Tan máu cấp do Ceftriaxone: Biến chứng nặng đe dọa tính mạng

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
TAN MÁU CẤP DO CEFTRIAXONE:  
BIẾN CHỨNG NẶNG ĐE DỌA TÍNH MẠNG  
Mai Thành Công1, , Bùi Thị Tho2, Nguyễn Thị Diệu Thúy1  
1Trường Đại học Y Hà Nội  
2Bệnh viện Nhi Trung ương  
Tan máu miễn dịch liên quan đến thuốc (DIIHA) là một biến chứng hiếm gặp và thường dễ bị bỏ sót chẩn đoán.  
Thực tế, đây lại là biến chứng nghiêm trọng, có thể gây suy tạng, thậm chí tử vong. Gần đây, ceftriaxone được ghi  
nhận là một trong những thuốc thường gặp nhất gây DIIHA. Chúng tôi báo cáo một trường hợp trẻ nam 19 tháng  
tuổi được chẩn đoán viêm phổi và điều trị bằng ceftriaxone tĩnh mạch 2 lần/ngày tại bệnh viện địa phương. Sau tiêm  
ceftriaxone 5 ngày, trẻ đột ngột xuất hiện tình trạng mạch nhanh, nhợt và tiểu đỏ sẫm; được xử trí theo phác đồ sốc  
phảnvvàchuyểnBệnhviệnNhiTrungương. Trđượcchẩnđnmctanmáumiễndịchlnquanđếnceftriaxone,  
ngừng sử dụng ceftriaxone và điều trị thành công bằng immunoglobulin tĩnh mạch. Tan máu miễn dịch liên quan đến  
ceftriaxone hiếm gặp nhưng có thể gây tổn thương đa cơ quan, đe dọa tính mạng. Các bác sĩ lâm sàng cần nhận biết  
biếnchứngnàyđchẩnđnsmvàchínhxác,ngừngngaythuốctránhgâyrahuqunghiêmtrọngchobệnhnhân.  
Từ khóa: Tan máu, tan máu miễn dịch liên quan đến thuốc, ceftriaxone, trẻ em.  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
Tan máu miễn dịch liên quan đến thuốc (DI-  
IHA: Drug induced immune hemolytic anemia)  
là một biến chứng hiếm gặp khi sử dụng thuốc,  
với tỉ lệ mắc mới ước tính khoảng 1/1000000  
ca/năm.1 Tuy nhiên, trong thực tế tỉ lệ này có  
thể cao hơn do bị bỏ sót chẩn đoán.  
liên quan đến thuốc gây ra tan máu. Các kháng  
thể liên quan đến DIIHA được phân thành hai  
nhóm chính: (1) kháng thể không phụ thuộc  
thuốc (drug-independent antibodies) là loại  
kháng thể có thể gắn với hồng cầu in vitro  
mà không cần sự có mặt của thuốc, đây là tự  
kháng thể trực tiếp với cấu trúc màng hồng  
cầu là chủ yếu, thuốc chỉ là một phần nhỏ  
không đáng kể trong vị trí gắn; (2) kháng thể  
phụ thuộc thuốc (drug-dependent antibodies)  
là loại kháng thể chỉ gắn với hồng cầu in vitro  
khi có thuốc, do kháng thể kháng lại cấu trúc  
phân tử của thuốc hoặc cấu trúc tạo bởi thuốc  
kết hợp với màng hồng cầu.1,2,4 Loại kháng thể  
phụ thuộc thuốc thường gặp hơn trong DIIHA,  
tuy nhiên cả hai loại kháng thể này đều có thể  
được tạo ra đồng thời ở một cá thể trong cùng  
một phản ứng với thuốc.1  
Số loại thuốc được báo cáo gây ra DIIHA  
tăng lên trong những thập kỉ gần đây kể từ báo  
cáo đầu tiên vào đầu những năm 1950. Cho đến  
nay có hơn 130 loại thuốc được báo cáo gây  
ra DIIHA,2 phổ biến là kháng sinh, thuốc chống  
viêm và hoạt chất nhóm platinum. Trong số các  
kháng sinh gây ra DIIHA, nhóm cephalosporin  
thế hệ 2, 3 và nhóm penicillin là hay gặp nhất.1,3  
Tan máu do thuốc có thể do độc tính của  
thuốc gây phá hủy trực tiếp hồng cầu (như  
ribavirin) hoặc DIIHA do phản ứng miễn dịch  
Liên quan đến loại kháng thể phụ thuộc  
thuốc, có hai cơ chế gắn thuốc với màng hồng  
cầu: (i) cơ chế hấp phụ thuốc (drug adsorption  
mechanism) do thuốc liên kết cộng hóa trị với  
màng hồng cầu như penicillin, cefotetan; (ii)  
Tác giả liên hệ: Mai Thành Công  
Trường Đại học Y Hà Nội  
Email: Maithanhcong@hmu.edu.vn  
Ngày nhận: 15/03/2021  
Ngày được chấp nhận: 16/05/2021  
TCNCYH 142 (6) - 2021  
9
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
cơ chế phức hợp miễn dịch (immune complex  
mechanism) với sự liên kết khá lỏng lẻo tạo ra  
kháng thể IgM, hoạt hóa bổ thể gây tan máu  
trong lòng mạch như ceftriaxone.4  
tĩnh mạch liều 50 mg/kg/lần, 2 lần/ngày. Ngay  
sau tiêm ceftriaxone mũi thứ 11, trẻ đột ngột  
xuất hiện tình trạng kích thích, mạch nhanh,  
nhợt và tiểu đỏ sẫm. Trẻ được xử trí theo phác  
đồ phản vệ, xét nghiệm máu cho thấy thiếu máu  
nặng (nồng độ hemoglobin 47 g/L), số lượng  
bạch cầu tăng rất cao (72 G/L), nồng độ CRP  
tăng nhẹ (13 mg/L) nên được chuyển đến Bệnh  
viện Nhi Trung ương để tìm nguyên nhân.  
Trong những năm gần đây, ceftriaxone được  
báo cáo là một trong những tác nhân quan trọng  
nhất gây ra DIIHA.2–4 Tan máu miễn dịch do  
ceftriaxone đặc trưng bởi nồng độ hemoglobin  
giảm mạnh đột ngột, tỉ lệ suy cơ quan cao và tỉ  
lệ tử vong ít nhất là 30%.3,6 Biến chứng này xảy  
ra ở trẻ em có bệnh cảnh lâm sàng nặng hơn và  
tiên lượng xấu hơn ở người lớn.4,6  
Tại Bệnh viện Nhi Trung ương, trẻ được  
chẩn đoán trên lâm sàng là tan máu cấp và  
chỉ định một số xét nghiệm với kết quả: thiếu  
máu nặng (nồng độ hemoglobin 64 g/L) hồng  
cầu bình sắc, tỷ lệ hồng cầu lưới tăng (4,17%)  
trên huyết đồ; nồng độ lactacte dehydrogenase  
(LDH) máu tăng cao (2564,6 U/L), nồng độ  
bilirubin gián tiếp tăng nhẹ (nồng độ bilirubin  
toàn phần và bilirubin gián tiếp lần lượt là 45,9  
umol/L và 38,5 umol/L) và huyết sắc tố niệu  
dương tính. Kết quả một số xét nghiệm để xác  
định nguyên nhân tan máu như hoạt độ men  
G6PD và điện di huyết sắc tố bình thường, test  
Coombs trực tiếp dương tính 3+, test Coombs  
gián tiếp âm tính, nồng độ bổ thể C3, C4 huyết  
thanh đều giảm (tương ứng là 0,76 g/L và 0,03  
g/L), kháng thể kháng nhân âm tính. Một số xét  
nghiệm khác: số lượng tiểu cầu máu ngoại vi  
(296 G/L) và các chỉ số đông máu cơ bản (INR,  
aPTTs, fibrinogen) nằm trong giới hạn bình  
thường, số lượng bạch cầu tăng cao (41,49  
G/L), ure máu tăng (11,3 umol/L), creatinine  
bình thường (49,9 umol/L), test cúm A từ dịch  
mũi họng dương tính, xét nghiệm huyết thanh  
tìm nguyên nhân nhiễm trùng khác như CMV  
(cytomegalovirus), EBV (Epstain-Barr virus),  
HAV (hepatitis A virus), HEV (hepatitis E virus),  
HIV, Mycoplasma pneumoniae đều âm tính.  
Do tính hiếm gặp và tiên lượng xấu, DIIHA  
ở trẻ em cần được các bác sĩ lâm sàng nhận  
biết để chẩn đoán chính xác và xử trí kịp thời.  
Chúng tôi báo cáo một trường hợp trẻ 19  
tháng tuổi xuất hiện tan máu cấp tính gây suy  
tuần hoàn, suy thận sau điều trị kháng sinh  
ceftriaxone, được xử trí theo phác đồ sốc phản  
vệ tại bệnh viện địa phương. Chúng tôi chẩn  
đoán bệnh nhân bị tan máu tự miễn liên quan  
đến ceftriaxone và điều trị thành công bằng  
immunoglobulin đường tĩnh mạch.  
II. GIỚI THIỆU CA BỆNH  
Bệnh nhân nam, 19 tháng tuổi được đưa  
đến khám và nhập viện tại bệnh viện địa  
phương vì sốt cao và ho. Kết quả một số xét  
nghiệm của bệnh nhân lúc nhập viện: số lượng  
bạch cầu máu ngoại vi tăng (16 G/L), số lượng  
tiểu cầu (462 G/L) và nồng độ hemoglobin (121  
g/L) bình thường; nồng độ protein C phản ứng  
(CRP) tăng nhẹ (8,7 mg/L); test cúm A dương  
tính; X-quang ngực có hình ảnh viêm phổi. Bệnh  
nhân có tiền sử khỏe mạnh, chưa từng điều  
trị kháng sinh trước đây. Trẻ được chẩn đoán  
viêm phổi mắc phải tại cộng đồng và điều trị  
bằng kháng sinh Augmentin (amoxicillin – acid  
clavulanic) đường uống. Sau 5 ngày điều trị, do  
tình trạng viêm phổi tiến triển chậm, bệnh nhân  
được chuyển sang kháng sinh ceftriaxone tiêm  
Chúng tôi chẩn đoán xác định bệnh nhân bị  
thiếu máu nặng do tan máu miễn dịch liên quan  
đến ceftriaxone nên dừng điều trị kháng sinh  
ceftriaxone, truyền khối hồng cầu cùng nhóm  
10  
TCNCYH 142 (6) - 2021  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
và chỉ định immunoglobulin tĩnh mạch liều 0,5 g/kg. Màu sắc nước tiểu nhạt dần sau khi dừng tiêm  
ceftriaxone (hình 1). Ngay sau điều trị, tình trạng bệnh nhân ổn định, nồng độ hemoglobin trở về  
bình thường và không còn tình trạng tan máu (biểu đồ 1), ure máu trở về bình thường sau 1 ngày,  
số lượng bạch cầu cũng giảm dần. Sau 4 ngày, chúng tôi làm lại xét nghiệm: nồng độ hemoglobin  
114g/L, số lượng bạch cầu 20,84 G/L, test Coombs trực tiếp dương tính 2+, nồng độ bổ thể bình  
thường. Bệnh nhân được xuất viện, tư vấn về việc không sử dụng kháng sinh nhóm ceftriaxone và  
các kháng sinh có khả năng phản ứng chéo với ceftriaxone.  
300  
250  
200  
HGB  
150  
100  
50  
BC  
LDH  
0
N0  
N10  
N11  
N12  
N14  
Biểu đồ 1. Thay đổi một số xét nghiệm máu  
của bệnh nhân  
Hình 1. Thay đổi màu sắc nước tiểu sau  
tiêm ceftriaxone (A) sau 8 giờ,  
(B) sau 12 giờ, (C) sau 15 giờ  
(HGB: nồng độ hemoglobin (g/L), BC: số  
lượng bạch cầu máu ngoại vi (G/L), LDH: nồng  
độ lactat dehydrogenase trong máu (U/dL), N0  
là ngày nhập viện tuyến địa phương).  
III. BÀN LUẬN  
trạng kích thích, mạch nhanh ngay sau khi tiêm  
ceftriaxone nên được chẩn đoán và xử trí theo  
phác đồ sốc phản vệ tại bệnh viện địa phương.  
Tiếp cận và xử trí ban đầu này phù hợp tại tuyến  
y tế cơ sở. Tuy nhiên, trẻ nhợt nhanh và tiểu  
đỏ sẫm không phải là triệu chứng phản vệ. Mặt  
khác, trẻ không có biểu hiện mất máu hay chảy  
máu cấp nên tình trạng tan máu cấp có thể giải  
thích những triệu chứng lâm sàng ở bệnh nhân  
này. Kết quả các xét nghiệm khẳng định đây  
là tình trạng tan máu trong lòng mạch: thiếu  
máu hồng cầu bình sắc, tỷ lệ hồng cầu lưới  
máu ngoại vi tăng; nồng độ LDH máu tăng cao,  
nồng độ bilirubin gián tiếp tăng nhẹ và huyết  
sắc tố niệu dương tính. Test Coombs trực tiếp  
dương tính và nồng độ bổ thể trong máu giảm  
là bằng chứng của tan máu miễn dịch.  
Ceftrixone được báo cáo là một trong các  
loại thuốc thường gặp nhất gây ra DIIHA trong  
thời gian gần đây.2,3 Một nghiên cứu hồi cứu  
trên 25 trường hợp DIIHA do ceftriaxone từ  
năm 1987 – 2010 cho thấy 64% số trường hợp  
được báo cáo xảy ra trong thập kỉ gần đây.6  
Điều này có thể do khả năng nhận thức về DII-  
HA của các bác sĩ lâm sàng tăng lên trong thời  
gian gần đây. Ceftriaxone là loại cephalospo-  
rin phổ rộng, có thời gian bán thải tương đối  
dài nên được sử dụng rộng rãi để dự phòng  
và điều trị nhiễm khuẩn trong thực hành lâm  
sàng. Trên thực tế, DIIHA vẫn là một biến  
chứng hiếm gặp nên dễ bị bỏ sót chẩn đoán  
hoặc chẩn đoán nhầm với những tình trạng  
bệnh nặng khác.  
Bệnh nhân chúng tôi báo cáo xuất hiện tình  
TCNCYH 142 (6) - 2021  
11  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
Mặc dù không xác định được kháng thể liên  
quan đến ceftriaxone do hạn chế của phòng  
xét nghiệm, chúng tôi vẫn nghĩ đến nguyên  
nhân gây tan máu ở bệnh nhân này là do  
ceftriaxone bởi những đặc trưng về mặt lâm  
sàng: tan máu tự miễn trong lòng mạch cấp  
tính xuất hiện sau dùng thuốc, hồi phục sau khi  
ngừng thuốc (nồng độ hemoglobin 47 g/L tăng  
lên 64 g/L trước điều trị IVIG). Một số nghiên  
cứu hồi cứu tổng hợp các ca bệnh trên y văn  
đều cho thấy DIIHA do ceftriaxone ở trẻ em  
chiếm 68 – 70% số ca.6,7 Hiện tượng tan máu  
do ceftriaxone xảy ra khá đột ngột với thời gian  
trung bình và thời gian trung vị từ khi tiếp xúc  
với thuốc đến khi xuất hiện triệu chứng tương  
ứng là 40 phút và 1 giờ (dao động từ 5 phút  
đến 5,6 giờ).7 Trong nghiên cứu 25 trường hợp  
DIIHA do ceftriaxone, nồng độ hemoglobin  
giảm rất thấp (19/25 trường hợp có HGB ≤ 50  
g/L, trong đó 16 ca là trẻ em), 19/25 trường  
hợp có đặc điểm tan máu nội mạch (5/25 ca  
không có dữ liệu), 6/25 trường hợp suy thận  
(16/25 ca không có dữ liệu).6 Trong một nghiên  
cứu khác với 37 trường hợp cho thấy nồng  
độ hemoglobin giảm ở mức trung bình 55 g/L,  
70% có test Coombs trực tiếp dương tính (6%  
âm tính, 24% không có dữ liệu), 70% tăng  
nồng độ LDH máu, 51% tăng nồng độ bilirubin  
máu, 46% suy thận cấp.7  
đã có kháng thể thường gây ra những trường  
hợp DIIHA nặng. Trong nghiên cứu 37 trường  
hợp DIIHA do ceftriaxone: 65% trường hợp đã  
từng sử dụng ceftriaxone trước đó, 32% không  
có dữ liệu, chỉ 3% không có tiền sử điều trị  
ceftriaxone. 32% số trường hợp đã có đợt tan  
máu nhẹ, tự hồi phục do sử dụng ceftriaxone  
trước đó.7 Điều này chứng tỏ DIIHA còn bị bỏ  
sót chẩn đoán ở nhiều trường hợp và làm tăng  
lên tầm quan trọng khi khai thác tiền sử điều  
trị thuốc. Một điều đáng ngạc nhiên, các kháng  
thể phụ thuộc thuốc cũng được phát hiện ở  
những người khỏe mạnh với hiệu giá kháng  
thể thấp hơn nhiều so với ở bệnh nhân phát  
triển DIIHA. Hiện tượng này có thể do quá  
trình tiếp xúc với kháng sinh được sử dụng  
trong chăn nuôi nhưng mối liên quan trên lâm  
sàng vẫn chưa rõ.2 Tuy nhiên, hiện tượng này  
có thể giải thích những trường hợp DIIHA xảy  
ra sớm ở lần đầu sử dụng thuốc. Bệnh nhân  
của chúng tôi chưa được sử dụng kháng sinh  
ceftriaxone trước đây, trong đợt bệnh này sau  
khi tiêm ceftriaxone 5 ngày mới xảy ra hiện  
tượng tan máu và ngay sau khi dừng thuốc  
nồng độ hemoglobin tự cải thiện một phần  
trước khi điều trị bằng IVIG.  
Hiện tượng tan máu ồ ạt, giảm nặng nồng  
độ hemoglobin cấp tính có thể gây ra các biến  
chứng nghiêm trọng như sốc (8%), ngừng  
tuần hoàn (16%), đông máu nội mạch rải rác  
(19%), thiếu máu các cơ quan.7 Tỉ lệ tử vong  
của DIIHA do ceftriaxone rất cao, đặc biệt ở  
trẻ em: tỉ lệ tử vong 30 – 36% tính chung cho  
tất cả các trường hợp, trong đó 64 – 67% số  
trường hợp tử vong là trẻ em.6,7 Ceftriaxone  
gây ra bệnh cảnh lâm sàng nặng hơn và tỉ lệ  
tử vong cao hơn so với các thuốc khác gây  
ra DIIHA có thể do cơ chế tạo kháng thể phụ  
thuộc thuốc loại IgM hoạt hóa bổ thể dẫn đến  
tan máu trong lòng mạch nặng.4,5,7  
Tỉ lệ suy thận cấp ở bệnh nhân DIIHA cao  
không chỉ do giảm tưới máu/thiếu máu thận vì  
giảm nồng độ hemoglobin và sốc mà còn do  
độc tính trên thận của hemin và hemoglobin  
tự do.8 Ngoài độc tính trên thận, hemin và  
hemoglobin tự do còn có những tác động tiền  
viêm, có thể làm trầm trọng thêm bệnh cảnh  
lâm sàng của bệnh nhân DIIHA.9  
Trong lần đầu tiên tiếp xúc với thuốc, hệ  
thống miễn dịch của bệnh nhân cần vài ngày  
để sản xuất ra kháng thể với thuốc.10 Đáp ứng  
miễn dịch thứ phát ở lần sử dụng thuốc sau khi  
Trên lâm sàng, nếu nghi ngờ DIIHA, điều  
12  
TCNCYH 142 (6) - 2021  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
quan trọng nhất là ngừng thuốc ngay lập tức.  
Bệnh nhân DIIHA nên theo dõi tại đơn vị điều  
trị tích cực để được chăm sóc hỗ trợ tối ưu  
và điều trị hỗ trợ tuần hoàn nếu cần. Chỉ định  
truyền khối hồng cầu với lượng cần thiết. Trong  
nhiều trường hợp đã báo cáo, bệnh nhân được  
chỉ định điều trị bằng steroid nhưng không có  
bằng chứng về hiệu quả điều trị, việc “điều trị  
thành công” bằng steroid thực chất là do việc  
ngừng sử dụng thuốc gây tan máu. Do đó,  
không khuyến cáo liệu pháp steroid cho DIIHA  
với những trường hợp do kháng thể phụ thuộc  
thuốc.1,2 Trong trường hợp DIIHA do kháng thể  
không phụ thuộc thuốc – tự kháng thể, có thể  
điều trị thử bằng steroid1 nhưng quan trọng  
nhất vẫn là ngừng thuốc để dừng kích thích  
miễn dịch. Ngoài ra, DIIHA do kháng thể không  
phụ thuộc thuốc nếu có bằng chứng của tan  
máu nội mạch có thể điều trị bằng IVIG.11 Tuy  
nhiên, sự cải thiện về lâm sàng của bệnh nhân  
cũng chưa khẳng định là do tác dụng của IVIG  
hay do ngừng thuốc gây tan máu. Trong một số  
trường hợp, phương pháp trao đổi huyết tương  
hoặc lọc huyết tương được chỉ định trong DIIHA  
để loại bỏ các kháng thể do thuốc ra khỏi huyết  
thanh bệnh nhân, hữu ích trong DIIHA do cơ  
chế hấp phụ thuốc hoặc suy thận nặng.7  
IV. KẾT LUẬN  
Tan máu miễn dịch liên quan đến thuốc là  
một biến chứng tuy hiếm gặp nhưng có thể gây  
tử vong nếu không được chẩn đoán và xử trí  
phù hợp. Ceftriaxone là thuốc được báo cáo  
gây tan máu miễn dịch thường gặp nhất gần  
đây, với biểu hiện lâm sàng nặng và tỉ lệ tử vong  
cao, đặc biệt ở trẻ em. Các bác sĩ lâm sàng cần  
khai thác kĩ tiền sử dụng kháng sinh trước khi  
chỉ định, không lạm dụng thuốc và nhận biết  
được các biểu hiện bất thường trong và sau khi  
dùng thuốc để chẩn đoán kịp thời và dừng ngay  
các thuốc nghi ngờ.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Garratty G. Drug-induced immune  
hemolytic anemia. Hematol Am Soc Hematol  
Educ Program. Published online 2009:73-79.  
doi:10.1182/asheducation-2009.1.73.  
2. Garratty G. Immune hemolytic anemia  
caused by drugs. Expert Opin Drug Saf.  
2012;11(4):635-642. doi:10.1517/14740338.20  
12.678832.  
3. Mayer B, Bartolmäs T, Yürek S, Salama A.  
Variability of Findings in Drug-Induced Immune  
Haemolytic Anaemia: Experience over 20 Years  
in a Single Centre. Transfus Med Hemotherapy.  
2015;42(5):333-339. doi:10.1159/000440673.  
Sau khi chẩn đoán DIIHAcần hội chẩn bác sĩ  
chuyên khoa dị ứng về việc chống chỉ định dùng  
thuốc gây DIIHA suốt đời và xem xét rất cẩn  
thận các thuốc khác trong nhóm vì có thể xảy ra  
phản ứng chéo giữa kháng thể phụ thuộc thuốc  
với các thuốc tương tự. Trường hợp kháng thể  
phụ thuộc ceftriaxone có thể phản ứng chéo  
với cefotaxime, cefpodoxime, cefamandole,  
cefoperazone.1,3 Với chẩn đoán tan máu miễn  
dịch liên quan đến ceftriaxone chúng tôi ngừng  
ngay ceftriaxone, do bệnh nhân có biểu hiện  
sốc và suy thận cấp chúng tôi quyết định điều  
trị IVIG và hội chẩn với chuyên khoa dị ứng để  
lựa chọn kháng sinh cho bệnh nhân.  
4. Arndt PA. Drug-induced immune hemolyt-  
ic anemia: the last 30 years of changes. Immu-  
nohematology. 2014;30(2):44-54.  
5. Leicht HB, Weinig E, Mayer B, Viebahn J,  
Geier A, Rau M. Ceftriaxone-induced hemolytic  
anemia with severe renal failure: a case report  
and review of literature. BMC Pharmacol  
Toxicol. 2018;19(1):67. doi:10.1186/s40360-  
018-0257-7.  
6. Arndt PA, Leger RM, Garratty G. Serologic  
characteristics of ceftriaxone antibodies in 25  
patients with drug-induced immune hemolytic  
anemia. Transfusion (Paris). 2012;52(3):602-  
TCNCYH 142 (6) - 2021  
13  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
612. doi:10.1111/j.1537-2995.2011.03321.x.  
pathophysiology of extracellular hemoglobin  
associated with enhanced oxidative reactions.  
Front Physiol. 2014;5:500. doi:10.3389/  
fphys.2014.00500.  
7.Neuman G, Boodhan S, Wurman I, et  
al. Ceftriaxone-induced immune hemolytic  
anemia. Ann Pharmacother. 2014;48(12):1594-  
1604. doi:10.1177/1060028014548310.  
10. Salama A, Mayer B. Diagnostic pitfalls  
of drug-induced immune hemolytic anemia.  
Immunohematology. 2014;30(2):80-84.  
8. Deuel JW, Schaer CA, Boretti FS, et al.  
Hemoglobinuria-related acute kidney injury is  
drivenbyintrarenaloxidativereactionstriggering  
a heme toxicity response. Cell Death Dis.  
2016;7:e2064. doi:10.1038/cddis.2015.392.  
11. Pierce A, Nester T. Pathology  
Consultation on Drug-Induced Hemolytic  
Anemia. Am J Clin Pathol. 2011;136(1):7-12.  
doi:10.1309/AJCPBVLJZH6W6RQM.  
9. Rifkind JM, Mohanty JG, Nagababu E. The  
Summary  
CEFTRIAXONE-INDUCED HEMOLYTIC ANEMIA:  
A LIFE-THREATENING COMPLICATION  
Drug induced immune hemolytic anemia (DIIHA) is a rare complication and often underdiagnosed.  
However, DIIHAmay lead to organ failure and can be fatal. Nowadays, ceftriaxone has been reported  
as one of the most common drugs causing DIIHA. We describe a 19-month-male diagnosed with  
pneumonia and treated with intravenous ceftriaxone twice daily at the local hospital. After 5 days  
of treatment, he suddenly developed tachycardia, became pale and had dark red urine so he was  
treated according to the protocol of anaphylaxis and transferred to the National Children’s Hospital.  
He was diagnosed with ceftriaxone-induced immune hemolytic anemia. After discontinuation of  
ceftriaxone and receiving intravenous immunoglobulin, his symptoms improved quickly. Ceftriaxone-  
induced immune hemolytic anemia is a rare but may cause immediately life-threatening condition.  
Treating physicians need to be aware for this complication to diagnose early and treat accordingly.  
An immediate withdrawal of the causative drug is essential to treat this condition.  
Keywords: Hemolysis, drug-induced hemolytic anemia, ceftriaxone, children.  
14  
TCNCYH 142 (6) - 2021  
pdf 6 trang yennguyen 15/04/2022 4500
Bạn đang xem tài liệu "Tan máu cấp do Ceftriaxone: Biến chứng nặng đe dọa tính mạng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftan_mau_cap_do_ceftriaxone_bien_chung_nang_de_doa_tinh_mang.pdf