Thực trạng phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng của bà mẹ và một số yếu tố liên quan tại xã Tân Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng năm 2015
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
THỰC TRẠNG PHÒNG SUY DINH DƯỠNG CHO TRẺ
TỪ 6 ĐẾN 24 THÁNG CỦA BÀ MẸ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN TẠI XÃ TÂN HỘI, HUYỆN ĐỨC TRỌNG,
TỈNH LÂM ĐỒNG NĂM 2015
Nguyễn Hợp Tấn1
TÓM TẮT
Trẻ em ở tỉnh Lâm Đồng thuộc những nơi có tỷ lệ suy dinh
dưỡng cao. Khảo sát về kiến thức, thực hành và các yếu tố liên
quan tới nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ là cần thiết, giúp thêm cơ
sở khoa học và thực tiễn cho cải thiện chương trình phòng suy
dinh dưỡng trẻ em có hiệu quả hơn. Nghiên cứu sử dụng phương
pháp mô tả cắt ngang có phân tích. Thông tin thu thập bằng cách
phỏng vấn trực tiếp, sử dụng bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Số liệu được
phân tích bằng SPSS 17.0. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 226
bà mẹ có 69% có kiến thức đúng và 67,3% thực hành đúng. Các
yếu tố học vấn, số con, tình trạng kinh tế gia đình gia đình có mối
liên quan có ý nghĩa thống kê với kiến thức phòng suy dinh dưỡng
cho trẻ 6 đến 24 tháng tuổi của bà mẹ. Qua đó cần chú trọng
truyền thông cho từng nhóm đối tượng, đặc biệt là những hộ
nghèo, các bà mẹ có trình độ văn hóa thấp để cải thiện kiến thức
và thực hành về nuôi dưỡng trẻ.
Title: Mothers’ knowledge and
practice to prevent malnutrition
among children 6-24 months
and some related factors in Tan
Hoi commune, Duc Trong
district, Lam Dong province in
2015
Từ khóa: Kiến thức, thực hành,
phòng suy dinh dưỡng, trẻ 6 đến
24 tháng tuổi
Keywords: Knowledge, practice,
to prevent
malnutrition,
children from 6 to 24 months
ABSTRACT
Thông tin chung:
Children in Lam Dong province are in areas with high rates of
malnutrition. Surveys of mothers' knowledge, practices and factors
related to child nourishment are necessary, helping to further the
scientific and practical basis for improving the child malnutrition
program more effectively. Research using cross-sectional design
with analysis. Information collected by direct interview, using pre-
designed questionnaires. Data were analyzed by SPSS 17.0.
Research results show that in 226 mothers have 69% have correct
knowledge and 67.3% practice properly. The factors of education,
number of children, economic status of the family family have a
statistically significant relationship with the knowledge of
malnutrition for children aged 6 to 24 months. Thereby, it is
necessary to pay attention to communication for each target group,
especially poor households and mothers with low educational level
to improve knowledge and practice about child rearing.
Ngày nhận bài: 06/5/2019;
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
20/7/2019;
Ngày chấp nhận đăng bài:
25/7/2019.
Tác giả:
1 Trường Đại học Yersin Đà Lạt
Email: tan.dhyersin@gmail.com
Tập 5 (8/2019)
95
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Đặt vấn đề
còn chưa tốt. Người chăm sóc trẻ chính là bà
mẹ lại phải dành nhiều thời gian cho việc
làm nương rẫy. Thêm vào đó, trẻ em giai
đoạn từ 6 đến 24 tháng tuổi là giai đoạn
quan trọng vì đây là thời kỳ có nhu cầu dinh
dưỡng cao, sữa mẹ không đáp ứng đủ nhu
cầu dinh dưỡng của trẻ, là thời kỳ thích ứng
với môi trường và rất nhạy cảm với bệnh tật
(Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình,
năm 2006). Đồng thời tại địa phương vẫn
chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu về vấn đề
chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ. Từ những lý
do nêu trên, tôi tiến hành nghiên cứu “Kiến
thức, thực hành phòng suy dinh dưỡng cho
trẻ từ 6 đến 24 tháng của bà mẹ và một số
yếu tố liên quan tại xã Tân Hội, huyện Đức
Trọng, tỉnh Lâm Đồng năm 2015” với 2 mục
tiêu là mô tả thực trạng kiến thức, thực hành
về phòng suy dinh dưỡng và xác định một số
yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành về
phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24
tháng tuổi của bà mẹ tại xã Tân Hội huyện
Đức Trọng năm 2015.
Dinh dưỡng tốt có vai trò quan trọng đối
với sự phát triển thể chất và tâm thần trẻ em.
Dinh dưỡng kém sẽ ảnh hưởng đến sự phát
triển chiều cao, trí tuệ và còn làm nặng thêm
các bệnh như tiêu chảy, viêm phổi,…. Theo số
liệu của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) cho
thấy có đến 54% trường hợp tử vong của trẻ
em ở các nước đang phát triển là có liên quan
đến tình trạng dinh dưỡng.
Nhiều sai lầm dẫn đến suy dinh dưỡng
(SDD) trẻ em không phải do thiếu thực
phẩm hộ gia đình mà là do thiếu sót ở kiến
thức, thực hành chăm sóc của bà mẹ
(Nguyễn Văn Thịnh, năm 2013). Đối tượng
giáo dục kiến thức chủ yếu là bà mẹ, cho nên
bà mẹ phải biết cách nuôi con để đứa con
phát triển tốt, tránh được nhiều bệnh, đặc
biệt là suy dinh dưỡng trẻ em. Các bà mẹ
còn thiếu kiến thức nuôi con dẫn tới việc
thực hành còn hạn chế. Hoặc có kiến thức
nuôi con nhưng không có điều kiện để thực
hành chăm sóc con đúng cách cũng là yếu tố
tác động trực tiếp tới tình trạng dinh dưỡng
của trẻ, đồng thời tác động gián tiếp tới
nguồn lao động tương lai của đất nước
(theo Lý Thị Phương Hoa, năm 2014). Vì
vậy, một trong những chiến lược quan trọng
trong phòng SDD là công tác truyền thông
giáo dục sức khỏe nhằm làm chuyển biến
tốt kiến thức, thực hành của các bà mẹ về
nuôi dưỡng trẻ (Lê Thị Hợp và ctv, 2007).
1. Tổng quan tài liệu
1.1. Khái niệm chung.
* Dinh dưỡng: Là tình trạng cơ thể được
cung cấp đầy đủ, cân đối các thành phần
dinh dưỡng, đảm bảo cho sự phát triển toàn
vẹn, tăng trưởng của cơ thể để đảm bảo
chức năng sinh lý và tham gia tích cực vào
các hoạt động xã hội (theo Hà Huy Khôi,
năm 2004).
Xã Tân Hội, Huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm
Đồng là xã nghèo của huyện, có tỷ lệ SDD
cao. Người dân trong xã chủ yếu là dân tộc
thiểu số (DTTS), do đó nhận thức còn chưa
cao, chưa tiếp xúc được với các thông tin xã
hội cập nhật. Bên cạnh đó vẫn còn những hủ
tục mang tính địa phương như cho trẻ ăn bổ
sung sớm trước 6 tháng để cứng cáp hơn,
không cho trẻ ra ngoài ánh sáng mặt trời…
nên công tác chăm sóc cho phụ nữ và trẻ em
* Định nghĩa suy dinh dưỡng: Là tình
trạng cơ thể thiếu protein, năng lượng và
các vi chất dinh dưỡng. Bệnh hay gặp ở trẻ
em dưới 5 tuổi, đặc biệt ở giai đoạn trẻ từ
6 đến 24 tháng tuổi. Biểu hiện ở nhiều mức
độ khác nhau, nhưng ít nhiều đều có ảnh
hưởng đến sự phát triển thể chất, tinh thần
và vận động của trẻ (theo Hà Huy Khôi,
năm 2004).
Tập 5 (8/2019)
96
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
* Thiếu dinh dưỡng Protein, năng
Nguyên nhân gốc rễ của SDD trẻ em đó
là nghèo đói và bà mẹ thiếu kiến thức về
dinh dưỡng cho trẻ. Đói nghèo chủ yếu rơi
vào những hộ gia đình có trình độ học vấn
thấp, khó có cơ hội tiếp xúc với các thông tin
và các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Mặt khác,
phần lớn các hộ gia đình nghèo, nhất là vùng
nông thôn và miền núi, người đồng bào dân
tộc thiểu số thường sinh nhiều con.
lượng: Thiếu protein, năng lượng là tình
trạng chậm lớn, chậm phát triển, do chế độ
ăn không đảm bảo nhu cầu protein và năng
lượng, tình trạng kèm theo là các bệnh
nhiễm khuẩn (Lê Danh Tuyên, năm 2005).
1.2. Nguyên nhân và các yếu tố liên
quan đến tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em
Khẩu phần ăn: Các số liệu điều tra về
khẩu phần ăn ở cả người lớn và trẻ em cho
thấy chế độ ăn đóng vai trò quan trọng dẫn
tới tình trạng SDD ở Việt Nam. Tần suất xuất
hiện các thực phẩm như thịt, cá, trứng, sữa
trong bữa ăn của trẻ thấp, thường do điều
kiện kinh tế gia đình hoặc do hiểu biết của
bà mẹ về chăm sóc dinh dưỡng trẻ em còn
hạn chế (Nguyễn Xuân Ninh, Hoàng Khải
Lập và cộng sự năm 2004).
1.3. Tầm quan trọng của dinh dưỡng
cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi.
Suy dinh dưỡng ở trẻ em từ 6 đến 24
tháng tuổi có nguy cơ tử vong cao. Theo
thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO), gần
50% trẻ suy dinh dưỡng từ 6 đến 24 tháng
tuổi ở các nước đang phát triển đã tử vong
do thiếu dinh dưỡng ở mức độ vừa và nhẹ.
Trẻ dễ mắc bệnh hơn đặc biệt là các
bệnh về nhiễm trùng hô hấp, tiêu chảy… Khi
cơ thể trẻ suy nhược do không được cung
cấp đủ dưỡng chất sẽ là điều kiện thuận lợi
để các bệnh thường gặp ở trẻ kéo dài. Khi
bệnh kéo dài, trẻ lại ăn uống kém và vì vậy
suy dinh dưỡng càng trở nên nặng nề hơn.
Ảnh hưởng xấu đến khả năng phát triển thể
lực, trí lực và tâm thần.
Bệnh tật: Thiếu dinh dưỡng và bệnh
nhiễm trùng ở trẻ em gây ảnh hưởng tới sự
phát triển chung của trẻ trong thời gian dài.
Thiếu sắt là nguyên nhân chính của 50% các
trường hợpthiếumáu. Thiếumộtsốcác vi chất
dinh dưỡng khác như vitamin nhóm B(B6, B12,
riboflavin) và axit folic cũng có thể gây thiếu
máu (Viện Dinh dưỡng quốc gia năm 2012).
Nhiễm ký sinh trùng đường ruột
(KSTĐR): Cũng là nguyên nhân quan trọng
gây ra SDD, thiếu máu ở trẻ em. Nhiễm
KSTĐR là một vấn đề sức khoẻ cộng đồng ở
các nước đang phát triển do điều kiện vệ
sinh môi trường không đảm bảo. Nhiễm
giun làm cho trẻ chán ăn, giảm hấp thu các
chất dinh dưỡng, thiếu máu và gây ảnh
hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ
(Nguyễn Thị Ngọc Bảo năm 2007).
2. Đối tượng và phương pháp
nghiên cứu
2.1. Đối tượng và cách chọn mẫu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô tả
cắt ngang có phân tích. Đối tượng nghiên
cứu là bà mẹ sinh con trong khoảng thời
gian từ tháng 3/2013 đến tháng 10/2014.
Với tiêu chí lựa chọn là bà mẹ có con từ 6
đến 24 tháng tuổi, đang sinh sống tại xã Tân
Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng và
đồng ý tham gia nghiên cứu. Nghiên cứu
Trẻ em bị SDD nếu không được chăm
sóc sẽ có thể dẫn đến tử vong. Theo tài liệu
của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) trong số
11,6 triệu trường hợp tử vong hằng năm ở
trẻ em dưới 5 tuổi tại các nước đang phát
triển thì có 6,4 triệu (54%) có liên quan đến
thiếu dinh dưỡng.
được thực hiện t ừ tháng 03/2015 đến tháng
07/2015.
Phương pháp chọn mẫu: Chọn toàn bộ
226 bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi
Tập 5 (8/2019)
97
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
đang sinh sống trên địa bàn xã Tân Hội,
2.2.3. Tiêu chuẩn đánh giá các chỉ số
nghiên cứu
huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng tại thời
điểm điều tra theo danh sách trạm y tế cung
cấp. Theo đó, ngày uống vitamin A trong
tháng, các điều tra viên tiến hành phỏng vấn
(bộ công cụ chuẩn bị sẵn) các bà mẹ về kiến
thức, thực hành phòng SDD cho trẻ 6 đến 24
tháng tuổi. Trường hợp bà mẹ không đưa
trẻ đi uống vitamin A, các điều tra viên là
nhân viên y tế thôn bản tại đia phương đến
nhà để phỏng vấn. Trên cơ sở cân nhắc
nguồn lực, khả năng triển khai, nhóm
nghiên cứu chúng tôi chọn toàn bộ 226 bà
mẹ này tham gia vào nghiên cứu.
Thực trạng kiến thức, thực hành phòng
SDD của bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi
được đánh giá dựa trên số lượng câu hỏi trả
lời đúng của đối tượng nghiên cứu.
Nguyên tắc cho điểm:
Dựa vào câu trả lời các câu hỏi về kiến
thức, thực hành phòng SDD của bà mẹ, mỗi
câu hỏi nếu trả lời của bà mẹ đúng thì được
điểm, nếu sai thì không có điểm. Điểm được
quy định trước cho mỗi câu trả lời (phụ lục 2).
Bà mẹ có kiến thức đúng về phòng SDD
cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi điểm kiến
thức ≥12(phụ lục 2) (đạt ít nhất 50% điểm
kiến thức tối đa).
2.2. Công cụ và phương pháp thu
thập số liệu
Bà mẹ thực hành đúng về phòng SDD
cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi khi điểm thực
hành đạt ≥10(phụ lục 2) (đạt ít nhất 50%
điểm thực hành tối đa).
2.2.1. Công cụ thu thập số liệu
Số liệu của nghiên cứu được thu thập
dựa trên bộ câu hỏi phỏng vấn có cấu trúc
gồm 4 phần: Thông tin chung, kiến thức của
bà mẹ về phòng SDD trẻ em từ 6 đến 24
tháng tuổi, thực hành của bà mẹ về phòng
SDD trẻ em từ 6 đến 24 tháng tuổi và một số
yếu tố liên quan. Bộ câu hỏi gồm 39 câu,
phỏng vấn trên bà mẹ, mỗi cuộc phỏng vấn
kéo dài khoảng 30 phút.
2.3. Phương pháp phân tích và xử lý
số liệu
Các phiếu điều tra được làm sạch và
nhập vào máy vi tính, số liệu được phân tích,
xử lý bằng phần mềm SPSS 17.0. Các thông
số đánh giá bao gồm các tần suất, tỷ lệ %.
Kiểm định χ2, OR, giá trị p (lấy giá trị p ≤ 0,05
để làm bằng chứng của mối liên quan) được
sử dụng để xác định yếu tố. Trường hợp tần
suất kì vọng của ít nhất 1 ô trong crosstab
nhỏ hơn 5, kiểm định Fisher’s exact test
được sử dụng để đánh giá mối liên quan
giữa các biến với nhau.
2.2.2. Phương pháp thu thập: Phỏng vấn
trực tiếp bằng bảng hỏi có cấu trúc
Đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn
bởi các điều tra viên (ĐTV) là cán bộ y tế
(CBYT) của xã Tân Hội. Các ĐTV đã được tập
huấn kỹ về mục tiêu, nội dung và kỹ thuật
thu thập thông tin phỏng vấn, điền bộ câu
hỏi, cách tiếp cận với đối tượng.
2.4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu tuân thủ các qui định của
Hội đồng đạo đức và chỉ thực hiện sau khi
được Hội đồng đạo đức Trường Đại học
Yersin Đà Lạt chấp nhận. Đồng thời, các cuộc
phỏng vấn chỉ thực hiện đối với bà mẹ đồng
ý tham gia và thông tin cá nhân của bà mẹ
được cam kết giữ kín. Bên cạnh đó, nghiên
cứu chỉ triển khai khi được sự đồng ý của
chính quyền địa phương cũng như trung tâm
y tế huyện Đức Trọng và xã Tân Hội.
Các ĐTV cùng với nhân viên y tế thôn
bản (NVYTTB) đến phỏng vấn từng bà mẹ
có trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi (theo danh
sách trạm y tế xã cung cấp) để thu thập
thông tin theo bộ câu hỏi đã thiết kế sẵn
trong ngày bà mẹ đưa trẻ đi uống vitamin A.
Tập 5 (8/2019)
98
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Thông tin chung củamẫunghiên cứu
Bảng 3.1. Phân bố đặc điểm của các bà mẹ
Lương
3.1
3.5
2.2
Buôn bán/kinh
doanh
Đặc điểm
< 25 tuổi
Số lượng Tỷ lệ %
90
136
4
39,8
60,2
1,8
Nhóm
tuổi
Nghề
nghiệp
≥25 tuổi
Nội trợ
Nông dân
Buôn bán
CBCCVC
Khác
91.2
Nông nghiệp/chăn
nuôi
209
3
92,5
1,3
Khác
8
3,5
2
0,9
Không biết chữ
Tiểu học
THCS
Trình độ
học vấn
6
3
131
76
1,3
1,3
59,3
33,6
Biểu đồ 3.1. Phân bổ nguồn thu nhập
chính của gia đình
THPT
Trung cấp
trở lên
3.2. Kiến thức phòng SDD cho trẻ từ 6
-24 tháng tuổi của bà mẹ
10
4,4
Dân tộc
Kinh
Chu Ru
K’ ho
DTTS khác
Không
Tin Lành
Phật giáo
Công giáo
Cao Đài
Nghèo
29
63
112
22
13
113
3
93
4
49
12,8
27,9
49,6
9,7
5,8
50
1,3
41,2
1,8
3.2.1. Kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ
Bảng 3.2. Kiến thức của bà mẹ về nuôi
con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu
Kiến thức đúng
Tôn giáo
Nuôi con bằng sữa mẹ
n
%
Bà mẹ biết cho trẻ bú hoàn
toàn trong 6 tháng đầu
Bà mẹ biết cho trẻ bú theo
nhu cầu
226
100
116
50,9
Kinh tế
hộ gia
đình
21,7
Trẻ >18 tháng cai sữa
87
38,5
Không nghèo
177
97
78,3
42,9
57,1
Kết quả bảng 3.2 cho thấy có 100% bà
mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi biết cho trẻ
bú sữa mẹ trong 6 tháng đầu. Có 50,9% bà
mẹ biết cho trẻ bú khi trẻ có nhu cầu. Đối với
thời gian cai sữa chỉ có 87 bà mẹ biết thực
hiện đúng cai sữa trên 18 tháng chiếm 38,5%
3.2.4 Kiến thức chung
Số con
Con đầu
Con thứ 2
trở lên
129
Trong số 226 bà mẹtham gia nghiên cứu,
số bà mẹ có con từ 25 tuổi trở xuống chiếm tỷ
lệ tương đối cao, 39,8%. Liên quan đến nghề
nghiệp, đa số bà mẹ tại xã Tân Hội làm nghề
nông, chiếm tỷ lệ 92,8%. Các bà mẹ tham gia
nghiên cứu cũng thuộc nhiều nhóm dân tộc
khác nhau trong đó dân tộc K’ho chiếm tỷ lệ
cao nhất 49,6%. Tỷ lệ bà mẹ theo tôn giáo Tin
Lành chiếm tỉ lệ cao nhất là 50%. Tỷ lệ bà mẹ
thuộc hộ gia đình nghèo trong mẫu nghiên
cứu chiếm 21,7%. Trong khi đó, tỷ lệ bà mẹ
sinh con thứ 2 trở lên chiếm 57,1 %.
Bảng 3.3. Tổng hợp kiến thức chung
Nội dung
n
%
Bà mẹ có kiến thức đúng
(≥12 điểm)
156 69
Bà mẹ có kiến thức chưa
đúng (<12 điểm)
Tổng
70
31
226 100
Bảng trên cho thấy kiến thức chung của
bà mẹ về chăm sóc trẻ đúng ở địa bàn
nghiên cứu chưa cao, cụ thể tỉ lệ bà mẹ có
kiến thức chăm sóc trẻ đúng là 69% và tỉ lệ
bà mẹ có kiến thức chưa đúng là 31%.
Trong nghiên cứu này, thu nhập của gia
đình từ nhiều nguồn khác nhau như lương,
buôn bán/kinh doanh, nông nghiệp/chăn
nuôi hoặc từ nguồn khác được mô tả ở biểu
đồ 3.1 dưới đây
Tập 5 (8/2019)
99
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
3.3 Thực hành về phòng SDD cho trẻ
3.3.4. Thực hành chung
từ 6 đến 24 tháng tuổi
Bảng 3.5. Kết quả về thực hành chung
3.3.1 Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ
Nội dung
n
%
Bà mẹ thực hành đúng
(≥10 điểm)
Bảng 3.4. Thực hành của bà mẹ về nuôi
con bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu
152 67,3
Bà mẹ thực hành chưa
đúng (<10 điểm)
Tổng
74
32,7
Thực hành
đúng
Nuôi con bằng sữa mẹ
226 100
n
%
Dựa vào bảng trên ta thấy tỉ lệ bà mẹ
thực hành phòng SDD cho trẻ đúng là 67,3%
và tỉ lệ bà mẹ thực hành chưa đúng là 32,7%
3.4. Các yếu tố liên quan đến kiến
thức, thực hành phòng SDD của bà mẹ có
con 6 đến 24 tháng tuổi
Nuôi con bằng sữa mẹ là
chủ yếu
202 89,4
186 82,3
Có cho trẻ bú thêm ban
đêm
Kết quả Bảng 3.4 cho biết tỉ lệ bà mẹ
nuôi con bằng sữa mẹ chủ yếu trong 6 tháng
đầu là 89,4%.Tỉ lệ bà mẹ cho trẻ bú thêm
ban đêm trong 6 tháng đầu là 82,3%.
3.4.1. Các yếu tố liên quan đến kiến thức
Bảng 3.6. Mối liên quan giữa tuổi, dân
tộc, tôn giáo, trình độ học vấn và nghề nghiệp
với kiến thức của bà mẹ
Kiến thức của bà mẹ
Đúng Chưa đúng OR (95%CI)
2
Nội dung
P
χ
N
%
n
%
K’Ho
Khác
79 70,5 33 29,5
77 67,5 37 32,5
84 74,3 29 25,7
72 63,7 41 36,3
153 70,5 64 29,5
1,15
(0,65 - 2,02)
Dân tộc
0,23
2,98
5,58
0,89
4,19
0,62
0,08
0,02
0,34
0,04
Tin lành
Khác
1,65
(0,93 - 2,91)
Tôn giáo
≥ THCS
<THCS
Nông
Trình độ học
vấn
4,78
(1,16-19,71)
3
33,3
146 69,9 63 30,1
10 58,8 41,2
74 76,3 23 23,7
6
66,7
1,62
(0,59 - 4,45)
Nghề nghiệp
Số con
Khác
7
1 con
1,84
(1,02 - 3,32)
2 con trở lên 82 63,6 47 36,4
Không nghèo 135 76,3 42 23,7
Tình trạng
kinh tế
4,29
(2,20 - 8,32)
20,04 0,001
Nghèo
21 42,9 28 57,1
Tập 5 (8/2019)
100
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Có mối liên quan giữa trình độ học vấn
thức đúng hơn gấp 1,84 lần so với bà mẹ
và kiến thức của bà mẹ về phòng suy dinh
dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể
bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học cơ
sở trở lên có khả năng có kiến thức đúng cao
hơn 4,78 lần so với những bà mẹ có trình độ
học vấn từ trung học cơ sở trở xuống (CI
95%: 1,16 - 19,71)
sinh con thứ 2 trở lên (CI 95%: 1,02 - 3,32).
Có mối liên quan giữa tình trạng kinh tế
với kiến thức của bà mẹ về phòng suy dinh
dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể
là bà mẹ thuộc diện hộ không nghèo có khả
năng có kiến thức đúng gấp 4,29 lần bà mẹ
thuộc diện hộ nghèo (CI95%: 2,20 - 8,32).
Kết quả cho thấy có mối liên quan giữa
số con với kiến thức của bà mẹ về phòng
SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể
bà mẹ sinh con lần đầu có khả năng có kiến
3.4.2. Các yếu tố liên quan với thực hành
Bảng 3.7. Mối liên quan giữa tuổi, dân tộc,
tôn giáo, trình độ học vấn và nghề nghiệp của bà
mẹ với thực hành phòng SDD cho trẻ
Thực hành của bà mẹ
Đúng Chưa đúng
χ2
Nội dung
OR (95%CI)
P
N
%
n
%
Khác
K’Ho
73
79
73
79
64
41
36
0,74
(0,42 - 1,29)
Dân tộc
1,08 0,29
0,72 0,39
1,99 0.27
11,95 0,001
4,29 0,03
70,5
64,6
69,9
33
40
34
73
1
29,5
35,4
30,1
33,6
11,1
29,7
70,6
27,1
40,2
Khác
0,79
(0,45 - 1,37)
Tôn giáo
TĐHV
Tin lành
≥ THCS
<THCS
Nông
144 66,4
88,9
147 70,3
0,25
(0,03 - 2,01)
8
62
12
35
39
5,69
(1,92 - 16,83)
Nghề nghiệp
Số con
Khác
5
29,4
72,9
59,8
2 con trở lên 94
1 con 58
1,81
(1,03 - 3,16)
Không nghèo 125 70,6
52
22
29,4
44,9
Tình trạng kinh
tế gia đình
1,96
(1,02 - 3,75)
4,19 0,04
Nghèo
27
55,1
Có mối liên quan giữa nghề nghiệp và
thực hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ
từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể, bà mẹ làm
nghề nông nghiệp/chăn nuôi có khả năng
thực hành đúng cao gấp 5,69 lần so với bà
mẹ làm nghề khác (CI95%: 1,92 - 16,83).
Có mối liên quan giữa số con và thực
hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ từ 6
đến 24 tháng tuổi. Cụ thể, bà mẹ sinh con lần
thứ 2 trở lên có thể có khả năng thực hành
đúng cao gấp 1,81 lần so với bà mẹ sinh con
lần đầu (CI95%: 1,03 - 3,16).
Tập 5 (8/2019)
101
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Có mối liên quan giữa tình trạng kinh tế
Đối với vấn đề nuôi con bằng sữa mẹ,
100% bà mẹ tham gia nghiên cứu cho biết
cần phải cho con bú sữa mẹ trong 6 tháng
đầu, có 50,9% bà mẹ biết cần cho trẻ bú
theo nhu cầu, nhưng lại chỉ có 38,5% bà mẹ
biết rằng phải cai sữa cho trẻ khi trẻ từ 18
đến 24 tháng tuổi. Tỷ lệ này tương đương
với nghiên cứu “Thực trạng công tác quản lý
phòng SDD và tình trạng dinh dưỡng ở trẻ
em dưới 5 tuổi tại huyện Di Linh tỉnh Lâm
Đồng năm 2013 của Nguyễn Văn Thịnh
(98,8% bà mẹ biết cần cho con bú trong 6
tháng đầu và 50,8% bà mẹ biết rằng nên cai
sữa cho trẻ từ 18 đến 24 tháng tuổi). Điều
này cho thấy việc truyền thông về nuôi con
bằng sữa mẹ đã đến được với các bà mẹ, tuy
nhiên cần nhấn mạnh vấn đề thời gian cai
sữa cho trẻ, điều này rất có ý nghĩa với sự
tăng trưởng và phát triển của trẻ.
gia đình và thực hành của bà mẹ về phòng
SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể, các
bà mẹ thuộc hộ gia đình không nghèo có khả
năng thực hành chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ
đúng cao gấp 1,96 lần so với các bà mẹ thuộc
hộ gia đình nghèo (CI95%: 1,02 - 3,75).
Bảng 3.8. Mối liên quan giữa kiến thức
và thực hành của bà mẹ
Thực hành
của bà mẹ
Kiến
thức của
bà mẹ
χ2
Đúng Chưa
OR (95%CI)
P
đúng
n
%
%
n
Đúng 66 94,3 4 5,7
13,43
(4,66-38,66)
33,64 0,001
Chưa
86 55,1 70 44,9
đúng
Có mối liên quan giữa kiến thức và thực
hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ từ 6
đến 24 tháng tuổi. Cụ thể, bà mẹ có kiến
thức đúng thì có khả năng thực hành đúng
cao hơn 13,43 lần bà mẹ có kiến thức chưa
đúng (CI95%: 4,46 - 38,66).
4.1.2. Thực hành của bà mẹ về phòng
SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi
Theo kết quả thực hành của bà mẹ về
phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24
tháng tuổi tại xã Tân Hội, có 67,3% bà mẹ
thực hành chung đúng. Tỉ lệ này phản ánh
đúng về thực trạng thực hành phòng suy dinh
dưỡng cho trẻ của bà mẹ ở địa phương và
cũng phù hợp với tỉ lệ kiến thức của bà mẹ đã
nêu ở trên. Tỉ lệ này thấp hơn so với nghiên
cứu của Lý Thị Phương Hoa về kiến thức, thực
hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ của các bà mẹ và
tình trạng dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi tại
phường Trần Hưng Đạo, TP. Phủ Lý, tỉnh Hà
Nam (70,3%). Điều này có thểgiải thích do địa
điểm nghiên cứu khác nhau, giữa thành thị và
nông thôn, khả năng tiếp nhận thông tin cũng
như tiếp cận với các dụng cụ chăm sóc trẻ,
thực phẩm bổ sung dinh dưỡng cho trẻ tốt
hơn bà mẹ ở miền núi dẫn đến thực hành của
bà mẹ cũng thay đổi. Bên cạnh đó, đối tượng
của 2 nghiên cứu khác nhau, dẫn đến việc
thực hành phòng suy dinh dưỡng cho trẻ của
bà mẹ cũng khác nhau.
4. Bàn luận
4.1. Kiến thức và thực hành phòng
SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi
4.1.1. Kiến thức phòng SDD cho trẻ từ 6
đến 24 tháng tuổi
Nghiên cứu này cho kết quả 31% bà mẹ
có kiến thức chung chưa đúng về phòng suy
dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi.
Tỷ lệ này tương đối cao (chiếm gần 1/3 mẫu
nghiên cứu), điều này cho thấy các bà mẹ
hiểu biết chưa hoàn toàn đầy đủ về kiến
thức phòng suy dinh dưỡng cho trẻ. Đây là
điều đáng lưu tâm bởi hiện nay chiến lược
về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 đã
được Thủ tướng phê duyệt, chiến lược này
đã đi qua được một nửa thời gian mà việc
cải thiện về kiến thức của bà mẹ vẫn chưa
có chuyển biến rõ rệt (Nguyễn Thị Ngọc Bảo
năm 2007).
Tập 5 (8/2019)
102
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Vấn đề thực hành cho con bú sữa mẹ
này cũng cho thấy để chương trình phòng
suy dinh dưỡng cho trẻ em ngày càng hiệu
quả hơn ở địa phương, các đối tượng bà mẹ
trình độ học vấn thấp dưới THCS nên được
quan tâm sâu sát hơn.
trong 6 tháng đầu theo kết quả cho biết có
202 bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ là chủ yếu
trong 6 tháng đầu chiếm 89,4%. So sánh với
nghiên cứu của Trần Thị Phúc Nguyệt về
“Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các
bà mẹ có con dưới 24 tháng tuổi tại xã
Khánh Hà, Huyện Thường Tín, Hà Nội” thì tỉ
lệ này thấp hơn nhưng cũng không đáng kể
(91,5%). Tỉ lệ bà mẹ cho trẻ bú thêm ban
đêm trong 6 tháng đầu là 82,3%. Tỉ lệ này
thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Trần
Thị Phúc Nguyệt, điều này có thể là do địa
điểm nghiên cứu khác nhau, xã Khánh Hà
huyện Thường Tín, Hà Nội thuộc vùng đồng
bằng nên khả năng tiếp cận dịch vụ y tế và
thực hành đúng hơn so với xã Tân Hội,
huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.
4.2.2. Một số yếu tố liên quan đến thực
hành của bà mẹ về phòng suy dinh dưỡng cho
trẻ 6 đến 24 tháng tuổi
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các yếu
tố nghề nghiệp của bà mẹ, số con, tình trạng
kinh tế gia đình và kiến thức với thực hành
phòng suy dinh dưỡng cho trẻ 6 đến 24
tháng tuổi
Đối với mối liên quan giữa kiến thức
và thực hành về phòng suy dinh dưỡng, kết
quả phân tích số liệu cho thấy có mối liên
quan giữa kiến thức và thực hành của bà
mẹ về phòng SDD cho trẻ từ 6 đến 24 tháng
tuổi. Cụ thể, bà mẹ có kiến thức đúng thì có
khả năng thực hành đúng cao hơn 13,43
lần bà mẹ có kiến thức chưa đúng. Điều này
hoàn toàn dễ hiểu, khi bà mẹ có kiến thức
đúng dẫn đến thực hành đúng. Từ những
kiến thức bà mẹ đã chuẩn bị sẵn cho quá
trình chăm sóc trẻ, áp dụng vào thực tế sẽ
có hiệu quả hơn so với các bà mẹ có kiến
thức thấp hơn. So sánh với nghiên cứu của
Lý Thị Phương Hoa về kiến thức và thực
hành của bà mẹ phòng chống SDD cho trẻ
dưới 5 tuổi, có mối liên quan giữa kiến thức
và thực hành (p=0,01). Điều này lý giải,
kiến thức phòng SDD cho trẻ là nền tảng
dẫn đến hành vi của bà mẹ, kiến thức đúng
càng cao thì thực hành phòng SDD đúng
càng cao và ngược lại.
4.2. Một số yếu tố liên quan đến kiến
thức, thực hành của bà mẹ về phòng suy
dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi
4.2.1. Một số yếu tố liên quan đến kiến
thức của bà mẹ về phòng suy dinh dưỡng cho
trẻ 6 đến 24 tháng tuổi
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa học vấn
của bà mẹ và kiến thức phòng suy dinh
dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi. Cụ thể
bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học cơ
sở trở lên có khả năng có kiến thức đúng cao
hơn 4,78 lần so với những bà mẹ có trình độ
học vấn từ trung học cơ sở trở xuống. Điều
này hoàn toàn hợp lý, khi bà mẹ có trình độ
học vấn cao thì có thể tiếp cận đến các
nguồn thông tin tốt hơn và dễ dàng hơn so
với bà mẹ có trình độ học vấn thấp hơn.
Nghiên cứu của Lý Thị Phương Hoa về kiến
thức, thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ của các
bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng trẻ dưới 5
tuổi tại phường Trần Hưng Đạo, Tp. Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam cho thấy có mối liên quan giữa
trình độ học vấn của bà mẹ với kiến thức
phòng chống SDD cho trẻ (p = 0,03). Kết quả
5. Kết luận
5.1. Kiến thức của bà mẹ về phòng
suy dinh dưỡng trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 69% bà
mẹ có kiến thức chung đúng về phòng suy
dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi.
Tập 5 (8/2019)
103
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
5.2. Về thực hành của bà mẹ về phòng
suy dinh dưỡng trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi
Tổ chức những chương trình nói
chuyện chuyên đề về chăm sóc trẻ bệnh tiêu
chảy bằng ngôn ngữ dân tộc K’ho, Chu Ru,
Tổng hợp điểm thực hành có 67,3% bà
mẹ thực hành đúng về phòng suy dinh
dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi.
Chú trọng nội dung tuyên truyền, tư
vấn, hướng dẫn kiến thức liên quan cho các
bà mẹ nhất là các kiến thức mà các bà mẹ
còn đạt tỷ lệ đúng thấp như: Thời gian cho
trẻ ăn bổ sung, chăm sóc trẻ bệnh tiêu chảy.
5.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến
thức, thực hành của bà mẹ
5.3.1. Một số yếu tố liên quan đến kiến
thức của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ
6.1.2. Bổ sung thực hành đúng về phòng
suy dinh dưỡng cho bà mẹ
Bà mẹ có trình độ học vấn từ trung học
cơ sở trở lên có khả năng có kiến thức đúng
cao hơn 4,78 lần so với những bà mẹ có
trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở
xuống. Bà mẹ sinh con đầu có khả năng có
kiến thức đúng hơn gấp 1,85 lần so với bà
mẹ sinh con thứ 2 trở lên.
Tổ chức thực hiện hướng dẫn tô màu
bát bột cho bà mẹ 6 tháng/lần, kết hợp sử
dụng thức ăn tại vườn nhà, thức ăn có sẵn
tại địa phương.
Tổ chức và hướng dẫn cách cho trẻ bú
đúng, cho trẻ bú mẹ ngay sau sinh và kéo dài
18-24 tháng tuổi.
Bà mẹ thuộc diện hộ không nghèo có
khả năng có kiến thức đúng gấp 4,29 lần bà
mẹ thuộc diện hộ nghèo.
Hướng dẫn và làm mẫu việc chọn thực
phẩm cho trẻ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm: Chọn thực phẩm tươi, hạn chế cho
trẻ dùng thực phẩm chế biến sẵn, đảm bảo
ăn chín uống sôi.
5.3.2.Một số yếu tố liên quan đến thực
hành của bà mẹ về phòng SDD cho trẻ
Bà mẹ thuộc hộ gia đình không nghèo có
khả năng thực hành chăm sóc dinh dưỡng
cho trẻ đúng cao gấp 1,96 lần so với các bà
mẹ thuộc hộ gia đình nghèo. Bà mẹ sinh con
lần thứ 2 trở lên có khả năng thực hành đúng
cao gấp 1,81 lần so với bà mẹ sinh con lần
đầu. Đồng thời, bà mẹ có kiến thức đúng thì
có khả năng thực hành đúng cao hơn 13,43
lần bà mẹ có kiến thức chưa đúng.
Tổ chức hướng dẫn bà mẹ khi trẻ bị
bệnh hoặc có triệu chứng nặng cần đưa trẻ
đến trạm y tế ngay. Thực hành phòng ngừa
và điều trị triệt để các bệnh nhiễm trùng,
chăm sóc đảm bảo đủ chất dinh dưỡng
trong thời gian trẻ bị bệnh và phục hồi dinh
dưỡng sau thời gian bị bệnh
6.2. Đối với bà mẹ
6. Khuyến nghị
Khuyến khích bà mẹ tìm hiểu thông tin
về phòng suy dinh dưỡng cho trẻ 6 đến 24
tháng tuổi trên tivi, báo đài, loa phát thanh
xã hoặc nhân viên y tế.
6.1. Đối với ngành y tế địa phương/
trạm y tế
6.1.1. Bổ sung kiến thức phòng suy dinh
dưỡng cho bà mẹ
Chú ý việc cân trẻ hàng tháng để theo
dõi sự phát triển thể chất của trẻ.
Có kế hoạch truyền thông cho việc triển
khai hoạt động tại các xã về phòng suy dinh
dưỡng cho trẻ em, nâng cao kiến thức
phòng suy dinh dưỡng cho bà mẹ. Đặc biệt
chú ý đến bà mẹ có trình độ học vấn thấp
dưới THCS. Tăng thêm nội dung về cách cho
trẻ ăn khi trẻ bệnh tiêu chảy.
Khi trẻ bệnh tiêu chảy cho trẻ ăn uống
đúng hoặc tham khảo ý kiến nhân viên y tế
Tăng cường học tập, tranh thủ sắp xếp
thời gian tham dự các buổi tư vấn do trạm y
tế tổ chức để lắng nghe kiến thức về phòng
SDD cho trẻ.
Tập 5 (8/2019)
104
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN - CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Thị Ngọc Bảo (2007), Tình trạng
Nguyễn Xuân Ninh, Hoàng Khải Lập và
cộng sự (2004), Hiệu quả bổ sung bột
dinh dưỡng - giàu vi chất trên trẻ nhỏ,
Đề tài nhánh cấp nhà nước KC -10.05
giai đoạn 2000 - 2004, Viện Dinh
dưỡng Hà Nội.
dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan
của trẻ em dưới 5 tuổi ở nông thôn, Tạp
chí Y dược số 4/2007, tr.4.
Bộ Y tế (2012), Chiến lược Quốc gia về dinh
dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 và tầm
nhìn đến năm 2030, Hà Nội.
Nguyễn Văn Thịnh (2013), Thực trạng công
tác quản lý phòng chống SDD và tình
trạng dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi
tại huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng năm
2013, Luận văn Chuyên khoa II y học dự
phòng, trường Đại học Y Hà Nội.
Bộ Y tế, Chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ và
trẻ em tại gia đình, NXB. Y học, tr. 7-12,
93-119.
Lý Thị Phương Hoa (2014), Kiến thức,
thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ của các
bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng trẻ
dưới 5 tuổi tại phường Trần Hưng
Đạo, TP. Phủ Lý, tỉnh Hà Nam năm
2012, Tạp chí Dinh dưỡng và Thực
phẩm, tập 10 - số 3 (2014).
Tổng cục Dân số- KHHGĐ (2006), Một số
vấn đề sức khỏe ở Tây Nguyên năm
2006. Tạp chí số 7 (tr. 28).
Lê Danh Tuyên (2005), Đặc điểm dịch tể học
và một số yếu tố nguy cơ suy dinh dưỡng
thể thấp còi dưới 5 tuổi ở một số vùng
sinh thái khác nhau ở nước ta hiện nay,
Luận văn tiến sỹ khoa học chuyên
ngành dịch tễ học, Viện vệ sinh dịch tễ
Trung ương.
Lê Thị Hợp và ctv (2007), Mười lời khuyên
dinh dưỡng hợp lý, Tạp chí Dinh dưỡng
và thực phẩm 3, tr.106-113.
Hà Huy Khôi (2004), Dinh dưỡng và an toàn
vệ sinh thực phẩm, nhà xuất bản Y học,
Hà Nội 2004, tr.10-12.
UNICEF (2010), Tracking progress on child
and maternal nutrition.
Trần Thị Phúc Nguyệt (2014), Thực hành
nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ
có con dưới 24 tháng tuổi tại xã Khánh
Hà, Huyện Thường Tín, Hà Nội, Tạp
chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, tập 10
- Số 3 (2014).
Viện Dinh dưỡng quốc gia (2012), Báo cáo
tóm tắt tổng điều tra dinh dưỡng 2009-
2010, Hà Nội.
Tập 5 (8/2019)
105
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng phòng suy dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng của bà mẹ và một số yếu tố liên quan tại xã Tân Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- thuc_trang_phong_suy_dinh_duong_cho_tre_tu_6_den_24_thang_cu.pdf