưa được xem xét. êm vào đó, không
phải tất cả DVMTR đều có thể được định lượng và
thành tiền, ví dụ như như giá trị văn hóa, xã hội hoặc
bảo tồn đa dạng sinh học cho thế hệ tương lai. Hơn
nữa, những nghiên cứu định giá này đã không được
phân tích dựa theo chiều kích không gian bằng các
phương pháp sử dụng GIS/công nghệ viễn thám.
Định giá dịch vụ môi trường rừng giúp ích cho các
nhà hoạch định chính sách vì nó sẽ giúp1:
• cung cấp cơ chế cho các công cụ chính sách (công
cụ dựa vào thị trường),
• hỗ trợ phân bổ nguồn lực tài chính công cho việc
bảo vệ rừng và môi trường.
• lồng ghép sự sẵn sàng chi trả của cộng đồng
tới ngành lâm nghiệp và các dự án bảo vệ
môi trường,
• ưu tiên các dự án phát triển lâm nghiệp và
môi trường
• tối ưu hóa đầu tư rừng, tối ưu hóa các hàng hóa
từ rừng và giá trị dịch vụ môi trường của hệ sinh
thái rừng, hạch toán giá trị tài nguyên rừng trong
hệ thống tài khoản quốc gia.
• ước tính phần đóng góp của các ngành lâm
nghiệp đến GDP một cách tương thích với hệ
thống tài khoản quốc gia và được thu thập và
nhìn nhận bởi các cơ quan thống kê.
• ước tính phần đóng góp của hệ thống sinh thái
rừng đến các ngành khác. Sự đóng góp này có
thể được đo lường bằng phần trăm GDP. Những
đóng góp gián tiếp của hệ sinh thái rừng có thể
có lợi cho các ngành nông nghiệp, năng lượng
và du lịch. Lợi ích và chi phí được ẩn trong tổng
GDP nhưng có thể “hình dung” được. Việc này
nói chung tương thích với Hệ thống tài khoản
Quốc gia.
• Sự đóng góp của các dịch vụ môi trường rừng
khác (đa dạng sinh học, hấp thụ cacbon…) có
đem lại giá trị kinh tế nhưng không tương thích
với Hệ thống tài khoản quốc gia.
Mục đích của phần này là cung cấp cho các nhà
hoạch định chính sách một cái nhìn thực tế và
những bài học kinh nghiệm về cách tích hợp định
giá dịch vụ môi trường rừng trong chính sách lâm
nghiệp. Trong bài viết này, trước tiên chúng tôi rà
soát và xác định các nguyên tắc chính trong việc lồng
ghép định giá dịch vụ môi trường rừng vào các chính
sách lâm nghiệp và các khuôn khổ pháp lý khác. Sau
đó chúng tôi xem xét lại những thách thức trong việc
hoạch định các chính sách định giá dịch vụ rừng và
cách các nước trên thế giới đã tích hợp những chủ đề
này như nào trong khuôn khổ pháp luật của họ. Một
phần giới thiệu ngắn gọn về các kỹ thuật định giá
khác nhau và các phương pháp cũng được trình bày
trong bài viết này như một nguồn tài liệu tham khảo
cho các nhà hoạch định chính sách.
Trong bài viết này, chúng tôi chủ yếu tập trung xem
xét khung pháp lý lâm nghiệp quốc gia trong định
giá dịch vụ môi trường rừng ở Mỹ và các nước châu
Âu. Điều này là do định giá dịch vụ môi trường rừng
được đề cao trong lĩnh vực chính sách ở các quốc
gia này từ những năm 1990. Nhiều chính sách và
hướng dẫn được phát triển bởi cơ quan lâm nghiệp
ở các nước này từ thời điểm đó cung cấp cho chúng
Mặc dù những nhà hoạch định chính sách ở những
nước đang phát triển và ở Việt Nam đã thấy sự cần
1
Định giá kinh tế của dịch vụ môi trường rừng ở Malaysia.
Awang Noor Abd. Ghani. Cục Lâm nghiệp. Đại học Putra
6 | Vũ Tấn Phương, Phạm Thu Thủy, Lê Ngọc Dũng và Đào Thị Linh Chi
ta những bài học kinh nghiệm quí báu về cả nguyên
tắc chính sách cơ bản và triển khai thực tế. Do hệ
sinh thái rừng, điều kiện chính sách – xã hội, năng
lực kỹ thuật và tài chính của các bên liên quan ở Việt
Nam là khác so với các nước châu Âu và Mỹ, bài viết
của chúng tôi tập trung vào nguyên tắc cho thiết kế
chính sách hơn là những bước triển khai thực tế và
chi tiết.
giá rừng chỉ được xây dựng trên định nghĩa rất hạn
hẹp về lợi ích kinh tế. Các nhà kinh tế có xu hướng
chỉ tính đến các giá trị của các hệ sinh thái rừng như
nguyên liệu và các sản phẩm hữu hình có thể tiêu thụ
được trên thị trường. Trong khi đó, các giá trị gián
tiếp khác của rừng chưa được đánh giá và đưa vào thị
trường trao đổi do chúng thường được coi là các “sản
phẩm công cộng”.
3.1.1 Những nguyên tắc của định giá DVMTR
trong khung pháp lý tại EU và Mỹ
eo quá trình phát triển, quan điểm về giá trị của
rừng đã có những đánh giá và nhìn nhận một cách
toàn diện hơn. Khái niệm về tổng giá trị kinh tế
(TEV) được đưa ra vào năm 1990 (Pearce, 1990)
và sau đó tiếp tục được phát triển (Pearce, 1991a,
1991b; 1994). Khái niệm về tổng giá trị kinh tế và
khái niệm này đã trở thành khuôn mẫu để đánh giá
và xác định các lợi ích của rừng. ay vì chỉ chú trọng
đến các giá trị sử dụng trực tiếp của rừng, các giá trị
phi thị trường được tạo ra bởi các chức năng sinh thái
của rừng đã được xem xét và đánh giá. eo đó, xem
xét và xác định tổng giá trị của rừng thì phải xem xét
toàn bộ giá trị của rừng, các dòng dịch vụ môi trường
và các đặc tính của toàn bộ hệ sinh thái như một thể
thống nhất. Tổng giá trị kinh tế của rừng được mô tả
như hình 1. eo đó, tổng giá trị của rừng bao gồm
giá trị sử dụng trực tiếp và giá trị chưa sử dụng. Trong
mỗi giá trị này, các khái niệm của các loại giá trị được
hiểu như sau:
• Giá trị sử dụng trực tiếp (Direct Use Value –
DUV): Bao gồm giá trị của những nguyên liệu thô
và những sản phẩm vật chất được lấy ra từ rừng
và sử dụng trực tiếp trong các hoạt động sản xuất,
tiêu dùng và mua bán của con người như gỗ, củi,
lâm sản ngoài gỗ, vật liệu gen, vv.
• Giá trị sử dụng gián tiếp (Indirect Use Value
– IUV): Là giá trị kinh tế của các dịch vụ môi
trường và chức năng sinh thái mà rừng tạo ra như
duy trì và điều tiết nguồn nước, hạn chế lũ lụt,
kiểm soát xói mòn, hấp thụ các bon, điều hòa khí
hậu, bảo tồn ĐDSH, vv.
• Các giá trị lựa chọn (Option Value – OP): Là
những giá trị chưa được biết đến của nguồn gien,
các loài động vật hoang dã trong rừng và các chức
năng sinh thái rừng khi chúng được đưa vào ứng
dụng trong lĩnh vực giải trí, dược phẩm, nông
nghiệp, trong tương lai.
• Các giá trị để lại (Bequest Value – BV): Là những
giá trị trực tiếp hoặc gián tiếp mà các thế hệ sau có
cơ hội được sử dụng.
• Các giá trị tồn tại (Existence Value – EV): Là giá
trị nội tại đi kèm với sự tồn tại của các loài trong
rừng và hệ sinh thái rừng mà không kể đến việc
sử dụng trực tiếp như ý nghĩa về văn hoá, lịch sử,
thẩm mỹ, di sản, kế thừa, vv.
Từ những năm 1990, các quốc gia thành viên châu
Âu đã nhấn mạnh giá trị dịch vụ môi trường rừng
trong chiến lược phát triển, chính sách sử dụng đất
và chính sách lâm nghiệp của họ. Do định giá rừng
và dịch vụ môi trường yêu cầu tính toán đầy đủ từ
nhiều nhân tố và thường yêu cầu sự điều phối liên
ngành và liên bộ, chính phủ các nước châu Âu và Mỹ
chỉ đặt ra nguyên tắc bao quát về việc hoạch định
chính sách và khuôn khổ pháp lý chứ không chi tiết
hóa cụ thể từng hạng mục. Mặc dù các nước này có
khác nhau về sự ưu tiên đối với môi trường, xã hội và
chính trị, những nguyên tắc chung sau đây đều được
đề cập trong chính sách định giá rừng của họ.
Nguyên tắc 1: dịch vụ môi trường cần được định giá
thông qua góc nhìn về khả năng sử dụng đa mục đích,
xem xét cả gỗ và giá trị ngoài gỗ và trong bối cảnh
đóng góp của rừng và ngành lâm nghiệp cho tăng
trưởng xanh
Quan điểm truyền thống và phương pháp định giá
hiện nay thường tập trung vào giá trị gỗ của rừng
trong khi giá trị ngoài gỗ như văn hóa, xã hội và vẻ
đẹp cảnh quan thường bị bỏ qua. Các nhóm xã hội
khác nhau sẽ nhìn nhận giá trị của rừng khác nhau,
tại thời điểm và bối cảnh khác nhau. Những giá trị
ngoài gỗ đóng vai trò quan trọng trong sự bền vững
của cảnh quan cho cả thế hệ hiện tại và tương lai và
thường tạo nên động lực mạnh mẽ và sự sẵn sàng cho
người dân địa phương trong việc bảo tồn rừng.
Các giá trị ngoài gỗ đóng vai trò quan trọng trong sự
bền vững của cảnh quan cho cả thế hệ môi trường
sống, đóng góp vào sự phát triển bền vững của mỗi
quốc gia và sự tồn tại của trái đất. Rừng không chỉ
cung cấp nguyên liệu như gỗ, củi, lâm sản ngoài gỗ
cho một số ngành sản xuất mà quan trọng hơn là
các lợi ích của rừng trong việc duy trì và bảo vệ môi
trường, đó là điều hoà khí hậu, hạn chế xói mòn và
bồi lắng, bảo vệ bờ biển, điều tiết nguồn nước và
hạn chế lũ lụt. Tuy nhiên, một trong những nguyên
nhân cố hữu trong việc hạ thấp giá trị của rừng là do
Kinh nghiệm quốc tế và các đề xuất sửa đổi khung pháp lý về định giá rừng tại Việt Nam
|
7
Tống giá trị kinh tế
(Total economic value - TEV)
Giá trị sử dụng
(Use value - UV)
Giá trị chưa sử dụng
(Non use value - NUV)
Giá trị sử dụng
trực tiếp
(Direct use value - (Indirect use value -
DUV) AUV)
Giá trị sử dụng
gián tiếp
Giá trị lựa chọn
(Option value -
OV)
Giá trị để lại
(Bequest value - (Existence value -
BV) EV)
Giá trị tồn tại
Hình 1. Khung đánh giá tổng giá trị kinh tế của rừng
Khái niệm này đang được sử dụng ở nhiều quốc
gia nhằm làm rõ hơn giá trị của rừng. Có rất nhiều
nghiên cứu về lượng giá giá trị của rừng theo quan
điểm tổng giá trị kinh tế. Ngoài giá trị sử dụng trực
tiếp của rừng, các giá trị gián tiếp của rừng cũng rất
đa dạng và phụ thuộc vào địa điểm cụ thể. Land-Mill
và Porras (2002) đã rà soát các nghiên cứu trên toàn
cầu về giá trị của rừng. Nghiên cứu đã chia ra các
loại giá trị gián tiếp của rừng và tỷ lệ giá trị của nó
trong tổng giá trị kinh tế của rừng như sau: (1) Giá
trị phòng hộ đầu nguồn (liên quan đến chức năng
sinh thái của rừng là kiểm soát xói mòn đất, duy trì
và điều tiết nguồn nước) chiếm 21%; (2) Giá trị hấp
thụ các bon và điều hòa khí hậu chiếm 27%; (3) Giá
trị cảnh quan cho tham quan, dịch lịch, nghỉ dưỡng
chiếm 17%; (4) Giá trị bảo tồn đa dạng sinh học
chiếm 25%; (5) Các giá trị khác chiếm 10%.
lòng chảo gây ra thiệt hại cho các công trình thuỷ lợi,
ước tính khoảng 4USD/ha/năm (Cruz et al, 1988;
Bishop, 1995) và các hồ nhân tạo ước tính lên tới 6
tỷ USD/năm (Mahmood, 1987). Trong khi đó, nếu
được rừng bảo vệ, lợi ích về chống xói mòn, rửa trôi,
kiểm soát dòng chảy có thể lên tới 80 USD/ha/năm
(Cruz et al, 1988; Bishop, 1995). Các nhà khoa học
Trung Quốc cho rằng giá trị của rừng trong phòng
hộ đầu nguồn là rất lớn. Hàng năm giá trị của rừng
trong bảo vệ cố định đất là 11,5 tỷ NDT (khoảng
1,4 tỷ USD); bảo vệ độ phì đất là 226,6 tỷ NDT
(khoảng 28 tỷ USD); phòng chống lũ lụt là 78,5 tỷ
NDT (khoảng 9,8 tỷ USD) và tăng nguồn nước là
93,6 tỷ NDT (khoảng 11,6 tỷ USD).
Trong thời gian qua, các giá trị phòng hộ đầu nguồn
của rừng đã bước đầu được thương mại ở một số
quốc gia thông qua các cơ chế khác nhau, như chi trả
dịch vụ môi trường rừng. Ở khu vực Châu Á, số liệu
thống kê năm 2013 cho thấy có 175 chương trình
đang được triển khai liên quan đến thương mại giá
trị phòng hộ đầu nguồn với tổng số tiền giao dịch là
11,5 tỷ USD trên diệc tích rừng là 339,6 triệu ha.
Giá trị phòng hộ đầu nguồn: Nhiều nghiên cứu
đã khẳng định vai trò to lớn của rừng trong việc
phòng hộ đầu nguồn. Các chức năng này bao gồm
giữ đất – và do đó kiểm soát xói mòn và quá trình
lắng đọng bùn cát; điều tiết dòng chảy hạn chế lũ lụt,
cung cấp nguồn nước, kiểm soát chất lượng nước,
vv. Việc mất đi lớp rừng che phủ có thể dẫn đến hậu
quả nghiêm trọng nếu diễn ra việc khai thác gỗ bừa
bãi hoặc sử dụng đất không hợp lý (Hamilton và
King, 1983). Lượng giá giá trị của rừng trong phòng
hộ đầu nguồn cũng đã được nghiên cứu. Giá trị của
rừng trong hạn chế xói mòn là rất đáng kể. Xói mòn
đất ở nơi phát rừng làm rẫy cao gấp 10 lần ở những
khu vực có rừng tự nhiên. Song song với quá trình
xói mòn là sự tích tụ chất lắng đọng tại các vùng
Giá trị hấp thụ các bon, điều hòa khí hậu: Biến đổi
khí hậu đang là thách thức môi trường trong thế
kỷ 21. ực vật sống mà chủ yếu là các hệ sinh thái
rừng giữ lại và tích trữ, hay hấp thụ cácbon trong
khí quyển. Vì thế sự tồn tại của thực vật có vai trò
đáng kể trong việc chống lại hiện tượng ấm lên toàn
cầu. ỏa thuận Paris đạt được tại COP21 một lần
nữa khẳng định tầm quan trọng không thể thay thế
của các hệ sinh thái rừng trong việc giảm nhẹ và
8 | Vũ Tấn Phương, Phạm Thu Thủy, Lê Ngọc Dũng và Đào Thị Linh Chi
thích ứng với BĐKH. Giá trị hấp thụ CO2 của các
khu rừng tự nhiên nhiệt đới khoảng từ 500 – 2.000
USD/ha và giá trị này với rừng ôn đới được ước tính
ở mức từ 100 – 300 USD (Zhang, 2000). Giá kinh
tế về giá trị hấp thụ CO2 ở rừng Amazon được ước
tính là 1.625USD/ha/năm, trong đó rừng nguyên
sinh là 4.000 – 4.400 USD/ha/năm, rừng thứ sinh
là 1.000 – 3.000 USD/ha/năm và rừng thưa là 600
– 1.000 USD/ha/năm (Bann, 1997). Xét trên phạm
vi toàn cầu, số liệu thống kê năm 2003 cho thấy
lượng các bon lưu giữ trong rừng là khoảng 800 –
1.000 tỷ tấn. Trong một năm rừng hấp thu khoảng
100 tỷ tấn khí các bon níc và thải ra khoảng khoảng
80 tỷ tấn oxy (Phạm Xuân Hoàn 2005). Nếu quy
đổi thành tiền theo cơ chế phát triển sạch thì giá
trị cố định/lưu trữ các bon của rừng là từ 14.680 –
18.350 tỷ USD và hàng năm giá trị hấp thu khí các
bon níc là khoảng 1.835 tỷ USD (ước tính theo giá
5USD/tấn CO2).
lưu ý rằng điểm cốt lõi là người được hưởng lợi phải
là nguời sống trong khu rừng hay người sử dụng rừng;
nguồn thu từ du lịch thường rơi vào túi các nhà tổ
chức du lịch, những người không sống trong hay sống
gần khu vực rừng và thậm chí có thể không phải là
người bản xứ; bản thân du lịch cũng phải “bền vững”,
phải giới hạn lượng khách tối đa có thể vào khu rừng.
Về nguyên tắc, bất kỳ khu rừng nào có thể tới được
bằng đường bộ hay đường sông đều có giá trị du lịch.
Các nghiên cứu về giá trị cảnh quan du lịch của các
khu vực có rừng nhiệt đới đã được tiến hành. Một
số khu vực du lịch sinh thái thu hút một lượng lớn
khách du lịch và do đó có giá trị kinh tế tính trên mỗi
hecta rất cao. Tuy nhiên khó có thể đưa ra một con
số giá trị tiêu biểu bởi giá trị thay đổi theo khu vực và
tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Ví dụ, tính toán
giá trị du lịch giải trí hàng năm ở Trung Quốc cho
thấy giá trị này là khoảng 220,9 - 10.564,4 NDT/
ha (tương đương 27,6 – 1.320 USD/ha). Trong năm
1996, British Columbia chi tiêu khoảng 1.9 tỷ USD
cho các hoạt động du lịch sinh thái, đóng góp cho
ngành thuế của địa phương là 116 triệu USD (Canada
Environment, 1996). Cơ chế chi trả cho dịch vụ giải
trí và du lịch ở Châu âu và Bắc Mỹ được xác định theo
mức “Bằng lòng chi trả - WTP (Willingness To Pay) với
mức giá từ 1-3USD/người/lần (Pearce và Pearce, 2001).
Liên quan đến giá trị này Simon (2009) cho rằng giá trị
du lịch giải trí của rừng ở Đức được xác định là khoảng
2.2 tỷ USD/năm.
Chi trả cho dịch vụ hấp thụ các bon chủ yếu được
thực hiện dựa trên Công ước khung của liên hiệp
quốc về biến đổi khí hậu, cụ thể là 3 cơ chế quy định
tại Nghị định thư Kyoto, bao gồm: cơ chế phát triển
sạch (CDM), cơ chế đồng thực hiện (JI) và cơ chế
buôn bán quyền phát thải (ET). ị trường thương
mại các bon gồm thị trường bắt buộc như thị trường
buôn bán phát thải EU, New South Wales, Chicago
Climate Exchange, Bắc Mỹ và thị trường các bon tự
nguyện. ương mại các bon trong lâm nghiệp (gồm
các dự án trồng rừng hấp thụ các bon, phục hồi rừng,
giảm phát thải do mất rừng, suy thoái rừng) cũng
tăng lên nhanh chóng trong giai đoạn 2006 – 2013.
Giá trị thương mại các bon trong lâm nghiệp tăng
từ khoảng 82 triệu USD (khối lượng thương mại là
khoảng 6 triệu tấn CO2) vào năm 2006 lên 897 triệu
USD (khối lượng tín chỉ các bon thương mại là 134
triệu tấn CO2) vào năm 2012. Trong 3 năm gần đây
(2010 -2012), đơn giá bán tín chỉ các bon ít biến
động, với 5,6 USD/tấn CO2 năm 2010; 6,4 USD/
tấn CO2 năm 2011 và 6,7 USD/tấn CO2 năm 2012
(Molly et al, 2013; Allie và Ruef 2016). Các cơ chế
thương mại giá trị hấp thụ các bon của rừng đã được
thực hiện kể từ khi Nghị định thư Kyoto ra đời vào
năm 1997. Gần đây các cơ chế tài chính mới như
REDD+ thông qua Chương trình UN-REDD và
Quỹ đối tác các bon lâm nghiệp (FCPF) đã và đang
được thực hiện ở nhiều quốc gia.
Giá trị bảo tồn đa dạng sinh học: Rừng được coi
là sinh cảnh cực kỳ quan trọng xét về mặt đa dạng
sinh học mà chúng sở hữu. Lấy số lượng loài làm ví
dụ minh chứng cho tính đa dạng sinh học, số lượng
sinh vật được mô tả lên đến tổng cộng khoảng 1,75
triệu loài, và người ta phỏng đoán rằng con số này
chỉ là 13% con số tổng thực tế. Có nghĩa là số loài
thực tế có lẽ là 13,6 triệu. Bao nhiêu trong tổng số
này trú ngụ ở các cánh rừng trên thế giới vẫn là điều
chưa được biết đến. Wilson (1992) cho rằng có lẽ
một nửa trong số các loài được biết đến sống ở rừng
nhiệt đới, và WCMC (1992) phỏng đoán rằng đa
số các loài sẽ tiếp tục được khám phá sống ở các khu
rừng nhiệt đới.
Sự cần thiết phải hiểu những giá trị của rừng xuất
phát từ tỷ lệ ước tính diện tích rừng bị mất và giá trị
đa dạng sinh học trong khi vẫn còn nhiều tranh cãi,
mối quan hệ loài-diện tích – dự đoán số loài bị mất
dựa trên diện tích bị mất - cho thấy mức mất lên đến
con số hàng nghìn mỗi năm. Tổ chức lương thực
thế giới (FAO 2012), ước tính khoảng 24% các loài
Giá trị cảnh quan cho du lịch và giải trí: Du lịch sinh
thái đang ngày càng phát triển và là biện pháp sử dụng
rừng nhiệt đới không cần khai thác nhưng lại đem
lại giá trị kinh tế cao và đầy tiềm năng. Tuy nhiên cần
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Chuyên đề Kinh nghiệm quốc tế và các đề xuất sửa đổi khung pháp lý về định giá rừng tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- bao_cao_chuyen_de_kinh_nghiem_quoc_te_va_cac_de_xuat_sua_doi.pdf