Thực trạng phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng của bà mẹ và một số yếu tố liên quan tại xã Tân Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng năm 2015

TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
THỰC TRẠNG PHÒNG SUY DINH DƯỠNG CHO TRẺ  
T6 ĐẾN 24 THÁNG CỦA BÀ MẸ VÀ MT SỐ YẾU TỐ  
LIÊN QUAN TẠI XÃ TÂN HỘI, HUYỆN ĐỨC TRỌNG,  
TỈNH LÂM ĐỒNG NĂM 2015  
Nguyễn Hợp Tấn1  
TÓM TẮT  
Trẻ em ở tỉnh Lâm Đồng thuộc những nơi có tỷ lệ suy dinh  
dưỡng cao. Khảo sát về kiến thức, thực hành và các yếu tố liên  
quan tới nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ là cần thiết, giúp thêm cơ  
sở khoa học và thực tiễn cho cải thiện chương trình phòng suy  
dinh dưỡng trẻ em có hiệu quả hơn. Nghiên cứu sử dụng phương  
pháp mô tả cắt ngang có phân tích. Thông tin thu thập bằng cách  
phỏng vấn trực tiếp, sử dụng bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Số liệu được  
phân tích bằng SPSS 17.0. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 226  
bà mẹ có 69% có kiến thức đúng và 67,3% thực hành đúng. Các  
yếu tố học vấn, số con, tình trạng kinh tế gia đình gia đình có mối  
liên quan có ý nghĩa thống kê với kiến thức phòng suy dinh dưỡng  
cho trẻ 6 đến 24 tháng tuổi của bà mẹ. Qua đó cần chú trọng  
truyền thông cho từng nhóm đối tượng, đặc biệt là những hộ  
nghèo, các bà mẹ có trình độ văn hóa thấp để cải thiện kiến thức  
và thực hành về nuôi dưỡng trẻ.  
Title: Mothers’ knowledge and  
practice to prevent malnutrition  
among children 6-24 months  
and some related factors in Tan  
Hoi commune, Duc Trong  
district, Lam Dong province in  
2015  
Từ khóa: Kiến thức, thực hành,  
phòng suy dinh dưỡng, trẻ 6 đến  
24 tháng tuổi  
Keywords: Knowledge, practice,  
to prevent  
malnutrition,  
children from 6 to 24 months  
ABSTRACT  
Thông tin chung:  
Children in Lam Dong province are in areas with high rates of  
malnutrition. Surveys of mothers' knowledge, practices and factors  
related to child nourishment are necessary, helping to further the  
scientific and practical basis for improving the child malnutrition  
program more effectively. Research using cross-sectional design  
with analysis. Information collected by direct interview, using pre-  
designed questionnaires. Data were analyzed by SPSS 17.0.  
Research results show that in 226 mothers have 69% have correct  
knowledge and 67.3% practice properly. The factors of education,  
number of children, economic status of the family family have a  
statistically significant relationship with the knowledge of  
malnutrition for children aged 6 to 24 months. Thereby, it is  
necessary to pay attention to communication for each target group,  
especially poor households and mothers with low educational level  
to improve knowledge and practice about child rearing.  
Ngày nhận bài: 06/5/2019;  
Ngày nhận kết quả bình duyệt:  
20/7/2019;  
Ngày chấp nhận đăng bài:  
25/7/2019.  
Tác giả:  
1 Trường Đại học Yersin Đà Lạt  
Tập 5 (8/2019)  
95  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
Đặt vấn đề  
còn chưa tốt. Người chăm sóc trẻ chính là bà  
mẹ lại phải dành nhiều thời gian cho việc  
làm nương rẫy. Thêm vào đó, trẻ em giai  
đoạn từ 6 đến 24 tháng tuổi là giai đoạn  
quan trọng vì đây là thời kỳ có nhu cầu dinh  
dưỡng cao, sữa mẹ không đáp ứng đủ nhu  
cầu dinh dưỡng của trẻ, là thời kỳ thích ứng  
với môi trường và rất nhạy cảm với bệnh tật  
(Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình,  
năm 2006). Đồng thời tại địa phương vẫn  
chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu về vấn đề  
chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ. Từ những lý  
do nêu trên, tôi tiến hành nghiên cứu “Kiến  
thức, thực hành phòng suy dinh dưỡng cho  
trẻ từ 6 đến 24 tháng của bà mẹ và một số  
yếu tố liên quan tại xã Tân Hội, huyện Đức  
Trọng, tỉnh Lâm Đồng năm 2015với 2 mục  
tiêu là mô tả thực trạng kiến thức, thực hành  
về phòng suy dinh dưỡng và xác định một số  
yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về  
phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24  
tháng tuổi của bà mẹ tại xã Tân Hội huyện  
Đức Trọng năm 2015.  
Dinh dưỡng tốt có vai trò quan trọng đối  
với sự phát triển thể chất và tâm thần trẻ em.  
Dinh dưỡng kém sẽ ảnh hưởng đến sự phát  
triển chiều cao, trí tuệ và còn làm nặng thêm  
các bệnh như tiêu chảy, viêm phổi,…. Theo số  
liệu của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) cho  
thấy có đến 54% trường hợp tử vong của trẻ  
em ở các nước đang phát triển là có liên quan  
đến tình trạng dinh dưỡng.  
Nhiều sai lầm dẫn đến suy dinh dưỡng  
(SDD) trẻ em không phải do thiếu thực  
phẩm hộ gia đình mà là do thiếu sót ở kiến  
thức, thực hành chăm sóc của bà mẹ  
(Nguyễn Văn Thịnh, năm 2013). Đối tượng  
giáo dục kiến thức chủ yếu là bà mẹ, cho nên  
bà mẹ phải biết cách nuôi con để đứa con  
phát triển tốt, tránh được nhiều bệnh, đặc  
biệt là suy dinh dưỡng trẻ em. Các bà mẹ  
còn thiếu kiến thức nuôi con dẫn tới việc  
thực hành còn hạn chế. Hoặc có kiến thức  
nuôi con nhưng không có điều kiện để thực  
hành chăm sóc con đúng cách cũng là yếu tố  
tác động trực tiếp tới tình trạng dinh dưỡng  
của trẻ, đồng thời tác động gián tiếp tới  
nguồn lao động tương lai của đất nước  
(theo Lý Thị Phương Hoa, năm 2014). Vì  
vậy, một trong những chiến lược quan trọng  
trong phòng SDD là công tác truyền thông  
giáo dục sức khỏe nhằm làm chuyển biến  
tốt kiến thức, thực hành của các bà mẹ về  
nuôi dưỡng trẻ (Lê Thị Hợp và ctv, 2007).  
1. Tổng quan tài liệu  
1.1. Khái niệm chung.  
* Dinh dưỡng: Là tình trạng cơ thể được  
cung cấp đầy đủ, cân đối các thành phần  
dinh dưỡng, đảm bảo cho sự phát triển toàn  
vẹn, tăng trưởng của cơ thể để đảm bảo  
chức năng sinh lý và tham gia tích cực vào  
các hoạt động xã hội (theo Hà Huy Khôi,  
năm 2004).  
Xã Tân Hội, Huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm  
Đồng là xã nghèo của huyện, có tỷ lệ SDD  
cao. Người dân trong xã chủ yếu là dân tộc  
thiểu số (DTTS), do đó nhận thức còn chưa  
cao, chưa tiếp xúc được với các thông tin xã  
hội cập nhật. Bên cạnh đó vẫn còn những hủ  
tục mang tính địa phương như cho trẻ ăn bổ  
sung sớm trước 6 tháng để cứng cáp hơn,  
không cho trẻ ra ngoài ánh sáng mặt trời…  
nên công tác chăm sóc cho phụ nữ và trẻ em  
* Định nghĩa suy dinh dưỡng: Là tình  
trạng cơ thể thiếu protein, năng lượng và  
các vi chất dinh dưỡng. Bệnh hay gặp ở trẻ  
em dưới 5 tuổi, đặc biệt ở giai đoạn trẻ từ  
6 đến 24 tháng tuổi. Biểu hiện ở nhiều mức  
độ khác nhau, nhưng ít nhiều đều có ảnh  
hưởng đến sự phát triển thể chất, tinh thần  
và vận động của trẻ (theo Hà Huy Khôi,  
năm 2004).  
Tập 5 (8/2019)  
96  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
* Thiếu dinh dưỡng Protein, năng  
Nguyên nhân gốc rễ của SDD trẻ em đó  
là nghèo đói và bà mẹ thiếu kiến thức về  
dinh dưỡng cho trẻ. Đói nghèo chủ yếu rơi  
vào những hộ gia đình có trình độ học vấn  
thấp, khó có cơ hội tiếp xúc với các thông tin  
và các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Mặt khác,  
phần lớn các hộ gia đình nghèo, nhất là vùng  
nông thôn và miền núi, người đồng bào dân  
tộc thiểu số thường sinh nhiều con.  
lượng: Thiếu protein, năng lượng là tình  
trạng chậm lớn, chậm phát triển, do chế độ  
ăn không đảm bảo nhu cầu protein và năng  
lượng, tình trạng kèm theo là các bệnh  
nhiễm khuẩn (Lê Danh Tuyên, năm 2005).  
1.2. Nguyên nhân và các yếu tố liên  
quan đến tình trạng suy dinh dưỡng trem  
Khẩu phần ăn: Các số liệu điều tra về  
khẩu phần ăn ở cả người lớn và trẻ em cho  
thấy chế độ ăn đóng vai trò quan trọng dẫn  
tới tình trạng SDD ở Việt Nam. Tần suất xuất  
hiện các thực phẩm như thịt, cá, trứng, sữa  
trong bữa ăn của trẻ thấp, thường do điều  
kiện kinh tế gia đình hoặc do hiểu biết của  
bà mẹ về chăm sóc dinh dưỡng trẻ em còn  
hạn chế (Nguyễn Xuân Ninh, Hoàng Khải  
Lập và cộng sự năm 2004).  
1.3. Tm quan trọng của dinh dưỡng  
cho trt6 đến 24 tháng tuổi.  
Suy dinh dưỡng ở trẻ em từ 6 đến 24  
tháng tuổi có nguy cơ tử vong cao. Theo  
thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO), gần  
50% trẻ suy dinh dưỡng từ 6 đến 24 tháng  
tuổi ở các nước đang phát triển đã tử vong  
do thiếu dinh dưỡng ở mức độ vừa và nhẹ.  
Trẻ dễ mắc bệnh hơn đặc biệt là các  
bệnh về nhiễm trùng hô hấp, tiêu chảy… Khi  
cơ thể trẻ suy nhược do không được cung  
cấp đủ dưỡng chất sẽ là điều kiện thuận lợi  
để các bệnh thường gặp ở trẻ kéo dài. Khi  
bệnh kéo dài, trẻ lại ăn uống kém và vì vậy  
suy dinh dưỡng càng trở nên nặng nề hơn.  
Ảnh hưởng xấu đến khả năng phát triển thể  
lực, trí lực và tâm thần.  
Bệnh tật: Thiếu dinh dưỡng và bệnh  
nhiễm trùng ở trẻ em gây ảnh hưởng tới sự  
phát triển chung của trẻ trong thời gian dài.  
Thiếu sắt là nguyên nhân chính của 50% các  
trường hợpthiếumáu. Thiếumtscác vi chất  
dinh dưỡng khác như vitamin nhóm B(B6, B12,  
riboflavin) và axit folic cũng có thể gây thiếu  
máu (Viện Dinh dưỡng quốc gia năm 2012).  
Nhiễm ký sinh trùng đường ruột  
(KSTĐR): Cũng là nguyên nhân quan trọng  
gây ra SDD, thiếu máu ở trẻ em. Nhiễm  
KSTĐR là một vấn đề sức khoẻ cộng đồng ở  
các nước đang phát triển do điều kiện vệ  
sinh môi trường không đảm bảo. Nhiễm  
giun làm cho trẻ chán ăn, giảm hấp thu các  
chất dinh dưỡng, thiếu máu và gây ảnh  
hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ  
(Nguyễn Thị Ngọc Bảo năm 2007).  
2. Đối tượng và phương pháp  
nghiên cứu  
2.1. Đối tượng và cách chọn mẫu  
Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô tả  
cắt ngang có phân tích. Đối tượng nghiên  
cứu là bà mẹ sinh con trong khoảng thời  
gian từ tháng 3/2013 đến tháng 10/2014.  
Với tiêu chí lựa chọn là bà mẹ có con từ 6  
đến 24 tháng tuổi, đang sinh sống tại xã Tân  
Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng và  
đồng ý tham gia nghiên cứu. Nghiên cứu  
Trẻ em bị SDD nếu không được chăm  
sóc sẽ có thể dẫn đến tử vong. Theo tài liệu  
của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) trong số  
11,6 triệu trường hợp tử vong hằng năm ở  
trẻ em dưới 5 tuổi tại các nước đang phát  
triển thì có 6,4 triệu (54%) có liên quan đến  
thiếu dinh dưỡng.  
được thực hiện t ừ tháng 03/2015 đến tháng  
07/2015.  
Phương pháp chọn mẫu: Chọn toàn bộ  
226 bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi  
Tập 5 (8/2019)  
97  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
đang sinh sống trên địa bàn xã Tân Hội,  
2.2.3. Tiêu chuẩn đánh giá các chỉ số  
nghiên cứu  
huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng tại thời  
điểm điều tra theo danh sách trạm y tế cung  
cấp. Theo đó, ngày uống vitamin A trong  
tháng, các điều tra viên tiến hành phỏng vấn  
(bộ công cụ chuẩn bị sẵn) các bà mẹ về kiến  
thức, thực hành phòng SDD cho trẻ 6 đến 24  
tháng tuổi. Trường hợp bà mẹ không đưa  
trẻ đi uống vitamin A, các điều tra viên là  
nhân viên y tế thôn bản tại đia phương đến  
nhà để phỏng vấn. Trên cơ sở cân nhắc  
nguồn lực, khả năng triển khai, nhóm  
nghiên cứu chúng tôi chọn toàn bộ 226 bà  
mẹ này tham gia vào nghiên cứu.  
Thực trạng kiến thức, thực hành phòng  
SDD của bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi  
được đánh giá dựa trên số lượng câu hỏi trả  
lời đúng của đối tượng nghiên cứu.  
Nguyên tắc cho điểm:  
Dựa vào câu trả lời các câu hỏi về kiến  
thức, thực hành phòng SDD của bà mẹ, mỗi  
câu hỏi nếu trả lời của bà mẹ đúng thì được  
điểm, nếu sai thì không có điểm. Điểm được  
quy định trước cho mỗi câu trả lời (phụ lục 2).  
Bà mẹ có kiến thức đúng về phòng SDD  
cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi điểm kiến  
thức ≥12(phụ lục 2) (đạt ít nhất 50% điểm  
kiến thức tối đa).  
2.2. Công cụ và phương pháp thu  
thập sliệu  
Bà mẹ thực hành đúng về phòng SDD  
cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi khi điểm thực  
hành đạt ≥10(phụ lục 2) (đạt ít nhất 50%  
điểm thực hành tối đa).  
2.2.1. Công cụ thu thập số liệu  
Số liệu của nghiên cứu được thu thập  
dựa trên bộ câu hỏi phỏng vấn có cấu trúc  
gồm 4 phần: Thông tin chung, kiến thức của  
bà mẹ về phòng SDD trẻ em từ 6 đến 24  
tháng tuổi, thực hành của bà mẹ về phòng  
SDD trẻ em từ 6 đến 24 tháng tuổi và một số  
yếu tố liên quan. Bộ câu hỏi gồm 39 câu,  
phỏng vấn trên bà mẹ, mỗi cuộc phỏng vấn  
kéo dài khoảng 30 phút.  
2.3. Phương pháp phân tích và xlý  
sliệu  
Các phiếu điều tra được làm sạch và  
nhập vào máy vi tính, số liệu được phân tích,  
xử lý bằng phần mềm SPSS 17.0. Các thông  
số đánh giá bao gồm các tần suất, tỷ lệ %.  
Kiểm định χ2, OR, giá trị p (lấy giá trị p ≤ 0,05  
để làm bằng chứng của mối liên quan) được  
sử dụng để xác định yếu tố. Trường hợp tần  
suất kì vọng của ít nhất 1 ô trong crosstab  
nhỏ hơn 5, kiểm định Fisher’s exact test  
được sử dụng để đánh giá mối liên quan  
giữa các biến với nhau.  
2.2.2. Phương pháp thu thập: Phỏng vấn  
trực tiếp bằng bảng hỏi có cấu trúc  
Đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn  
bởi các điều tra viên (ĐTV) là cán bộ y tế  
(CBYT) của xã Tân Hội. Các ĐTV đã được tập  
huấn kỹ về mục tiêu, nội dung và kỹ thuật  
thu thập thông tin phỏng vấn, điền bộ câu  
hỏi, cách tiếp cận với đối tượng.  
2.4. Đạo đức nghiên cứu  
Nghiên cứu tuân thủ các qui định của  
Hội đồng đạo đức và chỉ thực hiện sau khi  
được Hội đồng đạo đức Trường Đại học  
Yersin Đà Lạt chấp nhận. Đồng thời, các cuộc  
phỏng vấn chỉ thực hiện đối với bà mẹ đồng  
ý tham gia và thông tin cá nhân của bà mẹ  
được cam kết giữ kín. Bên cạnh đó, nghiên  
cứu chỉ triển khai khi được sự đồng ý của  
chính quyền địa phương cũng như trung tâm  
y tế huyện Đức Trọng và xã Tân Hội.  
Các ĐTV cùng với nhân viên y tế thôn  
bản (NVYTTB) đến phỏng vấn từng bà mẹ  
có trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi (theo danh  
sách trạm y tế xã cung cấp) để thu thập  
thông tin theo bộ câu hỏi đã thiết kế sẵn  
trong ngày bà mẹ đưa trẻ đi uống vitamin A.  
Tập 5 (8/2019)  
98  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
3. Kết quả nghiên cứu  
3.1. Thông tin chung camunghiên cứu  
Bảng 3.1. Phân bố đặc điểm của các bà mẹ  
Lương  
3.1  
3.5  
2.2  
Buôn bán/kinh  
doanh  
Đặc điểm  
< 25 tui  
Số lưng Tỷ lệ %  
90  
136  
4
39,8  
60,2  
1,8  
Nhóm  
tui  
Nghề  
nghip  
≥25 tui  
Ni trợ  
Nông dân  
Buôn bán  
CBCCVC  
Khác  
91.2  
Nông nghiệp/chăn  
nuôi  
209  
3
92,5  
1,3  
Khác  
8
3,5  
2
0,9  
Không biết chữ  
Tiu hc  
THCS  
Trình độ  
học vn  
6
3
131  
76  
1,3  
1,3  
59,3  
33,6  
Biểu đồ 3.1. Phân bổ nguồn thu nhập  
chính của gia đình  
THPT  
Trung cấp  
trở lên  
3.2. Kiến thc phòng SDD cho trt6  
-24 tháng tuổi của bà mẹ  
10  
4,4  
Dân tc  
Kinh  
Chu Ru  
K’ ho  
DTTS khác  
Không  
Tin Lành  
Phật giáo  
Công giáo  
Cao Đài  
Nghèo  
29  
63  
112  
22  
13  
113  
3
93  
4
49  
12,8  
27,9  
49,6  
9,7  
5,8  
50  
1,3  
41,2  
1,8  
3.2.1. Kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ  
Bảng 3.2. Kiến thức của bà mẹ về nuôi  
con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu  
Kiến thức đúng  
Tôn giáo  
Nuôi con bằng sữa mẹ  
n
%
Bà mẹ biết cho trẻ bú hoàn  
toàn trong 6 tháng đầu  
Bà mẹ biết cho trẻ bú theo  
nhu cầu  
226  
100  
116  
50,9  
Kinh tế  
hộ gia  
đình  
21,7  
Trẻ >18 tháng cai sữa  
87  
38,5  
Không nghèo  
177  
97  
78,3  
42,9  
57,1  
Kết quả bảng 3.2 cho thấy có 100% bà  
mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi biết cho trẻ  
bú sữa mẹ trong 6 tháng đầu. Có 50,9% bà  
mẹ biết cho trẻ bú khi trẻ có nhu cầu. Đối với  
thời gian cai sữa chỉ có 87 bà mẹ biết thực  
hiện đúng cai sữa trên 18 tháng chiếm 38,5%  
3.2.4 Kiến thức chung  
Số con  
Con đầu  
Con thứ 2  
trở lên  
129  
Trong số 226 bà mtham gia nghiên cứu,  
số bà mẹ có con từ 25 tuổi trở xuống chiếm tỷ  
lệ tương đối cao, 39,8%. Liên quan đến nghề  
nghiệp, đa số bà mẹ tại xã Tân Hội làm nghề  
nông, chiếm tỷ lệ 92,8%. Các bà mẹ tham gia  
nghiên cứu cũng thuộc nhiều nhóm dân tộc  
khác nhau trong đó dân tộc K’ho chiếm tỷ lệ  
cao nhất 49,6%. Tlệ bà mẹ theo tôn giáo Tin  
Lành chiếm tỉ lệ cao nhất là 50%. Tlệ bà mẹ  
thuộc hộ gia đình nghèo trong mẫu nghiên  
cứu chiếm 21,7%. Trong khi đó, tỷ lệ bà mẹ  
sinh con thứ 2 trở lên chiếm 57,1 %.  
Bảng 3.3. Tổng hợp kiến thức chung  
Nội dung  
n
%
Bà mẹ có kiến thức đúng  
(≥12 điểm)  
156 69  
Bà mẹ có kiến thức chưa  
đúng (<12 điểm)  
Tổng  
70  
31  
226 100  
Bảng trên cho thấy kiến thức chung của  
bà mẹ về chăm sóc trẻ đúng ở địa bàn  
nghiên cứu chưa cao, cụ thể tỉ lệ bà mẹ có  
kiến thức chăm sóc trẻ đúng là 69% và tỉ lệ  
bà mẹ có kiến thức chưa đúng là 31%.  
Trong nghiên cứu này, thu nhập của gia  
đình từ nhiều nguồn khác nhau như lương,  
buôn bán/kinh doanh, nông nghiệp/chăn  
nuôi hoặc từ nguồn khác được mô tả ở biểu  
đồ 3.1 dưới đây  
Tập 5 (8/2019)  
99  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
3.3 Thực hành về phòng SDD cho trẻ  
3.3.4. Thực hành chung  
t6 đến 24 tháng tuổi  
Bảng 3.5. Kết quả về thực hành chung  
3.3.1 Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ  
Nội dung  
n
%
Bà mẹ thực hành đúng  
(≥10 điểm)  
Bảng 3.4. Thực hành của bà mẹ về nuôi  
con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu  
152 67,3  
Bà mẹ thực hành chưa  
đúng (<10 điểm)  
Tổng  
74  
32,7  
Thực hành  
đúng  
Nuôi con bằng sữa mẹ  
226 100  
n
%
Dựa vào bảng trên ta thấy tỉ lệ bà mẹ  
thực hành phòng SDD cho trẻ đúng là 67,3%  
và tỉ lệ bà mẹ thực hành chưa đúng là 32,7%  
3.4. Các yếu tố liên quan đến kiến  
thức, thực hành phòng SDD của bà mẹ có  
con 6 đến 24 tháng tuổi  
Nuôi con bằng sữa mẹ là  
chủ yếu  
202 89,4  
186 82,3  
Có cho trẻ bú thêm ban  
đêm  
Kết quả Bảng 3.4 cho biết tỉ lệ bà mẹ  
nuôi con bằng sữa mẹ chủ yếu trong 6 tháng  
đầu là 89,4%.Tỉ lệ bà mẹ cho trẻ bú thêm  
ban đêm trong 6 tháng đầu là 82,3%.  
3.4.1. Các yếu tố liên quan đến kiến thức  
Bảng 3.6. Mối liên quan giữa tuổi, dân  
tộc, tôn giáo, trình độ học vấn và nghề nghiệp  
với kiến thức của bà mẹ  
Kiến thức của bà mẹ  
Đúng Chưa đúng OR (95%CI)  
2
Nội dung  
P
χ
N
%
n
%
K’Ho  
Khác  
79 70,5 33 29,5  
77 67,5 37 32,5  
84 74,3 29 25,7  
72 63,7 41 36,3  
153 70,5 64 29,5  
1,15  
(0,65 - 2,02)  
Dân tộc  
0,23  
2,98  
5,58  
0,89  
4,19  
0,62  
0,08  
0,02  
0,34  
0,04  
Tin lành  
Khác  
1,65  
(0,93 - 2,91)  
Tôn giáo  
≥ THCS  
<THCS  
Nông  
Trình độ học  
vấn  
4,78  
(1,16-19,71)  
3
33,3  
146 69,9 63 30,1  
10 58,8 41,2  
74 76,3 23 23,7  
6
66,7  
1,62  
(0,59 - 4,45)  
Nghề nghiệp  
Số con  
Khác  
7
1 con  
1,84  
(1,02 - 3,32)  
2 con trở lên 82 63,6 47 36,4  
Không nghèo 135 76,3 42 23,7  
Tình trạng  
kinh tế  
4,29  
(2,20 - 8,32)  
20,04 0,001  
Nghèo  
21 42,9 28 57,1  
Tập 5 (8/2019)  
100  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
Có mối liên quan giữa trình độ học vấn  
thức đúng hơn gấp 1,84 lần so với bà mẹ  
và kiến thức của bà mẹ về phòng suy dinh  
dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể  
bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học cơ  
sở trở lên có khả năng có kiến thức đúng cao  
hơn 4,78 lần so với những bà mẹ có trình độ  
học vấn từ trung học cơ sở trở xuống (CI  
95%: 1,16 - 19,71)  
sinh con thứ 2 trở lên (CI 95%: 1,02 - 3,32).  
Có mối liên quan giữa tình trạng kinh tế  
với kiến thức của bà mẹ về phòng suy dinh  
dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể  
là bà mẹ thuộc diện hộ không nghèo có khả  
năng có kiến thức đúng gấp 4,29 lần bà mẹ  
thuộc diện hộ nghèo (CI95%: 2,20 - 8,32).  
Kết quả cho thấy có mối liên quan giữa  
số con với kiến thức của bà mẹ về phòng  
SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể  
bà mẹ sinh con lần đầu có khả năng có kiến  
3.4.2. Các yếu tố liên quan với thực hành  
Bảng 3.7. Mối liên quan giữa tuổi, dân tộc,  
tôn giáo, trình độ học vấn và nghề nghiệp của bà  
mẹ với thực hành phòng SDD cho trẻ  
Thực hành của bà mẹ  
Đúng Chưa đúng  
χ2  
Nội dung  
OR (95%CI)  
P
N
%
n
%
Khác  
K’Ho  
73  
79  
73  
79  
64  
41  
36  
0,74  
(0,42 - 1,29)  
Dân tộc  
1,08 0,29  
0,72 0,39  
1,99 0.27  
11,95 0,001  
4,29 0,03  
70,5  
64,6  
69,9  
33  
40  
34  
73  
1
29,5  
35,4  
30,1  
33,6  
11,1  
29,7  
70,6  
27,1  
40,2  
Khác  
0,79  
(0,45 - 1,37)  
Tôn giáo  
TĐHV  
Tin lành  
≥ THCS  
<THCS  
Nông  
144 66,4  
88,9  
147 70,3  
0,25  
(0,03 - 2,01)  
8
62  
12  
35  
39  
5,69  
(1,92 - 16,83)  
Nghề nghiệp  
Số con  
Khác  
5
29,4  
72,9  
59,8  
2 con trở lên 94  
1 con 58  
1,81  
(1,03 - 3,16)  
Không nghèo 125 70,6  
52  
22  
29,4  
44,9  
Tình trạng kinh  
tế gia đình  
1,96  
(1,02 - 3,75)  
4,19 0,04  
Nghèo  
27  
55,1  
Có mối liên quan giữa nghề nghiệp và  
thực hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ  
từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể, bà mẹ làm  
nghề nông nghiệp/chăn nuôi có khả năng  
thực hành đúng cao gấp 5,69 lần so với bà  
mẹ làm nghề khác (CI95%: 1,92 - 16,83).  
Có mối liên quan giữa số con và thực  
hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ từ 6  
đến 24 tháng tuổi. Cụ thể, bà mẹ sinh con lần  
thứ 2 trở lên có thể có khả năng thực hành  
đúng cao gấp 1,81 lần so với bà mẹ sinh con  
lần đầu (CI95%: 1,03 - 3,16).  
Tập 5 (8/2019)  
101  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
Có mối liên quan giữa tình trạng kinh tế  
Đối với vấn đề nuôi con bằng sữa mẹ,  
100% bà mẹ tham gia nghiên cứu cho biết  
cần phải cho con bú sữa mẹ trong 6 tháng  
đầu, có 50,9% bà mẹ biết cần cho trẻ bú  
theo nhu cầu, nhưng lại chỉ có 38,5% bà mẹ  
biết rằng phải cai sữa cho trẻ khi trẻ từ 18  
đến 24 tháng tuổi. Tlệ này tương đương  
với nghiên cứu Thực trạng công tác quản lý  
phòng SDD và tình trạng dinh dưỡng ở trẻ  
em dưới 5 tuổi tại huyện Di Linh tỉnh Lâm  
Đồng năm 2013 của Nguyễn Văn Thịnh  
(98,8% bà mẹ biết cần cho con bú trong 6  
tháng đầu và 50,8% bà mẹ biết rằng nên cai  
sữa cho trẻ từ 18 đến 24 tháng tuổi). Điều  
này cho thấy việc truyền thông về nuôi con  
bằng sữa mẹ đã đến được với các bà mẹ, tuy  
nhiên cần nhấn mạnh vấn đề thời gian cai  
sữa cho trẻ, điều này rất có ý nghĩa với sự  
tăng trưởng và phát triển của trẻ.  
gia đình và thực hành của bà mẹ về phòng  
SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể, các  
bà mẹ thuộc hộ gia đình không nghèo có khả  
năng thực hành chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ  
đúng cao gấp 1,96 lần so với các bà mẹ thuộc  
hộ gia đình nghèo (CI95%: 1,02 - 3,75).  
Bảng 3.8. Mối liên quan giữa kiến thức  
và thực hành của bà mẹ  
Thực hành  
của bà mẹ  
Kiến  
thức của  
bà mẹ  
χ2  
Đúng Chưa  
OR (95%CI)  
P
đúng  
n
%
%
n
Đúng 66 94,3 4 5,7  
13,43  
(4,66-38,66)  
33,64 0,001  
Chưa  
86 55,1 70 44,9  
đúng  
Có mối liên quan giữa kiến thức và thực  
hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ từ 6  
đến 24 tháng tuổi. Cụ thể, bà mẹ có kiến  
thức đúng thì có khả năng thực hành đúng  
cao hơn 13,43 lần bà mẹ có kiến thức chưa  
đúng (CI95%: 4,46 - 38,66).  
4.1.2. Thực hành của bà mẹ về phòng  
SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi  
Theo kết quả thực hành của bà mẹ về  
phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24  
tháng tuổi tại xã Tân Hội, có 67,3% bà mẹ  
thực hành chung đúng. Tlệ này phản ánh  
đúng về thực trạng thực hành phòng suy dinh  
dưỡng cho trẻ của bà mẹ ở địa phương và  
cũng phù hợp với tỉ lệ kiến thức của bà mẹ đã  
nêu ở trên. Tlệ này thấp hơn so với nghiên  
cứu của Lý Thị Phương Hoa về kiến thức, thực  
hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ của các bà mẹ và  
tình trạng dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi tại  
phường Trần Hưng Đạo, TP. Phủ Lý, tỉnh Hà  
Nam (70,3%). Điều này có thgiải thích do địa  
điểm nghiên cứu khác nhau, giữa thành thị và  
nông thôn, khả năng tiếp nhận thông tin cũng  
như tiếp cận với các dụng cụ chăm sóc trẻ,  
thực phẩm bổ sung dinh dưỡng cho trẻ tốt  
hơn bà mẹ ở miền núi dẫn đến thực hành của  
bà mẹ cũng thay đổi. Bên cạnh đó, đối tượng  
của 2 nghiên cứu khác nhau, dẫn đến việc  
thực hành phòng suy dinh dưỡng cho trẻ của  
bà mẹ cũng khác nhau.  
4. Bàn luận  
4.1. Kiến thức và thực hành phòng  
SDD cho trt6 đến 24 tháng tuổi  
4.1.1. Kiến thức phòng SDD cho trẻ từ 6  
đến 24 tháng tuổi  
Nghiên cứu này cho kết quả 31% bà mẹ  
có kiến thức chung chưa đúng về phòng suy  
dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi.  
Tlệ này tương đối cao (chiếm gần 1/3 mẫu  
nghiên cứu), điều này cho thấy các bà mẹ  
hiểu biết chưa hoàn toàn đầy đủ về kiến  
thức phòng suy dinh dưỡng cho trẻ. Đây là  
điều đáng lưu tâm bởi hiện nay chiến lược  
về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 đã  
được Thủ tướng phê duyệt, chiến lược này  
đã đi qua được một nửa thời gian mà việc  
cải thiện về kiến thức của bà mẹ vẫn chưa  
có chuyển biến rõ rệt (Nguyễn Thị Ngọc Bảo  
năm 2007).  
Tập 5 (8/2019)  
102  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
Vấn đề thực hành cho con bú sữa mẹ  
này cũng cho thấy để chương trình phòng  
suy dinh dưỡng cho trẻ em ngày càng hiệu  
quả hơn ở địa phương, các đối tượng bà mẹ  
trình độ học vấn thấp dưới THCS nên được  
quan tâm sâu sát hơn.  
trong 6 tháng đầu theo kết quả cho biết có  
202 bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ là chủ yếu  
trong 6 tháng đầu chiếm 89,4%. So sánh với  
nghiên cứu của Trần Thị Phúc Nguyệt về  
“Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các  
bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã  
Khánh Hà, Huyện Thường Tín, Hà Nội” thì tỉ  
lệ này thấp hơn nhưng cũng không đáng kể  
(91,5%). Tlệ bà mẹ cho trẻ bú thêm ban  
đêm trong 6 tháng đầu là 82,3%. Tlệ này  
thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Trần  
Thị Phúc Nguyệt, điều này có thể là do địa  
điểm nghiên cứu khác nhau, xã Khánh Hà  
huyện Thường Tín, Hà Nội thuộc vùng đồng  
bằng nên khả năng tiếp cận dịch vụ y tế và  
thực hành đúng hơn so với xã Tân Hội,  
huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.  
4.2.2. Một số yếu tố liên quan đến thực  
hành của bà mẹ về phòng suy dinh dưỡng cho  
trẻ 6 đến 24 tháng tuổi  
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối  
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các yếu  
tố nghề nghiệp của bà mẹ, số con, tình trạng  
kinh tế gia đình và kiến thức với thực hành  
phòng suy dinh dưỡng cho trẻ 6 đến 24  
tháng tuổi  
Đối với mối liên quan giữa kiến thức  
và thực hành về phòng suy dinh dưỡng, kết  
quả phân tích số liệu cho thấy có mối liên  
quan giữa kiến thức và thực hành của bà  
mẹ về phòng SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng  
tuổi. Cụ thể, bà mẹ có kiến thức đúng thì có  
khả năng thực hành đúng cao hơn 13,43  
lần bà mẹ có kiến thức chưa đúng. Điều này  
hoàn toàn dễ hiểu, khi bà mẹ có kiến thức  
đúng dẫn đến thực hành đúng. Từ những  
kiến thức bà mẹ đã chuẩn bị sẵn cho quá  
trình chăm sóc trẻ, áp dụng vào thực tế sẽ  
có hiệu quả hơn so với các bà mẹ có kiến  
thức thấp hơn. So sánh với nghiên cứu của  
Lý Thị Phương Hoa về kiến thức và thực  
hành của bà mẹ phòng chống SDD cho trẻ  
dưới 5 tuổi, có mối liên quan giữa kiến thức  
và thực hành (p=0,01). Điều này lý giải,  
kiến thức phòng SDD cho trẻ là nền tảng  
dẫn đến hành vi của bà mẹ, kiến thức đúng  
càng cao thì thực hành phòng SDD đúng  
càng cao và ngược lại.  
4.2. Mt syếu tố liên quan đến kiến  
thức, thực hành của bà mẹ về phòng suy  
dinh dưỡng cho trt6 đến 24 tháng tuổi  
4.2.1. Một số yếu tố liên quan đến kiến  
thức của bà mẹ về phòng suy dinh dưỡng cho  
trẻ 6 đến 24 tháng tuổi  
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối  
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa học vấn  
của bà mẹ và kiến thức phòng suy dinh  
dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể  
bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học cơ  
sở trở lên có khả năng có kiến thức đúng cao  
hơn 4,78 lần so với những bà mẹ có trình độ  
học vấn từ trung học cơ sở trở xuống. Điều  
này hoàn toàn hợp lý, khi bà mẹ có trình độ  
học vấn cao thì có thể tiếp cận đến các  
nguồn thông tin tốt hơn và dễ dàng hơn so  
với bà mẹ có trình độ học vấn thấp hơn.  
Nghiên cứu của Lý Thị Phương Hoa về kiến  
thức, thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ của các  
bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng trẻ dưới 5  
tuổi tại phường Trần Hưng Đạo, Tp. Phủ Lý,  
tỉnh Hà Nam cho thấy có mối liên quan giữa  
trình độ học vấn của bà mẹ với kiến thức  
phòng chống SDD cho trẻ (p = 0,03). Kết quả  
5. Kết luận  
5.1. Kiến thức của bà mẹ về phòng  
suy dinh dưỡng trt6 đến 24 tháng tuổi  
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 69% bà  
mẹ có kiến thức chung đúng về phòng suy  
dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi.  
Tập 5 (8/2019)  
103  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
5.2. Về thực hành của bà mẹ về phòng  
suy dinh dưỡng trt6 đến 24 tháng tuổi  
Tổ chức những chương trình nói  
chuyện chuyên đề về chăm sóc trẻ bệnh tiêu  
chảy bằng ngôn ngữ dân tộc K’ho, Chu Ru,  
Tổng hợp điểm thực hành có 67,3% bà  
mẹ thực hành đúng về phòng suy dinh  
dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi.  
Chú trọng nội dung tuyên truyền, tư  
vấn, hướng dẫn kiến thức liên quan cho các  
bà mẹ nhất là các kiến thức mà các bà mẹ  
còn đạt tỷ lệ đúng thấp như: Thời gian cho  
trẻ ăn bổ sung, chăm sóc trẻ bệnh tiêu chảy.  
5.3. Mt syếu tố liên quan đến kiến  
thức, thực hành của bà mẹ  
5.3.1. Một số yếu tố liên quan đến kiến  
thức của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ  
6.1.2. Bổ sung thực hành đúng về phòng  
suy dinh dưỡng cho bà mẹ  
Bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học  
cơ sở trở lên có khả năng có kiến thức đúng  
cao hơn 4,78 lần so với những bà mẹ có  
trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở  
xuống. Bà mẹ sinh con đầu có khả năng có  
kiến thức đúng hơn gấp 1,85 lần so với bà  
mẹ sinh con thứ 2 trở lên.  
Tổ chức thực hiện hướng dẫn tô màu  
bát bột cho bà mẹ 6 tháng/lần, kết hợp sử  
dụng thức ăn tại vườn nhà, thức ăn có sẵn  
tại địa phương.  
Tổ chức và hướng dẫn cách cho trẻ bú  
đúng, cho trẻ bú mẹ ngay sau sinh và kéo dài  
18-24 tháng tuổi.  
Bà mẹ thuộc diện hộ không nghèo có  
khả năng có kiến thức đúng gấp 4,29 lần bà  
mẹ thuộc diện hộ nghèo.  
Hướng dẫn và làm mẫu việc chọn thực  
phẩm cho trẻ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực  
phẩm: Chọn thực phẩm tươi, hạn chế cho  
trẻ dùng thực phẩm chế biến sẵn, đảm bảo  
ăn chín uống sôi.  
5.3.2.Một số yếu tố liên quan đến thực  
hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ  
Bà mẹ thuộc hộ gia đình không nghèo có  
khả năng thực hành chăm sóc dinh dưỡng  
cho trẻ đúng cao gấp 1,96 lần so với các bà  
mẹ thuộc hộ gia đình nghèo. Bà mẹ sinh con  
lần thứ 2 trở lên có khả năng thực hành đúng  
cao gấp 1,81 lần so với bà mẹ sinh con lần  
đầu. Đồng thời, bà mẹ có kiến thức đúng thì  
có khả năng thực hành đúng cao hơn 13,43  
lần bà mẹ có kiến thức chưa đúng.  
Tổ chức hướng dẫn bà mẹ khi trẻ bị  
bệnh hoặc có triệu chứng nặng cần đưa trẻ  
đến trạm y tế ngay. Thực hành phòng ngừa  
và điều trị triệt để các bệnh nhiễm trùng,  
chăm sóc đảm bảo đủ chất dinh dưỡng  
trong thời gian trẻ bị bệnh và phục hồi dinh  
dưỡng sau thời gian bị bệnh  
6.2. Đối với bà mẹ  
6. Khuyến nghị  
Khuyến khích bà mẹ tìm hiểu thông tin  
về phòng suy dinh dưỡng cho trẻ 6 đến 24  
tháng tuổi trên tivi, báo đài, loa phát thanh  
xã hoặc nhân viên y tế.  
6.1. Đối với ngành y tế địa phương/  
trm y tế  
6.1.1. Bổ sung kiến thức phòng suy dinh  
dưỡng cho bà mẹ  
Chú ý việc cân trẻ hàng tháng để theo  
dõi sự phát triển thể chất của trẻ.  
Có kế hoạch truyền thông cho việc triển  
khai hoạt động tại các xã về phòng suy dinh  
dưỡng cho trẻ em, nâng cao kiến thức  
phòng suy dinh dưỡng cho bà mẹ. Đặc biệt  
chú ý đến bà mẹ có trình độ học vấn thấp  
dưới THCS. Tăng thêm nội dung về cách cho  
trẻ ăn khi trẻ bệnh tiêu chảy.  
Khi trẻ bệnh tiêu chảy cho trẻ ăn uống  
đúng hoặc tham khảo ý kiến nhân viên y tế  
Tăng cường học tập, tranh thủ sắp xếp  
thời gian tham dự các buổi tư vấn do trạm y  
tế tổ chức để lắng nghe kiến thức về phòng  
SDD cho trẻ.  
Tập 5 (8/2019)  
104  
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Nguyễn Thị Ngọc Bảo (2007), Tình trạng  
Nguyễn Xuân Ninh, Hoàng Khải Lập và  
cộng sự (2004), Hiệu quả bổ sung bột  
dinh dưỡng - giàu vi chất trên trẻ nhỏ,  
Đề tài nhánh cấp nhà nước KC -10.05  
giai đoạn 2000 - 2004, Viện Dinh  
dưỡng Hà Nội.  
dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan  
của trẻ em dưới 5 tuổi ở nông thôn, Tạp  
chí Y dược số 4/2007, tr.4.  
Bộ Y tế (2012), Chiến lược Quốc gia về dinh  
dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 và tầm  
nhìn đến năm 2030, Hà Nội.  
Nguyễn Văn Thịnh (2013), Thực trạng công  
tác quản lý phòng chống SDD và tình  
trạng dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi  
tại huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng năm  
2013, Luận văn Chuyên khoa II y học dự  
phòng, trường Đại học Y Hà Nội.  
Bộ Y tế, Chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ và  
trẻ em tại gia đình, NXB. Y học, tr. 7-12,  
93-119.  
Lý Thị Phương Hoa (2014), Kiến thức,  
thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ của các  
bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng trẻ  
dưới 5 tuổi tại phường Trần Hưng  
Đạo, TP. Phủ Lý, tỉnh Hà Nam năm  
2012, Tạp chí Dinh dưỡng và Thực  
phẩm, tập 10 - số 3 (2014).  
Tổng cục Dân số- KHHGĐ (2006), Một số  
vấn đề sức khỏe ở Tây Nguyên năm  
2006. Tạp chí số 7 (tr. 28).  
Lê Danh Tuyên (2005), Đặc điểm dịch tể học  
và một số yếu tố nguy cơ suy dinh dưỡng  
thể thấp còi dưới 5 tuổi ở một số vùng  
sinh thái khác nhau ở nước ta hiện nay,  
Luận văn tiến sỹ khoa học chuyên  
ngành dịch tễ học, Viện vệ sinh dịch tễ  
Trung ương.  
Lê Thị Hợp và ctv (2007), Mười lời khuyên  
dinh dưỡng hợp lý, Tạp chí Dinh dưỡng  
và thực phẩm 3, tr.106-113.  
Hà Huy Khôi (2004), Dinh dưỡng và an toàn  
vệ sinh thực phẩm, nhà xuất bản Y học,  
Hà Nội 2004, tr.10-12.  
UNICEF (2010), Tracking progress on child  
and maternal nutrition.  
Trần Thị Phúc Nguyệt (2014), Thực hành  
nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ  
có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Khánh  
Hà, Huyện Thường Tín, Hà Nội, Tạp  
chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, tập 10  
- Số 3 (2014).  
Viện Dinh dưỡng quốc gia (2012), Báo cáo  
tóm tắt tổng điu tra dinh dưỡng 2009-  
2010, Hà Nội.  
Tập 5 (8/2019)  
105  
pdf 11 trang yennguyen 14/04/2022 2440
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng của bà mẹ và một số yếu tố liên quan tại xã Tân Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_phong_suy_dinh_duong_cho_tre_tu_6_den_24_thang_cu.pdf