Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của nhân viên y tế về rối loạn tự kỷ ở trẻ sau một năm can thiệp tại hai tỉnh Hòa Bình và Thái Bình
Hứa Thanh Thủy và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 02-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.02-2020)
BÀI BÁO NGHIÊN CỨU GỐC
Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của nhân viên y tế về rối loạn
tự kỷ ở trẻ sau một năm can thiệp tại hai tỉnh Hòa Bình và Thái Bình
Hứa Thanh Thủy1*, Nguyễn Thái Quỳnh Chi1, Nguyễn Thị Nga1, Đinh Thu Hà1, Nguyễn Thị
Hương Giang2, Nguyễn Thanh Hương1
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của nhân viên y tế (NVYT) về rối loạn tự
kỷ (RLTK) ở trẻ sau một năm triển khai chương trình truyền thông về RLTK ở trẻ em tại cộng đồng (từ
tháng 1/2018 đến tháng 1/2019) tại hai tỉnh Hòa Bình và Thái Bình.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu can thiệp so sánh trước sau không có nhóm chứng, với
cỡ mẫu 300 và 295 NVYT ở ba tuyến (xã, huyện và tỉnh) tương ứng với thời điểm trước can thiệp (TCT)
và sau can thiệp (SCT) được lựa chọn bằng phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn.
Kết quả: Về kiến thức, trong tổng số 14 câu hỏi, 13 câu có tỷ lệ trả lời đúng SCT cao hơn TCT (OR từ
1,17 - 4,73), trong đó sự thay đổi có ý nghĩa thống kê ở 5 câu về dấu hiệu cờ đỏ và 3 câu về sai lầm trong
điều trị RLTK. Với 5 câu hỏi (tổng là 25 điểm) đánh giá thái độ, điểm trung vị SCT là 17, cao hơn 1 điểm
so với TCT (p<0,05). Không có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê về thực hành khi nghi ngở trẻ mắc RLTK
của NVYT trước và sau can thiệp (p>0,05).
Kết luận: Chương trình can thiệp giúp nâng cao kiến thức và thái độ của NVYT về RLTK ở trẻ. Cần tiếp
tục duy trì chương trình để thấy được sự thay đổi về thực hành của NVYT.
Từ khóa: Tự kỷ, rối loạn tự kỷ, can thiệp, kiến thức, thái độ, thực hành, nhân viên y tế
ĐẶT VẤN ĐỀ
quả. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy thực
trạng chậm trễ trong chẩn đoán và can thiệp cho
trẻ RLTK (4, 5), và một trong những nguyên
nhân của tình trạng này là sự hạn chế về kiến
thức, thái độ, thực hành của các nhóm đối tượng
thường xuyên tiếp xúc với trẻ như người chăm
sóc trẻ (NCST), giáo viên mầm non (GVMN)
và nhân viên y tế (NVYT) (6-8). Nghiên cứu
tại Pakistan tiến hành trên 348 bác sỹ đa khoa
cho thấy chỉ có 44,6% đã từng nghe tới RLTK,
trong đó tỷ lệ nhận thức sai về nguyên nhân và
trị liệu của tự kỷ 45,2% và 38,3% (8). Thậm chí,
đối với nhóm bác sỹ thuộc chuyên ngành nhi
khoa và tâm thần, nghiên cứu tại Nigeria cũng
Rối loạn tự kỷ (RLTK), là một nhóm các rối
loạn phát triển phức hợp của não, đặc trưng bởi
những khó khăn trong tương tác xã hội, giao
tiếp và một loạt các hành vi và mối quan tâm
bị hạn chế hoặc bị lặp đi lặp lại (1). Các nghiên
cứu dịch tễ học gần đây ước tính tỷ lệ trẻ mắc
RLTK toàn cầu là 0,62% (2). Tại Việt Nam,
công bố mới về dịch tễ học tại ba tỉnh miền Bắc
cho thấy, tỷ lệ RLTK ở trẻ từ 18 đến 30 tháng
là 0,75% (3). Sàng lọc và chẩn đoán sớm RLTK
ở trẻ em trước 3 tuổi là chìa khóa cho việc thực
hiện can thiệp và hỗ trợ trẻ có RLTK đạt hiệu
*Địa chỉ liên hệ: Hứa Thanh Thủy
Email: htt@huph.edu.vn
1 Trường Đại học Y tế công cộng
2Bệnh viện Nhi Trung Ương
Ngày nhận bài: 03/4/2020
Ngày phản biện: 15/4/2020
Ngày đăng bài: 28/6/2020
98
Hứa Thanh Thủy và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 02-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.02-2020)
cho thấy kiến thức của đối tượng rất hạn chế,
với trung bình điểm kiến thức chỉ đạt 12,56/19
điểm (9).
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp so
sánh trước sau không có nhóm chứng được thực
hiện tại tỉnh Hòa Bình và Thái Bình. Thu thập
số liệu trước can thiệp (TCT) và sau can thiệp
(SCT) vào tháng 01/2017 và tháng 1/2019.
Một chương trình truyền thông nâng cao kiến
thức, thái độ, thực hành của NCST, GVMN
và NVYT về RLTK đã được triển khai thí
điểm tại hai tỉnh Hoà Bình và Thái Bình từ
năm 2017 đến 2018. Để cung cấp bằng chứng
tin cậy về kết quả của chương trình can thiệp,
nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu
“đánh giá sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực
hành của NVYT về RLTK ở trẻ sau một năm
can thiệp”.
Đối tượng nghiên cứu: NVYT không chuyên
về RLTK, có tiếp xúc với trẻ dưới 5 tuổi, được
chia thành 3 tuyến: tuyến xã (NVYT thôn và
CBYT xã), tuyến huyện (CBYT đang công tác
tại Khoa Khám bệnh, Khoa Nhi thuộc TTYT
hoặc TTYTDP và BVĐK huyện), và tuyến tỉnh
(CBYT đang công tác tại Khoa Khám bệnh,
Khoa nhi thuộc BVĐK tỉnh).
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: Cỡ mẫu
PHƯƠNG PHÁP TỔNG QUAN TÀI LIỆU
được tính toán theo công chức chọn mẫu hai tỷ lệ:
Với α = 0,05, β = 0,2; P1 và P2: Tỷ lệ NVYT có
thực hành đúng về RLTK ở trẻ thời điểm TCT
và SCT tương ứng là 0,65 và 0,80. Cỡ mẫu thực
tế cho 2 tỉnh TCT là 300 và SCT là 295.
Bộ công cụ được thiết kế dựa trên tham khảo
các nghiên cứu trên thế giới, thang đo đánh giá
kiến thức và thái độ được kiểm định tính giá trị
và độ tin cậy cho kết quả ở mức chấp nhận được
(cronbach alpha tương ứng 0,61 và 0,63) (10).
ĐTNC được chọn lựa theo phương pháp chọn
mẫu nhiều giai đoạn.
Thang đo kiến thức: gồm 14 câu hỏi (chia thành
3 nhân tố) dạng Đúng/Sai/Không biết. Mỗi câu
hỏi trả lời đúng được 2 điểm, sai 0 điểm và
“Không biết/phân vân” 1 điểm. Biến tổng hợp
Kiến thức theo từng nhân tố và Kiến thức chung
bằng tổng điểm số các câu hỏi trong nhân tố
hoặc của cả thang đo.
- Giai đoạn 1: tại mỗi tỉnh lựa chọn 1 thành
phố (TP) và 1 huyện: TP. Hòa Bình và Huyện
Lương Sơn (tỉnh Hòa Bình); TP. Thái Bình và
huyện Tiền Hải (tỉnh Thái Bình).
- Giai đoạn 2: Đối với NVYT tuyến xã: tại mỗi
thành phố/huyện, chọn ngẫu nhiên 1 phường/
xã cho mỗi khảo sát TCT và SCT. Chọn toàn
bộ NVYT tuyến xã tại các xã/phường được lựa
chọn. Đối với NVYT tuyến huyện và tỉnh: Xác
định khung mẫu riêng cho từng tuyến, với mỗi
tuyến lựa chọn ngẫu nhiên NVYT nhằm đảm
bảo cỡ mẫu ở mỗi tuyến là tương đương nhau.
NVYT đã tham gia khảo sát TCT được loại khỏi
khung mẫu SCT.
Thang đo thái độ: gồm 5 phát biểu theo thang
đo likert 1-5 (từ rất không tích cực đến rất tích
cực). Biến tổng hợp thái độ chung bằng tổng
điểm của toàn bộ thang đo.
Đánh giá thực hành: dựa trên 1 câu hỏi về xử trí
khi nghi ngờ trẻ mắc RLTK.
Phân tích số liệu
Số liệu được nhập bằng phần mềm Epidata 3.0
và phân tích bằng phần mềm SPSS 24. Kiểm
Bộ công cụ thu thập số liệu
99
Hứa Thanh Thủy và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 02-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.02-2020)
định Chi bình phương, Mann-whitney được áp
dụng phù hợp với đặc điểm của biến số.
NVYT tại thời điểm SCT có trình độ học vấn
cao hơn so với NVYT tại thời điểm TCT, trong
đó tỷ lệ có trình độ là trung cấp/cao đẳng chiếm
tỷ lệ cao nhất (SCT là 63,0% và TCT là 44,7%),
tiếp theo là trình độ đại học (SCT là 22,9%
và TCT là 20,4%). Tại thời điểm SCT chỉ có
khoảng 13% NVYT có trình độ dưới trung cấp,
trong khi đó tỷ lệ này tại thời điểm TCT là hơn
30%. Về bằng cấp chuyên môn, chiếm tỷ lệ
cao nhất là bằng y sĩ (SCT là 44,1% và TCT
là 37,3%), tiếp theo là bằng sơ cấp đối với thời
điểm TCT (33,0%) còn đối với thời điểm SCT
là y tá (16,8%), tỷ lệ có bằng bác sỹ là 15,1% và
chưa được đào tạo 10,4%.
Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được triển khai sau khi đã được Hội
đồng đạo đức trường Đại học Y tế công cộng
thông qua (Quyết định số 319/2016 /YTCC-
HD3).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
NVYT tham gia nghiên cứu ở thời điểm TCT
(n=300) và SCT (n=295) không có sự khác nhau
về tuổi trung bình, giới, dân tộc, và vị trí công
tác. Đa số NVYT là nữ (khoảng 80-85%), dân
tộc Kinh (khoảng 75%) hoặc Mường (khoảng
25%), có độ tuổi trung bình là 44,4 (SD=12,3)
và 41,0 (SD=11,1). Về vị trí công tác, khoảng
30% đối tượng tham gia nghiên cứu là y tế thôn
bản và khoảng 70% là CBYT ở xã/huyện/tỉnh.
2. Sự thay đổi kiến thức của NVYT về RLTK
ở trẻ
Sự thay đổi kiến thức của NVYT về RLTK được
phân tích theo ba cách: đánh giá sự thay đổi tỷ
lệ trả lời đúng đối với từng câu hỏi (Bảng 1);
đánh giá sự thay đổi kiến thức theo từng nhân
tố và kiến thức chung của thang đo (Bảng 2).
Bảng 1. Sự thay đổi kiến thức của NVYT về RLTK ở trẻ đối với từng nội dung
Trả lời Đúng
Kiểm định χ2
OR
Nội dung
TCT
(n=300)
SCT
(n=295)
p
n
%
n
%
Nhân tố 1: Kiến thức về dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc RLTK
Trẻ 9 tháng không đáp ứng được tương tác
âm thanh, nụ cười, không giơ tay đòi bế
164 54,7 251 85,1 4,73 <0,001
Trẻ 12 tháng chưa biết nói bập bẹ
Trẻ 12 tháng chưa biết chỉ ngón trỏ
Trẻ 16 tháng chưa nói được từ đơn
Trẻ 24 tháng chưa nói được 2 từ đơn
117 39,0 173 58,6 2,22 <0,001
117 39,0 208 70,5 3,74 <0,001
144 48,0 213 72,2 2,81 <0,001
171 57,0 239 81,0 3,22 <0,001
Nhân tố 2: Kiến thức cơ bản về RLTK
Tự kỷ là một dạng rối loạn cảm xúc, ảnh hưởng
đến sự kiểm soát cảm xúc của trẻ.
275 91,7 277 93,9 1,40
281 93,7 274 92,9 0,88
0,293
0,702
Chẩn đoán tự kỷ bằng cách nói chuyện với
NCST về các mốc phát triển kết hợp với quan
sát giao tiếp, hành vi của trẻ.
100
Hứa Thanh Thủy và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 02-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.02-2020)
Trả lời Đúng
Kiểm định χ2
Nội dung
TCT
(n=300)
SCT
(n=295)
OR
p
n
%
n
%
Biện pháp trị liệu hiệu quả cho trẻ tự kỷ là tập
luyện vận động
273 91,0 272 92,2 1,17
285 95,0 284 96,3 1,36
284 94,6 286 96,9 1,79
0,597
0,448
0,165
NCST có thể phát hiện các dấu hiệu bất thường
của trẻ nghi mắc tự kỷ.
GVMN có thể phát hiện các dấu hiệu bất
thường của trẻ nghi mắc tự kỷ.
Nhân tố 3: Kiến thức sai lầm về “điều trị” RLTK ở trẻ
Có thể “điều trị” khỏi cho trẻ tự kỷ bằng
thuốc Tây y *.
125 41,7 208 70,5 3,35 <0,001
103 34,3 191 64,7 3,51 <0,001
Có thể “điều trị” khỏi cho trẻ tự kỷ bằng
châm cứu, bấm huyệt *.
Có thể “điều trị” khỏi cho trẻ tự kỷ bằng
cách uống thuốc đông y để giải trừ chất độc
khỏi cơ thể *.
172 57,3 249 84,4 3,51 <0,001
Ghi chú: (*): Là phát biểu sai về RLTK
Kết quả Bảng 1 cho thấy, 13/14 câu hỏi có tỷ lệ
ĐTNC trả lời đúng tại thời điểm SCT cao hơn
so với TCT. Đặc biệt, sự thay đổi này có ý nghĩa
thống kê (p<0,001) ở cả 5 câu hỏi về dấu hiệu
cờ đỏ nghi ngờ trẻ RLTK và 3 câu hỏi liên quan
đến kiến thức sai lầm của ĐTNC về cách cách
trị liệu RLTK phổ biến tại Việt Nam.
Bảng 3 cho thấy, điểm trung vị đối với nhóm
kiến thức về dấu cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc RLTK
và nhóm kiến thức về sai lầm trong “điều trị”
RLTK ở trẻ tại thời điểm SCT cao hơn so với
TCT (p<0,001). Còn đối với nhóm kiến thức cơ
bản, điểm trung vị trước và SCT không có sự
thay đổi (p>0,05). Đối với biến tổng hợp kiến
thức chung vể RLTK, điểm trung vị tại thời
điểm SCT cao hơn so với TCT (22 điểm so với
20 điểm, p<0,001).
Khi phân tích sự thay đối trước và sau can thiệp
theo từng nhân tố và theo cả thang đo, kết quả
Bảng 2. Sự thay đổi kiến thức theo từng nhân tố và kiến thức chung của NVYT
Trung vị (iqr)
Giá trị p
TCT
SCT
Nhóm kiến thức
(Kiểm định
(n=193)
(n=226)
Mann-Whitney)
Kiến thức về dấu hiệu nghi ngờ trẻ mắc
RLTK
6 (5)
8 (4)
<0,001
Kiến thức cơ bản về RLTK
10 (4)
3 (3)
10 (4)
6 (2)
0,855
<0,001
<0,001
Kiến thức sai lầm về điều trị RLTK
Kiến thức chung về RLTK ở trẻ
20 (10)
22 (8)
101
Hứa Thanh Thủy và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 02-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.02-2020)
3. Sự thay đổi thái độ của NVYT về RLTK ở trẻ
Bảng 3. Sự thay đổi thái độ của NVYT về RLTK ở trẻ
Trung vị
(khoảng tứ phân vị)
Nội dung
p
TCT SCT
(n=300) (n=295)
Tôi cho rằng trẻ tự kỷ đều bị thiểu năng trí tuệ
3 (2)
4 (0)
4 (2)
4 (1)
4 (0)
4 (1)
<0,001
0,124
Tôi cho rằng tự kỷ không thể cải thiện được
Tôi cho rằng trẻ tự kỷ luôn gây rắc rối cho những trẻ chơi cùng
<0,001
Tôi cảm thấy trẻ tự kỷ thường có hành vi gây hại đến người
xung quanh
4 (1)
4 (0)
0,135
Tôi nghĩ rằng trẻ mắc tự kỷ cần được học tại các trường/lớp
chuyên biệt.
2 (1)
2 (1)
0,215
Thái độ chung về RLTK ở trẻ của NVYT
16 (3)
17 (3)
<0,001
3.4. Sự thay đổi thực hành của NVYT về xử
trí sớm khi nghi ngờ trẻ RLTK
Bảng 3 cho thấy, điểm trung vị ở các phát biểu:
“Tôi cho rằng trẻ tự kỷ đều bị thiểu năng trí tuệ”
và “Tôi cho rằng trẻ tự kỷ luôn gây rắc rối cho
những trẻ chơi cùng” và biến tổng hợp thái độ
chung về RLTK của NVYT tại thời điểm SCT
cao hơn TCT (p<0,001). Như vậy, can thiệp đã
làm thay đổi thái độ của NVYT đối với trẻ tự kỷ
theo hướng tích cực hơn.
Tương ứng tại thời điểm TCT và SCT, có
110/300 (38,2%) và 174/275 (63,3%) NVYT đã
từng quan sát và nghi ngờ trẻ mắc RLTK, vào
thời điểm trẻ 25-30 tháng. Đa phần là con của
hàng xóm/bạn bè/họ hàng (khoảng 80%), một
số ít là trẻ đi khám bệnh (dưới 10%).
102
Hứa Thanh Thủy và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 02-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.02-2020)
86.4 87.4
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
32.8
31
29.1
23.6
7.4
7.3
Không làm gì
Khuyên
Tư vấn Tìm và đưa
NCST đưa NCST cách tài liệu cho
trẻ đi chăm sóc trẻ NCST
TCT SCT
tại nhà
Hình 1: Sự thay đổi thực hành của NVYT khi nghi ngờ trẻ RLTK trước và sau can thiệp
Kết quả Hình 1 cho thấy, tại thời điểm SCT tỷ
lệ chọn phương án “khuyên NCST đưa trẻ đi
khám bác sỹ”; “Tư vấn cho NCST cách chăm
sóc trẻ tại nhà” hay “Tìm và đưa tài liệu cho
NCST” đều cao hơn so với TCT, tuy nhiên sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Đối với phương án không hợp lý nhất: “Không
làm gì cả”, tỷ lệ ĐTNC chọn thấp (khoảng 7%)
và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê tại
hai thời điểm TCT và SCT.
can thiệp và có thể nói là khá khả quan khi so
sánh với kết quả của một số nghiên cứu trên thế
giới. Ví dụ, nghiên cứu của K. L. Daniel và cộng
sự (2009) đánh giá chương trình truyền thông
“Nhận biết dấu hiêu, Hành động sớm” tại Hoa
Kỳ sau 3 năm (năm 2007 so với năm 2004) cho
thấy, tỷ lệ NVYT có kiến thức đúng về các dấu
hiệu nghi ngờ trẻ mắc RLTK tăng từ 74% lên
87% (p<0,05) (11). Điều này có thể là do sự khác
biệt về quy mô và kênh truyền thông của chương
trình can thiệp. Đối với can thiệp ở quy mô quốc
gia sử dụng kênh truyền thông đại chúng (truyền
hình, truyền thanh, trang web, video clip…) như
chiến dịch truyền thông Nhận biết dấu hiệu –
hành động sớm, khả năng tiếp cận của đối tượng
đích đến các hoạt động của chương trình có thể
là hạn chế hơn so với can thiệp được triển khai ở
quy mô nhỏ, kết hợp cả hình thức truyền thông
đại chúng (banner, áp phích và loa phát thanh)
và truyền thông nhóm/cá nhân (phát tận tay tờ
BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tại thời điểm SCT,
NVYT có sự cải thiện đáng kể về kiến thức liên
quan đến các dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ mắc
RLTK so với thời điểm TCT với mức tăng từ 20-
30% (p<0,05) và điểm trung vị tăng từ 6 lên 8
điểm (p<0,001). Đây chính là chỉ báo quan trọng
đầu tiên phản ánh hiệu quả của chương trình
103
Hứa Thanh Thủy và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 02-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.02-2020)
rơi, sách mỏng, xem video, tập huấn và thảo luận
nhóm…) như nghiên cứu can thiệp của chúng
tôi (11). Lý giải này cũng phù hợp với kết quả
nghiên cứu về tỷ lệ tiếp cận với chương trình
truyền thông: đối với chương trình “Nhận biết
dấu hiệu – hành động sớm”, tỷ lệ CBYT nghe
nói về chiến dịch là 43% (11); trong khi đó với
nghiên cứu này, tỷ lệ là 92,9%.
và không có thái độ kỳ thị với trẻ RLTK. Tuy
nhiên có đến 60% NVYT đồng ý với nhận định
“trẻ RLTK cần được học các trường lớp chuyên
biệt”. Kết quả này khá tương đồng với nghiên
cứu của Rahbar và cộng sự (2011) tại Karachi –
Pakistan, có tới 80% CBYT cho rằng trẻ RLTK
nên được giáo dục ở trường đặc biệt; và hơn
60% cho rằng trẻ RLTK đang bị kỳ thị hoặc chịu
những ý kiến tiêu cực trong xã hội (8). Tại thời
điểm SCT, điểm trung vị thái độ chung về RLTK
của NVYT cao hơn so với TCT (17 điểm so với
16 điểm, p<0,001). Đặc biệt NVYT đã có thái độ
tích cực hơn đối với trẻ tự kỷ, tỷ lệ không đồng ý
với phát biểu “Tôi cho rằng trẻ tự kỷ đều bị thiểu
năng trí tuệ” và “Tôi cho rằng trẻ tự kỷ luôn gây
rắc rối cho những trẻ chơi cùng” SCT cao hơn
so với TCT (p<0,001). Những kết quả này thể
hiện NVYT đã có cái nhìn thiện cảm hơn về trẻ
RLTK, từ đó có thể sẽ quan tâm đến trẻ và gia
đình của trẻ RLTK hơn, sẽ là người động viên gia
đình tham gia vào mô hình quản lý.
Nhiều nghiên cứu tại Việt Nam đã cho thấy thực
trạng trẻ mắc RLTK được chẩn đoán và điều trị
muộn. Một trong những nguyên nhân của tình
trạng này là do nhận thức sai lầm của cộng đồng
về nơi cung cấp dịch vụ y tế và khả năng chữa
trị cho trẻ RLTK. Họ cho rằng các dịch vụ như
phòng khám đông y, châm cứu bấm huyệt có
thế chữa khỏi hoàn toàn cho trẻ RLTK (12, 13).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tại thời điểm SCT,
CBYT đã có sự cải thiện về kiến thức liên quan
đến những sai lầm trong điều trị RLTK so với
TCT với mức tăng khoảng 30%. Kết quả này
đã cung cấp thêm bằng chứng chứng minh hiệu
quả của việc áp dụng cách tiếp cận giáo dục sức
khỏe và truyền thông nâng cao kiến thức của
chương trình can thiệp.
Về thực hành, kết quả nghiên cứu cho thấy
không có sự khác biệt về thực hành của đối
tượng trước và sau can thiệp. Điều này có thể
lý giải do tại thời điểm TCT, NVYT đã có thực
hành xử trí tốt khi nghi ngờ trẻ mắc RLTK và do
thời gian can thiệp chưa đủ dài để có thể nhận
thấy sự thay đổi trong thực hành của NVYT.
Đối với các nội dung kiến thức liên quan tới
cách chẩn đoán, can thiệp hiệu quả và vai trò
của NCST và GVMN trong việc phát hiện dấu
hiệu sớm bất thường ở trẻ, kết quả nghiên cứu
cho thấy tỷ lệ trả lời đúng SCT cao hơn so với
TCT, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p>0,05). Đây cũng chính là những nội
dung mà NCST đã có kiến thức tốt tại thời điểm
TCT, do đó không có sự thay đổi rõ rệt tại thời
điểm SCT.
Bên cạnh những kết quả thu được khả quan,
nghiên cứu cũng có một số điểm hạn chế cần
được lưu ý bao gồm: thiết kế nghiên cứu chưa
có nhóm chứng, địa bàn nghiên cứu là hai tỉnh
khu vực miền Bắc nên chưa đảm bảo tính đại
diện cho toàn bộ Việt Nam và câu hỏi đánh giá
thực hành mới chỉ dùng lại ở hành vi xử trí khi
nghi ngờ trẻ mắc RLTK, chưa đánh giá được
các chỉ số sâu hơn như thực hành sàng lọc, chẩn
đoán rối loạn phát triển và RLTK ở trẻ.
Các kết quả nghiên cứu trên cùng với kết quả
khá tích cực khi so sánh điểm trung vị kiến thức
chung về RLTK ở trẻ của đối tượng SCT so với
TCT (tăng từ 20 lên 22 điểm) một lần nữa có
thể khẳng định hiệu quả nâng cao kiến thức về
RLTK ở trẻ của chương trình can thiệp tại Hòa
Bình và Thái Bình.
KẾT LUẬN
Sau 1 năm can thiệp, chương trình truyền thông
nâng cao nhận thức về RLTK ở trẻ tại cộng đồng
đã đạt mang lại những thay đổi tích cực về kiến
Tại thời điểm TCT, NVYT đã có thái độ tương
đối tích cực với các can thiệp cho trẻ RLTK
104
Hứa Thanh Thủy và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 02-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.02-2020)
5. Baio J, Wiggins L, Christensen DL, Maenner
MJ, Daniels J, Warren Z, et al. Prevalence of
Autism Spectrum Disorder Among Children
Aged 8 Years - Autism and Developmental
Disabilities Monitoring Network, 11 Sites,
United States, 2014. Morbidity and mortality
weekly report Surveillance summaries
(Washington, DC : 2002). 2018;67(6):1-23.
6. Alamri A, Tyler-Wood T. Teachers’ Attitudes
Toward Children with Autism: A Comparative
Study of the United States and Saudi Arabia.
The Journal of the International Association of
Special Education. 2016;16:14-25.
7. Wang J, Zhou X, Xia W, Sun C, Wu L, Wang
J. Autism awareness and attitudes towards
treatment in caregivers of children aged 3-6
years in Harbin, China. Social psychiatry and
psychiatric epidemiology. 2012;47(8):1301-8.
8. Rahbar MH, Ibrahim K, Assassi P. Knowledge
and attitude of general practitioners regarding
autism in Karachi, Pakistan. Journal of autism and
developmental disorders. 2011;41(4):465-74.
9. Igwe MN, Ahanotu AC, Bakare MO, Achor
JU, Igwe C. Assessment of knowledge about
childhood autism among paediatric and
psychiatric nurses in Ebonyi state, Nigeria.
Child and adolescent psychiatry and mental
health. 2011;5(1):1.
10. Thủy HT, Chi NTQ, Nga NT, Giang NTH,
Hương NT. Tính giá trị và độ tin cậy của thang
đo kiến thức về rối loạn tự kỷ ở trẻ: kết quả
nghiên cứu đối với cán bộ y tế tại hai tỉnh Hòa
Bình và Thái Bình. Tạp chí Y học thực hành.
2019;7 (1103) 2019:116-20.
11. Daniel KL, Prue C,TaylorMK,Thomas J, Scales
M. ‘Learn the signs. Act early’: a campaign to
help every child reach his or her full potential.
Public health. 2009;123 Suppl 1:e11-6.
12. Khánh HB. Kiến thức thái độ về hội chứng tự
kỷ và một số yếu tố liên quan của người chăm
sóc trẻ dưới 3 tuổi ở phường Thành Công và
phường Phúc Xá, quận Ba Đình, thành phố Hà
Nội [Luận văn thạc sĩ YTCC]. Hà Nội: Đại học
Y tế công cộng; 2011.
13. Lan PT. Kiến thức, thực hành và nhu cầu được
cung cấp thông tin của cha mẹ có con tự kỷ tại
trường chuyên biệt An Phúc Thành tại Hà Nội
năm 2016 [Luận văn thạc sĩ Y tế công cộng]. Hà
Nội: Trường Đại học Y tế công cộng; 2016.
thức và thái độ của NVYT về RLTK. NVYT đã
hiểu rõ hơn về các dấu hiệu cờ đỏ nghi ngờ trẻ
mắc RLTK và loại bỏ những sai lầm trong cách
trị liệu cho trẻ tự kỷ; có thái độ tích cực đối với
RLTK ở trẻ. Tuy nhiên, do thời gian can thiệp
ngắn, sự thay đổi về thực hành đối tượng vẫn
chưa được chứng minh.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu là một phần của đề
tài cấp nhà nước “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ
học, phương pháp chẩn đoán và can thiệp sớm
rối loạn tự kỷ ở trẻ em tại cộng đồng” do trường
Đại học Y tế công cộng chủ trì. Chúng tôi xin
chân thành cảm ơn GS.TS. Bùi Thị Thu Hà –
chủ nhiệm đề tài, các đơn vị, cá nhân: Sở Y tế,
UBND tỉnh/huyện/xã và các CBYT tại hai tỉnh
Hòa Bình, Thái Bình đã tạo điều kiện, hỗ trợ
chúng tôi trong quá trình thực hiện nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. World Health Organization. Questions and
answers about autism spectrum disorders
int/features/qa/85/en/.
2. World Health Organization. Comprehensive
and coordinated efforts for the management
of autism spectrum disorders 2013 [Available
eb133/b133_4-en.pdf.
3. Hoang VM, Le TV, Chu TTQ, Le BN, Duong
MD, Thanh NM, et al. Prevalence of autism
spectrum disorders and their relation to selected
socio-demographic factors among children
aged 18–30 months in northern Vietnam, 2017.
International Journal of Mental Health Systems.
2019;13(1):29.
4. Hrdlicka M, Vacova M, Oslejskova H,
Gondzova V, Vadlejchova I, Kocourkova J, et al.
Age at diagnosis of autism spectrum disorders:
is there an association with socioeconomic
status and family self-education about autism?
Neuropsychiatric disease and treatment.
2016;12:1639-44.
105
Hứa Thanh Thủy và cộng sự
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 02-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.02-2020)
Knowledge, attitudes and practices of healthcare workers about autism
spectrum disorders in Hoa Binh and Thai Binh: results after one-year
intervention
Hua Thanh Thuy1, Nguyen Thai Quynh Chi1, Nguyen Thi Nga1, Dinh Thu Ha1, Nguyen Thi
Huong Giang, Nguyen Thanh Huong1
1Hanoi University of Public Health
2 Vietnam National Children’s Hospital.
Objective: To evaluate the changes in knowledge, attitudes and practices of healthcare workers
(HCWs) on autism spectrum disorders (ASD) after one year of implementing a community-based
communicationinterventiononADS(fromJanuary2018toJanuary2019)inHoaBinhandThaiBinh
provinces. Methods: This is an interventional study without a control group and pre-post evaluations
with 300 HCWs at commune, district and provincial levels in pre-intervention evaluation and 295
participated in post-intervention selected by using multi-stage cluster. Results: The percentages of
HCWs who had correct answers for 13/14 questions onASD knowledge increased after intervention
(OR from 1.17 to 4.73), in which the changes were statistically significant in 5 question about red
flags for ASD and 3 questions about mistakes in treatment of ASD. The median score of attitudes
also increased (17 points vs 16 points, post vs pre-intervention, p<0.05). The results indicated
an insignificant change in HCWs practices on ASD early actions (p> 0.05). Conclusion: The
community-based communication intervention improved the knowledge and attitudes of HCWs on
ASD and should be continued to evaluate the change in practice of HCWs.
Keywords: Autism, autism disorder, intervention, knowledge, attitudes, practices, health workers
106
Bạn đang xem tài liệu "Sự thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành của nhân viên y tế về rối loạn tự kỷ ở trẻ sau một năm can thiệp tại hai tỉnh Hòa Bình và Thái Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- su_thay_doi_kien_thuc_thai_do_thuc_hanh_cua_nhan_vien_y_te_v.pdf